ĐỨNG DẬY! TA ĐI NÀO!
(TỰ THUẬT CỦA ĐGH GIOAN PHAOLÔ II)
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Hương Vĩnh chuyển ngữ
CHƯƠNG V:
TẬP THỂ
TÍNH GIÁM MỤC
“Người lập Nhóm Mười Hai,
để các ông ở với Người
và để Người sai các ông đi rao
giảng.” (Mc 3, 14)
1.- Giám mục trong giáo phận mình
Đối với tôi, Công Đồng Vatican II là một khích lệ lớn
lao để tăng cường hoạt động mục vụ của tôi. Thật vậy, kể từ nay, mọi việc phải
bắt đầu từ đó.
Ngày 3 tháng 6 năm 1963 Đức Thánh Cha Gioan XXIII
băng hà. Chính ngài đã triệu tập Công Đồng và Công Đồng được khai mạc ngày 11
tháng 10 năm 1962. Tôi được tham dự ngay từ buổi đầu. Khóa đầu tiên khai mạc
vào tháng 10 và bế mạc ngày 8 tháng 12. Tôi đã tham dự các khóa họp với các
nghị phụ, trong tư cách giám mục phó của tổng giáo phận Cracovie.
Sau khi Đức Gioan XXIII băng hà, vào ngày 21 tháng 6
năm 1963, mật nghị hồng y đã bầu tân giáo hoàng là Đức Tổng Giám Mục Milan, tức
Đức Hồng Y Giovanni Battista Montini, với danh hiệu Phao-lồ VI. Vào mùa
thu năm đó, Công Đồng tiếp tục khóa hai và tôi cũng có mặt, cũng một chức vị.
Ngày 13 tháng giêng năm 1964, tôi được bổ nhiệm làm
tổng giám mục Cracovie. Sự bổ nhiệm của tôi được công bố ít lâu sau đó và ngày
8 tháng 3, vào Chúa nhật “Laetare”, tôi đã tiến vào nhà thờ chính tòa
Wawel cách trọng thể.
Tôi nhớ lại, khi bước vào ngưỡng cửa nhà thờ chính
tòa, Giáo Sư Franciszek và Đức Cha Bohdan Niemczewski đã đón tiếp
tôi. Họ dẫn tôi vào trong nhà thờ chính tòa và ở đó tôi phải ngồi vào ngai giám
mục đã để trống sau khi Đức Hồng Y Sapieha và Đức Tổng Giám Mục Baziak qua đời.
Tôi không nhớ lại chính xác bài diễn văn tôi đọc lúc
bấy giờ, nhưng tôi còn nhớ đó là những tâm tư đầy xúc động liên quan đến nhà
thờ chính tòa Wawel cũng như di sản văn hóa của ngôi thánh đường đó mà tôi đã
gắn bó “mãi mãi”, như tôi đã nhấn mạnh trên đây.
2.- Dây pallium
Tôi cũng nghĩ tới dấu chỉ sâu kín và cảm động của dây pallium
mà tôi nhận lãnh trong cùng năm 1964 đó. Trên toàn thế giới, bằng dấu chỉ
hiệp nhất với Chúa Kitô Mục Tử Nhân Hậu và với vị đại diện của Ngài để chu toàn
trọng trách của Thánh Phê-rô, các tổng giám mục mang trên vai dấu chỉ đó, được
đan dệt bằng lông cừu làm phép ngày lễ Thánh
Agnès.
Trong cương vị giáo hoàng, nhiều lần tôi đã trao lại
dây đó cho những tân tổng giám mục, vào dịp lễ hai Thánh Tông Đồ Phê-rô và
Phao-lồ. Biểu tượng đẹp đẽ biết bao!
Dưới hình dáng dây pallium, chúng ta có thể
nhận ra hình ảnh con chiên mà Vị Mục Tử Nhân Hậu mang trên vai để giải cứu và
nuôi dưỡng nó. Qua biểu tượng đó, trước tiên đã hiện rõ điều hợp nhất tất cả
chúng ta, trong tư cách giám mục: đó là sự ân cần và trách nhiệm đối với dân
chúng đã được giao phó cho chúng ta. Chính trên nền tảng của sự ân cần và trách
nhiệm đó mà chúng ta phải vun trồng và bảo vệ sự hợp nhất.
Kể từ ngày 8 tháng 3 năm 1964 là ngày tôi nhận lãnh
tổng giáo phận Cracovie một cách long trọng, tôi đã tham gia Công Đồng, nhưng
kể từ đó với tư cách tổng giám mục tổng giáo phận và cứ như thế cho đến ngày
Công Đồng bế mạc vào ngày 8 tháng 12 năm 1965.
Kinh nghiệm đối với Công Đồng, những cuộc gặp gỡ trong
đức tin với các giám mục thuộc Giáo Hội hoàn vũ và cùng một trật, trách nhiệm
mới được giao phó đối với Giáo Hội Cracovie, đã cho phép tôi hiểu sâu sắc hơn
vị thế của giám mục trong Giáo Hội.
3.- Giám mục trong Giáo Hội địa phương của
ngài
Vị thế mà Chúa nhân từ đã phân định cho giám mục trong
Giáo Hội như thế nào? Ngay từ đầu, căn cứ vào sự kiện giám mục được hòa
nhập vào sự kế tục các tông đồ, trải dài trước mắt họ là Giáo Hội hoàn
vũ.
Ngài được sai đi cho toàn thế giới, và
chính vì lý do đó, ngài trở thành dấu chỉ về Công Giáo tính của Giáo Hội. Tôi
đã nhận thức chiều kích hoàn vũ đó của Giáo Hội kể từ khi tôi biết đọc lên
những lời tuyên xưng đức tin: “Tôi tin kính Giáo Hội duy nhất, thánh thiện,
Công giáo và tông truyền.”
Rõ ràng chính cộng đồng hoàn vũ đó đã thu nhận nơi
mình những chứng tá phát sinh từ nhiều không gian, thời gian và những nhân vật
được Thiên Chúa lựa chọn cùng hợp nhất với nhau “từ A-dong, từ Abel là người Công Chính cho đến người được lựa chọn sau
cùng” (Lumen Gentium, số 2).
Những chứng tá và những liên kết đó được nhận thức một
cách hùng hồn trong phụng vụ tấn phong giám mục, đến cả việc nhắc nhở sự nguyên
vẹn của lịch sử cứu độ, với hạn kỳ kết thúc là sự hợp nhất mọi người trong Nước
Thiên Chúa.
Hết mọi giám mục, trong khi mang trên mình trách nhiệm
của Giáo Hội hoàn vũ, cũng được đặt để ở trung tâm điểm của một Giáo Hội đặc
biệt, tức cộng đoàn mà Chúa Kitô đã giao phó cho ngài, để rồi qua mục vụ giám
mục của ngài, được thể hiện một cách luôn trọn hảo hơn huyền nhiệm Giáo Hội của
Chúa Kitô, dấu chỉ phần rỗi cho tất cả chúng ta.
Trong Tông Hiến Lumen gentium, chúng ta đọc
được:
“Giáo Hội của
Chúa Kitô đó hiện diện thật sự trong hết mọi hội đồng hợp pháp của các tín hữu
địa phương. Họ hợp nhất chặt chẽ với các mục tử của họ, cũng được gọi là những
Giáo Hội trong Tân Ước […]
Trong hết mọi cộng
đoàn quây quần chung quanh bàn thờ, dưới mục vụ thánh của Đức Giám Mục, được tỏ
lộ biểu tượng của đức ái và của sự ‘hợp nhất Nhiệm Thể Chúa Kitô mà ngoài đó ra
không thể có được sự cứu độ’.
Trong những cộng
đoàn đó, cho dẫu thông thường chỉ nhỏ bé và nghèo nàn hoặc sống rải rác, Chúa
Kitô vẫn hiện diện, do bởi Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, Công giáo và tông
truyền, họp lại với nhau” (số 26).
Huyền nhiệm của ơn gọi giám mục trong Giáo Hội hệ tại
bởi sự kiện ngài vừa hiện diện trong một cộng đoàn hữu hình đặc biệt mà ngài đã
được giao phó, cùng một trật ngài cũng ở trong Giáo Hội hoàn vũ. Cần thiết phải
hiểu rõ sự liên kết đặc biệt đó.
Hiển nhiên đó là một sự giản lược và cuối cùng là một
sự không thấu hiểu được gây nên bởi huyền nhiệm theo đó giám mục đại diện Giáo
Hội hoàn vũ trong cộng đoàn giáo phận – đối với tôi đó là Cracovie – và đồng
thời ngài đại diện cộng đoàn giáo phận trên bình diện Giáo Hội hoàn vũ, cũng
giống như các đại sứ đại diện quốc gia của họ và những cơ quan quốc tế.
Giám mục là dấu chỉ của sự hiện diện Chúa Kitô trong
trần thế. Và đó là một sự hiện diện đưa đến việc gặp gỡ giữa những con người
với nhau ở bất cứ nơi nào. Chúa đã gọi họ đích danh, đã vực họ dậy, đã yên ủi
họ bằng việc loan báo Tin Mừng và tập họp họ chung quanh cùng một bàn tiệc.
Do đó giám mục thuộc về trần gian trọn vẹn và về Giáo
Hội hoàn vũ, ngài sống ơn gọi của mình, xa cách những thành phần khác trong
giám mục đoàn, để được liên kết chặt chẽ với những người mà ngài qui tụ trong
Giáo Hội đặc thù của ngài nhân danh Chúa Kitô.
Cùng một trật, chính vì những người mà ngài qui tụ,
ngài trở nên biểu tượng của sự vượt thoát tình trạng đơn độc của họ, bởi vì
ngài làm cho họ liên hệ với Chúa Kitô. Và ở trong Chúa Kitô, họ cũng liên hệ
với hết những ai đã được Chúa chọn trước khi tạo dựng vũ trụ, cũng như với
những người ngày nay Chúa đang kết hợp lại trên toàn thế giới, và với những
người Ngài sẽ tập hợp sau họ trong Giáo Hội của Ngài, cho đến những kẻ được kêu
gọi trong giờ sau hết.
Hết thảy mọi người được hiện diện trong Giáo Hội địa
phương qua mục vụ và biểu tượng của giám mục.
Giám mục thi hành mục vụ của mình với tinh thần trách
nhiệm thực sự khi ngài biết dấy lên nơi tín hữu của ngài một tình cảm hiệp
thông mãnh liệt với chính ngài và qua bản thân ngài, với hết mọi tín hữu của
Giáo Hội trên khắp hoàn vũ.
Chính tôi đã có kinh nghiệm về sự hiệp nhất thân tình
đó trong cuộc sống của tôi ở Cracovie, cùng với những linh mục, các dòng tu và
giáo dân. Xin Chúa thưởng công bội hậu cho họ!
Thánh Augustinô, khi van xin sự giúp đỡ và
hiểu biết, thường có thói quen ngõ lời với tín hữu như sau:
“Đa số là Kitô
hữu mà không cần phải là giám mục. Họ đến với Chúa bằng một con đường có lẽ dễ
dàng hơn và chắc chắn họ bước đi với một nhịp điệu thanh thoát như mang lên
mình một gánh nhẹ nhàng.
Về phần chúng tôi,
chúng tôi là Kitô hữu, vì vậy chúng tôi sẽ phải trả lẽ với Chúa về chính cuộc
đời chúng tôi. Vả lại chúng tôi là giám mục, do đó chúng tôi sẽ phải trả lẽ với
Chúa về sự quản lý của chúng tôi”
(Bài Giảng 46, 1, 2: Giáo Phụ Học La-tinh:
38, 271).
Đó là huyền nhiệm về sự gặp gỡ thần bí của những người
“thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước
và mọi ngôn ngữ” (Kh 7, 9) với Chúa Kitô hiện diện trong giám
mục giáo phận mà chung quanh ngài quây quần Giáo Hội địa phương, trong một thời
điểm lịch sử nhất định. Dũng lực biết bao mối tương quan đó! Chúa Kitô liên kết
và hàn gắn chúng ta bởi những mối ràng buộc tuyệt diệu biết bao!
Tôi đã có kinh nghiệm đó trong thời gian Công Đồng
nhóm họp. Một cách đặc biệt, tôi đã có kinh nghiệm về tập thể tính giám mục: toàn thể giám mục đoàn cùng với Thánh Phê-rô!
Tôi đã sống lại kinh nghiệm đó một cách hết sức đặc biệt trong những buổi Tĩnh
Tâm mà tôi thuyết giảng vào năm 1976 cho giáo triều Roma, hợp nhất chặt chẽ
chung quanh Đức Phao-lồ VI. Tôi sẽ trở lại đề tài nầy dưới đây.
4.- Tập thể tính giám mục
Nên hướng tư tưởng trở về lúc ban đầu. Do thánh ý của
Chúa và Thầy chúng ta, mục vụ tông đồ đã được thiết lập. Cộng đồng “những kẻ Ngài muốn” (Mc
3, 13) tăng trưởng chung quanh Ngài. Ở giữa cộng đồng đó được đào luyện những
thành viên khác nhau với nhân cách vững mạnh, đứng đầu là Thánh Phê-rô.
Trong hàng ngũ đệ tử và bạn hữu Chúa Kitô, bất cứ một tân giám mục nào được đưa vào đều
qua lời mời gọi và sự tấn phong. Đó là giám mục đoàn! Sự tham gia vào cộng
đoàn đức tin, chứng tá, yêu thương và trách nhiệm đó là một quà tặng mà chúng
ta cùng nhau nhận lãnh khi được mời gọi và được tấn phong. Quà tặng đó lớn lao
biết bao!
Đối với mỗi người trong chúng ta là giám mục, sự hiện
diện của những người khác tạo nên một sự hỗ trợ được diễn tả bằng sự liên kết
qua lời cầu nguyện và thừa tác vụ, qua chứng tá sự chia sẻ những thành quả của
mục vụ giám mục.
Về quan điểm đó, những cuộc gặp gỡ và những liên hệ
của tôi với các giám mục qua các cuộc thăm viếng “ad limina Apostolorum”
đã mang lại cho tôi ngày hôm nay một sự an ủi thật đặc biệt. Tôi hết sức ao ước
những gì mà ân sủng Chúa thực hiện qua con tim, khối óc và bàn tay mỗi vị giám
mục được mọi người biết đến và yêu mến.
Hiện nay những phương tiện truyền thông trở nên dễ
dàng khiến có thể gặp gỡ thường xuyên hơn và hiệu quả hơn. Điều đó giúp tất cả
chúng ta là những giám mục của Giáo Hội Công giáo truy tầm những phương cách để
củng cố tập thể tính giám mục, nhất là bằng sự hợp tác có trách nhiệm trong các
hội đồng giám mục địa phương và qua sự trao đổi kinh nghiệm trong đại gia đình
Giáo Hội trên toàn thế giới.
Nếu các giám mục gặp gỡ nhau và chia sẻ những buồn vui
cũng như những ưu tư của họ, chắc chắn điều đó sẽ giúp họ củng cố “linh đạo hiệp thông” như tôi đã đề cập
tới trong Tông Thư “Ngàn Năm Thứ Ba Đang Tới” (“Novo millenio ineunte”)
(số 43-45).
Ngay trước khi được chọn lên ngai tòa Thánh Phê-rô,
tôi đã gặp gỡ nhiều giám mục trên toàn thế giới, dĩ nhiên gặp thường hơn các
giám mục những quốc gia Âu châu gần nhất. Đó là những cuộc gặp gỡ nhằm hỗ trợ
nhau.
Một số cuộc gặp gỡ đó, nhất là với các giám mục sống
trong những quốc gia dưới ách thống trị độc tài Cộng Sản, đôi khi thật cảm
động. Chẳng hạn tôi hồi tưởng tang lễ Đức Hồng Y Stefan Trochta, trong
nước Tiệp Khắc trước đây, khi chính quyền Cộng Sản ngăn trở sự tiếp xúc với
Giáo Hội địa phương hoặc ngay cả việc làm cho những cuộc gặp gỡ đó không thể
thực hiện được.
Trước khi các Đức Hồng Y quyết định tôi phải là người
ngồi vào ngai tòa Thánh Phêrô, cuộc gặp gỡ sau cùng của tôi với các giám mục
một quốc gia lân bang đã xảy ra ở Đức quốc, nơi mà cùng với Đức Giáo Chủ Wyszynski,
chúng tôi đã thực hiện một cuộc thăm viếng mục vụ vào tháng chín năm 1978. Đó
cũng là một biểu tượng quan trọng về sự hòa giải giữa những quốc gia liên
hệ.
Tất cả những cuộc gặp gỡ đó đã được tiếp nối một cách
phi thường và mãnh liệt qua những cuộc gặp gỡ thường nhật của tôi với các giám
mục thuộc nhiều phần đất khác nhau trên thế giới đã cho phép tôi được thực hiện
từ khi tôi được nhắc lên ngai tòa Thánh Phê-rô.
Những cuộc thăm viếng “ad limina Apostolorum”
là một cách diễn tả đặc biệt tập thể tính giám mục. Theo nguyên tắc, cứ năm năm
một lần (đôi khi trễ hơn), các giám mục trên toàn thế giới lần lượt đến Vatican
và người ta tính ra hơn hai ngàn giáo phận. Ngày nay chính tôi đón tiếp họ.
Trước đây, vào thời Đức Phao-lồ VI, chính Đức Thánh
Cha đón tiếp tôi. Tôi rất thích những cuộc gặp gỡ như thế với Đức Phao-lồ VI.
Tôi đã học hỏi nhiều điều nơi ngài, đặc biệt về diễn tiến của những cuộc gặp gỡ
đó.
Tuy nhiên dần dần, tôi đã soạn thảo sơ đồ của riêng
tôi: trước hết, tôi đón tiếp riêng mỗi vị giám mục, kế đó tôi mời cả nhóm dùng
một bữa ăn và sau cùng, chúng tôi dâng Thánh Lễ chung vào buổi sáng hôm sau và
chúng tôi có cuộc gặp gỡ chung.
Tôi đã rút tỉa nhiều điều hữu ích từ những cuộc gặp gỡ
của tôi với các giám mục. Tôi có thể nói một cách đơn giản là nhờ các ngài “tôi hiểu biết Giáo Hội” hơn.
Tôi phải thực hiện điều đó một cách thường xuyên bởi vì, qua các giám mục, tôi
luôn học được nhiều điều mới mẻ. Qua những cuộc đàm đạo với các ngài, tôi hiểu
biết tình hình Giáo Hội trên những phần đất khác nhau của thế giới: ở Âu châu,
Á châu, Mỹ châu, Phi châu và Đại Dương châu.
Chúa đã cho tôi sức khỏe cần thiết để có thể thăm
viếng nhiều quốc gia – tôi có thể nói được là phần lớn các quốc gia. Những cuộc
du hành đó mang một sắc thái quan trọng đặc biệt, bởi vì sự lưu lại có tính
cách cá nhân tại một quốc gia, dù vắn vỏi đi nữa, cho phép thấu hiểu nhiều
điều. Mặt khác, nhờ những cuộc gặp gỡ đó, tôi có thể tiếp xúc trực tiếp với dân
chúng và điều đó mang lại lợi ích lớn lao trên bình diện giữa các cá nhân với nhau
cũng như trên bình diện giáo sĩ.
Đối với Thánh Phao-lồ cũng thế, ngài du hành không
ngừng. Chính vì thế, khi người ta đọc những gì ngài đã viết cho các cộng đoàn
khác nhau, người ta có cảm tưởng như ngài ở gần họ, như thể ngài hiểu rõ những
cá nhân sinh sống ở những nơi đó cùng với những khó khăn của họ. Chính điều đó
có giá trị qua mọi thời đại, kể cả thời đại chúng ta.
Tôi luôn yêu thích những cuộc tông du. Với tôi, rõ
ràng trọng trách đó đã được ban cho vị giáo hoàng bởi chính Chúa Kitô, theo một
nghĩa nào đó. Ngay khi còn là giám mục giáo phận, những cuộc thăm viếng mục vụ
làm tôi ưa thích và tôi xét thấy rất quan trọng để tìm hiểu điều gì xảy ra nơi
các giáo xứ, để hiểu biết giáo dân và gặp gỡ họ cách trực tiếp.
Thăm viếng mục vụ ngày nay trở thành một quy phạm của
giáo luật, trong thực tế đã được gợi ý bởi kinh nghiệm của cuộc sống. Ở đây,
mẫu mực chính là Thánh Phao-lồ. Thánh Phê-rô cũng thế, nhưng trước tiên là
Thánh Phao-lồ.
5.- Các nghị phụ
Trong phiên họp đầu tiên của Công Đồng, khi tôi còn là
giám mục phụ tá tổng giáo phận Cracovie, tôi được dịp cám ơn Đức Hồng Y Giovanni
Battista Montini đối với quà tặng quí giá và độ lượng mà tổng giáo phận
Milan đã trao tặng cộng đoàn Thánh Florian ở Cracovie: Ba quả chuông mới (một
quà tặng tượng trưng nhưng gây xúc cảm biết bao, nhất là vì danh xưng gắn vào
ba quả chuông đó: “Mẹ Trinh Vương”, “Thánh Ambroise-Charles Borromée” và “Thánh
Florian”).
Quà tặng đã được yêu cầu bởi cha Tadeusz Kurowski,
bề trên cộng đoàn Thánh Florian. Đức Hồng Y Montini là người luôn tỏ ra ân cần
đối với dân Ba-lan, đã biểu lộ một con tim cởi mở rất lớn đối với dự án đó và
ngài cũng tỏ ra am hiểu tường tận về sự quan tâm của tôi mà lúc bấy giờ chỉ là
một giám mục trẻ.
Những giám mục đồng sự người Ý, có thể nói được là
đóng vai trò chủ nhà đối với Công Đồng và đối với Tòa Thánh Vatican nói chung,
luôn luôn làm tôi ngạc nhiên về sự thân tình và về cảm thức của họ đối với thế
giới.
Trong khóa họp đầu tiên của Công Đồng, tôi có được một
kinh nghiệm tuyệt vời về phổ quát tính của Giáo Hội qua những sự tiếp xúc giữa
tôi với các giám mục Phi châu mà sự hiện diện của các ngài khá đông. Các ngài
ngồi nhiều chỗ khác nhau trong Vương Cung Thánh Đường Thánh Phê-rô mà ở đó, như
đã biết, đang diễn ra công tác của Công Đồng.
Ở giữa các ngài, có những thần học gia lỗi lạc và
những mục tử nhiệt tình. Họ có nhiều điều để cống hiến. Trong ký ức tôi, một vị
nổi bật nhất là Đức Cha Raymond-Marie Tchidimbo, tổng giám mục Conakry.
Ngài bị đau khổ nhiều vì ông tổng thống Cộng Sản của quốc gia ngài và cuối cùng
ngài phải bị lưu đày.
Tôi có nhiều mối liên hệ thường xuyên và thân tình với
Đức Hồng Y Hyacinthe Thiandoum, một vị có một nhân cách đặc biệt. Còn
một khuôn mặt lỗi lạc khác nữa, đó là Đức Hồng Y Paul Zoungrana. Cả hai
ngài thuộc văn hóa Pháp nên nói ngôn ngữ đó thông thạo như tiếng mẹ đẻ. Tôi kết
giao một mối thân tình với hai vị giáo sĩ đó khi tôi ở ngôi nhà dành cho giáo
sĩ Ba-lan.
Tôi cảm thấy rất thân cận với Đức Hồng Y người Pháp là
Gabriel-Marie Garonne. Ngài lớn hơn tôi hai mươi tuổi. Ngài đối xử với
tôi một cách thân tình, có thể nói được là trong tình bạn. Ngài được cất nhắc
lên tước vị hồng y đồng thời với tôi và sau Công Đồng, ngài trở thành tổng
trưởng Bộ Giáo Dục Công Giáo. Hình như ngài cũng đã tham dự Mật nghị Hồng Y.
Một giáo sĩ người Pháp khác mà tôi đã có những liên hệ
thân tình, đó là thần học gia Dòng tên Henri de Lubac mà chính tôi đã
cất nhắc lên tước vị hồng y nhiều năm sau đó. Công Đồng là thời gian ưu đãi để
làm quen với các giám mục và những thần học gia, đặc biệt ở trong những ủy ban
khác nhau.
Khi đề cập tới sơ đồ 13 (về sau trở thành Tông Hiến về
Giáo Hội trong thế giới ngày nay “Gaudium et spes” – “Vui Mầng và Hy Vọng”) và khi nói về nhân
cách, cha de Lubac đến gặp tôi và nói: “Vâng, vâng, vâng, theo chiều hướng đó.” Ngài đã khích lệ tôi như
thế và chính đó là một việc đặc biệt quan trọng đối với tôi, bởi vì tôi tương
đối còn trẻ.
Tôi còn liên kết tình bạn với các giáo sĩ người Đức.
Với Đức Hồng Y Alfred Bengsch, trẻ hơn tôi một tuổi. Với những Đức Hồng
Y Joseph Hoffner ở Cologne, Đức Hồng Y Joseph Ratzinger – tất cả
các ngài là những giáo sĩ đã được chuẩn bị về thần học một cách đặc biệt.
Cách riêng tôi nhớ tới Giáo Sư Ratzinger, lúc bấy giờ
rất trẻ. Trong tư cách chuyên viên thần học, ngài đã tháp tùng Đức Hồng Y Joseph
Frings, tổng giám mục Cologne, tham dự Công Đồng. Sau đó ngài được bổ nhiệm
tổng giám mục Munich bởi Đức Phao-lồ VI là vị đã cất nhắc ngài lên tước vị hồng
y.
Ngài đã hiện diện trong Mật Nghị Hồng Y giao phó cho
tôi mục vụ của ngai tòa Thánh Phê-rô. Khi Đức Hồng Y Franjo Seper qua
đời, tôi đã xin ngài kế tục đảm nhận trọng trách tổng trưởng Thánh Bộ Giáo Lý
Đức Tin. Tôi cảm tạ Chúa về sự góp mặt và giúp đỡ của Đức Hồng Y Ratzinger.
Ngài là một người bạn rất đáng tin cậy.
Buồn thay! Chỉ còn sống sót trên cõi đời nầy một số ít
giám mục và hồng y đã tham dự Công Đồng Vatican II (11 tháng 10 năm 1962 – 8
tháng 12 năm 1965). Đó là một biến cố đặc biệt thuộc về Giáo Hội và tôi cảm tạ
Chúa đã cho tôi tham dự từ ngày đầu cho đến ngày cuối.
6.- Hồng Y Đoàn
Theo một nghĩa nào đó, trung tâm điểm của Hội Đồng
Giám Mục Thế Giới là Hồng Y Đoàn bao quanh Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô và nâng đỡ
ngài trong chứng tá đức tin trước toàn thể Giáo Hội. Tôi đã được ghi danh vào
Hồng Y Đoàn năm 1967.
Đặc biệt Hội Nghị Hồng Y thể hiện nguyên tắc hợp tác
và củng cố hỗ tương trong đức tin mà trên đó được xây dựng toàn bộ công tác
thừa sai của Giáo Hội. Sứ vụ của Thánh Phê-rô đã được Chúa Giêsu phân định như
sau: “Phần anh, một khi đã trở lại,
hãy làm cho anh em của anh nên vững mạnh” (Lc 22, 32).
Ngay từ những thế kỷ đầu, các Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô
tìm sự cộng tác của giám mục đoàn, linh mục đoàn và phó tế đoàn. Họ chịu trách
nhiệm với các ngài trong kinh thành Roma và các giáo phận lân cận (được gọi là
“các giáo phận quanh Roma”). Người ta bắt đầu gọi họ là “viri cardinales”.
Dĩ nhiên, qua các thế kỷ, những hình thức của một sự
hợp tác như thế đã được biến đổi. Nhưng ý nghĩa chủ yếu – một biểu tượng đối
với Giáo Hội và đối với thế giới – thì không thay đổi.
Bởi vì trách nhiệm mục vụ của Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô
trải dài trên khắp thế giới, do đó dần dần xuất hiện đúng lúc trong thế giới
Kitô giáo, những “viri cardinales”. Họ đã trở nên thân cận với Đấng Kế
Vị Thánh Phê-rô với trách nhiệm và sự kiện luôn sẵn sàng để làm chứng tá cho
đức tin kể cả việc phải đổ máu ra, nếu cần. (Chính vì thế áo các ngài nhuộm màu
đỏ, như máu các thánh tử đạo).
Tôi cảm tạ Chúa về sự hỗ trợ như thế và về sự chia sẻ
trách nhiệm trong việc quản trị Giáo Hội mà các Đức Hồng Y thuộc giáo triều
Roma và trên thế giới đã cống hiến cho tôi một cách độ lượng.
Khi các ngài càng sẵn sàng để hỗ trợ cho kẻ khác thì
các ngài càng làm vững mạnh niềm tin của họ và do đó, các ngài cũng có thể
đương đầu với trách nhiệm lớn lao trong việc lựa chọn Đấng sẽ đảm nhận Trọng Trách
của Thánh Phê-rô, được thể hiện dưới tác động của Chúa Thánh Linh.
7.- Các hội nghị giám mục
Cuộc đời giám mục của tôi trong thực tế đã bắt đầu với
việc công bố việc triệu tập Công Đồng. Như đã biết, thể chế hội nghị giám mục
thế giới được thiết lập bởi Đức Thánh Cha Phao-lồ VI ngày 15 tháng 9 năm
1965, là thành quả của Công Đồng. Trải qua nhiều năm, nhiều hội nghị khác cũng
được thực hiện. Vị tổng thư ký được giao phó một trọng trách lớn để đặc trách
những hội nghị đó.
Trước tiên là Đức Hồng Y Wladyslaw Rubin mà
những tang thương ngài phải trải qua trong cuộc thế chiến đã kết thúc ở Roma là
nơi ngài đã tới đó qua ngã Liban. Đức Phao-lồ VI đã giao cho ngài việc thành
lập văn phòng tổng thư ký. Đó không phải là một công việc dễ dàng.
Tôi đã tìm cách hỗ trợ ngài, trong khả năng có thể
được, nhất là bằng việc đưa ra nhiều ý kiến hữu ích. Về sau, nhiệm vụ của ngài
được đảm trách bởi Đức Hồng Y Josef Tomko là người được Đức Hồng Y Jan
Pieter Schotte kế tục.
Như tôi đã nói, những hội nghị thì nhiều. Ngoài những
hội nghị diễn ra dưới triều đại của Đức Thánh Cha Phao-lồ VI, còn có những hội
nghị về gia đình, bí tích hòa giải và thống hối, vai trò giáo dân trong đời
sống Giáo Hội, việc đào tạo linh mục, đời sống thánh hiến, giám mục đoàn. Ngoài
ra còn có những hội nghị có tính cách đặc biệt: hội nghị nước Hòa Lan, hội nghị
kỷ niệm hai mươi năm bế mạc Công Đồng II và hội nghị đặc biệt về Liban.
Cũng có những hội nghị mang tính cách lục địa: những
hội nghị giám mục Phi châu, Mỹ châu, Á châu, Đại Dương châu và hai hội nghị
giám mục Âu châu. Mục đích nhắm tới là xuyên qua mọi lục địa trước thiên niên
kỷ, để Giáo Hội hiểu rõ hơn bằng cách nắm bắt được những vấn nạn ngõ hầu chuẩn
bị cho năm thánh 2000. Chương trình đó đã được thực hiện. Giờ đây phải nghĩ tới
hội nghị mới với chủ đề bí tích Thánh Thể.
Trong đời sống giám mục của tôi, tôi đã có cơ hội tiếp
cận với kinh nghiệm hội nghị: quả thật đã có hội nghị rất quan trọng của tổng
giáo phận Cracovie, được tổ chức nhân dịp kỷ niệm chín trăm năm ngày sinh nhật Thánh
Stanislas. Hiển nhiên đó là một hội nghị hoàn toàn có tính cách giáo phận.
Hội nghị đó đã không diễn ra trong viễn kiến của Giáo Hội hoàn vũ, nhưng nằm
trong viễn tượng khiêm tốn hơn của Giáo Hội địa phương.
Dẫu thế, một hội nghị giáo phận vẫn có tầm mức quan
trọng đáng kể đối với một cộng đoàn tín hữu khi hằng ngày phải trải qua những
vấn nạn như nhau, gắn liền với việc thực hành đức tin trong những hoàn cảnh xã
hội và chính trị rõ rệt.
Công việc của hội nghị Cracovie nhằm hội nhập vào đời
sống cộng đoàn địa phương những điều mà Công Đồng đã nói tới. Tôi đã lập chương
trình cho hội nghị đó vào những năm 1972-1979, bởi vì Thánh Stanislas – như tôi
đã nói – là giám mục từ 1072 đến 1079. Tôi muốn làm sống lại những năm tháng đó
chín trăm năm sau.
Kinh nghiệm quan trọng nhất là công việc của những
nhóm hội nghị rất đa dạng và đầy cam kết. Đó là một hội nghị mục vụ đích thực:
hết thảy các giám mục, linh mục và giáo dân cùng sát cánh làm việc bên nhau.
Tôi đã kết thúc hội nghị đó trong tư cách giáo hoàng, nhân cuộc thăm viếng
Ba-lan đầu tiên của tôi.
8.- Cuộc Tĩnh Tâm đối với giáo triều Roma,
trong triều đại Đức Giáo Hoàng Phao-lồ VI
Tôi không bao giờ quên được cuộc Tĩnh Tâm thật đặc
biệt đó. Từ cuộc Tĩnh Tâm như thế nảy sinh một sự thực tập là quà tặng lớn lao
của Chúa đối với những ai thực hành được. Đó là thời gian người ta buông bỏ
những điều còn lại để gặp gỡ Chúa và bắt đầu lắng nghe một mình Ngài.
Chắc chắn điều đó tạo nên cơ hội hữu ích đặc biệt đối
với những “người cấm phòng”. Chính vì thế mà người ta không nên làm áp lực trên
người đó, nhưng nên đánh thức ở nơi họ một sự ao ước ở bên trong có được một
kinh nghiệm như vậy.
Thật vậy, đôi khi người ta có thể nói với một người
nào đó: “Hãy đến nhà dòng Camaldoli hay nhà dòng Biển Đức ở Tyniec, để gặp lại chính mình”.
Nhưng theo nguyên tắc một sự tiến hành như thế phải là thành quả của sự ước
muốn nội tâm.
Giáo Hội trong tư cách là một định chế, khuyên bảo các
linh mục một cách đặc biệt nên có những cuộc tĩnh tâm (Giáo Luật, điều
276, tiết 2, mục 4). Nhưng qui phạm giáo luật chỉ là một yếu tố thêm vào sự ao
ước phát xuất từ trong con tim.
Tôi đã nhắc lại là nhiều lần chính tôi đã có những
cuộc tĩnh tâm ở đan viện Biển Đức Tyniec. Nhưng tôi cũng năng lui tới nhà dòng
Camaldoli ở Bielany, chủng viện Cracovie và Zakopane. Từ khi tôi ở Roma, tôi đã
tham dự cuộc Tĩnh Tâm với giáo triều trong tuần lễ đầu Mùa Chay.
Trong những năm gần đây, những cuộc Tĩnh Tâm đó luôn
được hướng dẫn bởi những vị thuyết giảng khác nhau. Nhiều vị thật đáng khâm
phục về phương diện hình thức lẫn nội dung, đôi khi cả vì sự khôi hài của họ.
Chẳng hạn đó là trường hợp cha Dòng Tên Tomas
Spidlik, người Tiệp Khắc. Chúng tôi đã cười rất nhiều qua những bài thuyết
trình của ngài và điều đó cũng hữu ích cho chúng tôi nữa. Ngài đã biết trình bày
với một tinh thần dí dỏm những chân lý sâu sắc và như thế, ngài đã biểu lộ một
tài năng vĩ đại.
Những cuộc Tĩnh Tâm đó đã trở lại trong ký ức tôi khi
tôi trao mũ hồng y cho cha Spididlik trong thượng hội nghị hồng y sau cùng.
Những vị thuyết giảng thì đa dạng và thông thường thật
ưu tú. Chính tôi đã mời Đức Cha Ablewicz và đó là vị giáo sĩ Ba-Lan duy
nhất, ngoài tôi ra, đã đến thuyết giảng Tĩnh Tâm ở Vatican.
Riêng cá nhân tôi đã thuyết giảng Tĩnh Tâm ở Vatican
trước Đức Phao-lồ VI và các cộng sự viên của ngài. Có một vấn đề khi chuẩn bị.
Đầu tháng 2 năm 1976, Đức Cha Wladyslaw Rubin đã gọi điện thoại cho tôi
báo tin là Đức Thánh Cha Phao-lồ VI xin tôi giảng Tĩnh Tâm vào tháng 3. Như vậy
chỉ còn hai mươi ngày để tôi soạn bài giảng và chuyển dịch.
Tựa đề mà tôi đưa ra cho những buổi suy tư đó là: “Biểu
Tượng của sự Mâu Thuẫn”. Tựa đề đó không được đề nghị nhưng đã xuất hiện
sau cùng, như là tổng hợp những gì mà tôi có ý muốn trình bày. Sự thật đó không
phải là một chủ đề, nhưng theo một ý nghĩa, đó là lời chủ yếu mà hội tụ về đó
những gì tôi đã trình bày trong những bài thuyết giảng khác nhau.
Tôi nhớ lại những ngày đã dành ra để soạn thảo. Có hai
mươi đề tài để chuẩn bị. Tôi phải xác định những đề tài đó và soạn thảo một
mình. Để có sự yên tĩnh cần thiết, tôi đi tới miền Zakopane, ngụ tại nhà dòng
các nữ tu Thánh Ursula (Ursulines), mặc tu phục màu xám ở Jaszczurówska. Tôi đã
viết những bài suy niệm cho đến trưa, đi trượt tuyết ban chiều và buối tối tiếp
tục viết nữa.
Cuộc gặp gỡ đó với Đức Phao-lồ VI trong bối cảnh cuộc
Tĩnh Tâm, thật đặc biệt quan trọng đối với tôi, bởi vì làm cho tôi ý thức về sự
nhanh nhẹn cần thiết phải có đối với giám mục khi nói về đức tin của mình ở nơi
nào mà Chúa đòi hỏi phải làm. Về điều đó, hết mọi giám mục cần phải có, ngay cả
Đấng Kế Vị Thánh Phê-rô, như Đức Phao-lồ VI lúc bấy giờ đã cần đến sự sẵn sàng
của tôi.
9.- Việc thực thi Công Đồng
Công Đồng là một biến cố lớn lao và đối với tôi, là
một kinh nghiệm khó quên. Từ Công Đồng trở về, tôi được phong phú thêm lên. Một
khi về lại Ba-lan, tôi đã viết một quyển sách trong đó tôi trình bày những
hướng đi đã chín mùi trong tôi qua những khóa họp Công Đồng.
Qua các trang giấy, có thể nói được tôi đã tìm cách
đúc kết nội dung những giáo huấn của Công Đồng và tôi đã lấy tựa đề: “Nguồn
Gốc của sự Đổi Mới. Nghiên Cứu về sự Thực Thi Công Đồng Vatican II”. Sách
đó đã được xuất bản ở Cracovie năm 1972 bởi Hiệp Hội Thần Học Ba-lan (PTT).
Sách đó cũng muốn trình bày như một lời cảm tạ đối với
những gì mà ân sủng Chúa, qua sự nhóm họp của Công Đồng, đã tác dụng trên cá
nhân tôi, trong tư cách giám mục. Quả thật, Công Đồng Vatican II đã thảo luận
một cách đặc biệt những nghĩa vụ giám mục.
Công Đồng Vatican I đã bàn luận về quyền tối cao của
giáo hoàng. Đặc biệt Công Đồng Vatican II dừng lại nơi các giám mục. Để nhận ra
điều đó, chỉ cần có trong tay những văn kiện Công Đồng, nhất là Tông Hiến Tín
Lý “Lumen gentium” (“Ánh sáng muôn dân”).
Giáo huấn thâm sâu của Công Đồng đối với giám mục đoàn
dựa trên sự qui chiếu về ba chức năng (munus) của Chúa Kitô: ngôn sứ, tư tế và vương giả. Tông Hiến “Lumen
gentium” (“Ánh sáng muôn dân”) đề cập đến điều đó ở những số 24-27.
Nhưng những văn bản khác của Công Đồng cũng qui chiếu
về ba chức năng (“tria munera”) nói trên, trong đó nên chú ý đặc biệt
đến sắc lệnh “Christus Dominus” (“Chúa Kitô”) làm nổi bật một
cách chính xác trách nhiệm mục vụ của các giám mục.
Khi tôi từ Roma về lại Ba-lan, đã bùng nổ vấn đề liên
quan đến thông điệp thời danh của các giám mục Ba-lan gởi cho các giám mục Đức
quốc. Trong thông điệp đó, các giám mục Ba-lan tuyên bố đồng ý tha thứ, nhân
danh đồng bào của mình, về những điều thiệt hại phải chịu do quân đội Đức Quốc
Xã gây nên, trong thời kỳ Đệ Nhị Thế Chiến. Cùng một trật, các ngài xin tha thứ
về những lỗi lầm mà quân đội Ba-lan đã vi phạm đối với dân chúng Đức quốc.
Tiếc thay! Thông điệp đó đã gây ra nhiều cuộc bút
chiến, nhiều điều ngộ nhận, nhiều điều vu khống. Cử chỉ hòa giải đó mà trong
thực tế đã có tính cách quyết định, như đã tỏ lộ thời gian sau đó, nhằm bình
thường hóa những mối quan hệ giữa dân chúng Đức quốc và Ba-lan, đã làm phật ý
chính quyền Cộng Sản rất nhiều.
Hậu quả là họ trở nên cứng rắn đối với Giáo Hội. Điều
đó không tạo thành bối cảnh tốt đẹp nhất cho những cuộc lễ lạt mừng ngàn năm
Ba-lan được nhận lãnh bí tích thánh tẩy bắt đầu ở Gniezno vào tháng tư năm
1966.
Ở Cracovie, những lễ lạt đã xảy ra vào dịp lễ kính
thánh Stanislas ngày 8 tháng 5. Ngay hôm nay đây, còn sống động trong ký ức tôi
hình ảnh đoàn lũ dân chúng đông đảo đi kiệu từ Wawel đến Skalka. Chính quyền
không dám quấy rối đám người đông đảo và kỷ luật đó.
Trong những cuộc lễ lạt mừng ngàn năm đó, những sự
căng thẳng gây nên bởi thông điệp của các giám mục được giảm bớt và hầu như
biến mất và người ta có thể theo đuổi việc giảng dạy môn giáo lý thích hợp dựa
trên ý nghĩa ngàn năm đón nhận Tin Mừng trong đời sống quốc gia.
Thông thường cuộc rước kiệu “Mình Thánh Chúa”
(“Corpus Domini”) hằng năm là một cơ hội tốt đẹp để rao giảng. Trước thế
chiến, cuộc rước kiệu trọng thể để tôn vinh Mình Máu Thánh Chúa Kitô khởi hành
từ nhà thờ chính tòa Wawel và đi đến Rynek Glówny, ngang qua những đường sá và
công viên trong thành phố.
Trong thời gian chiếm đóng, viên toàn quyền người Đức
là Hans Frank đã cấm cuộc rước kiệu như thế. Về sau, vào thời Cộng Sản,
chính quyền chấp nhận một cuộc rước kiệu ngắn hơn: từ nhà thờ chính tòa Wawel
cho tới sân gần nhất của lâu đài hoàng gia.
Chỉ vào năm 1971 cuộc rước kiệu mới có thể đi qua bên
kia đồi Wawel như trước. Bấy giờ tôi tìm cách sắp xếp những đề tài suy niệm ở
mỗi bàn thờ khác nhau trên hành trình rước kiệu, làm thế nào để có thể trình
bày trong bối cảnh giáo lý về Phép Thánh Thể, những khía cạnh khác nhau của chủ
đề lớn lao về “tự do tôn giáo” rất thời sự vào thời điểm đó.
Trong những mô hình khác nhau của việc sùng kính đạo
đức có tính cách bình dân đó, tôi thiết tưởng được ẩn tàng một câu trả lời cho
một vấn nạn đôi khi được phơi bày ra ánh sáng liên quan đến ý nghĩa của truyền
thống được thể hiện qua những cuộc biểu dương, cho dẫu trên bình diện địa
phương. Tựu trung, câu trả lời khá đơn giản: sự hòa điệu giữa các con tim tạo nên một sức mạnh.
Đâm rễ sâu trong những gì là cổ kính, hùng dũng, sâu
sắc và cùng một trật, rất thân thiết trong con tim, sẽ tạo nên một sức mạnh nội
tâm phi thường. Nếu sự đâm rễ sâu đó cũng gắn liền với mãnh lực táo bạo của trí
tưởng tượng và tư duy con người, không còn lý do gì để phải lo sợ cho tiền đồ
đức tin và những tương giao giữa con người với con người trong lòng dân tộc.
Chính ở trong sự phong phú của truyền thống mà nền “văn
hóa” thực sự được vun bồi để củng cố mối thân tình giữa các công dân và cho
phép họ có ý thức là mình thuộc về một đại gia đình để chống đỡ và tăng cường
cho niềm xác tín của mình.
Đặc biệt ngày nay, trách nhiệm lớn nhất của chúng ta,
trong lãnh vực toàn cầu hóa, bao gồm việc phát huy những truyền thống lành
mạnh, nâng đỡ lòng dũng cảm của quần chúng trong vấn đề tư duy, một viễn kiến
hướng về tương lai, cũng như lòng kính trọng và quí mến đối với những gì thuộc
về quá khứ.
Chính quá khứ được tiếp nối trong con tim người đời
qua những ngôn từ của người xưa, những ký hiệu thời cổ, những hoài niệm và tập
quán kế thừa từ nhiều thế hệ đã qua.
10.- Các giám mục Ba-lan
Trong thời gian tôi thi hành mục vụ ở Cracovie, những
mối liên hệ thân tình đã nối kết tôi với các giám mục ở Gorzów. Đó là ba đức
cha: Wilhelm Pluta, Jerzy Stroka và Ignacy Jez. Tôi xem các ngài
như những bạn hữu chân tình. Chính vì thế tôi đã đi tìm gặp các ngài, ngay cả
ngoài những vấn đề liên quan đến việc phục vụ.
Với Đức Cha Stroka, chúng tôi đã quen biết nhau
trong thời gian còn ở Cracovie khi ngài làm giám đốc chủng viện Silésie. Trong
chủng viện đó, chính tôi là giáo sư: tôi dạy đạo đức học, thần học luân lý căn
bản và luân lý xã hội.
Với ba vị tôi vừa nhắc đến, Đức Cha Ignacy Jez
hiện đang còn sống. Ngài có tài thiên phú về tính hài hước: ngài biết phát biểu
bằng cách nói khôi hài, chẳng hạn như về tên của ngài là Jez (trong ngôn ngữ
Ba-lan tiếng đó có nghĩa là “cái vòng” hay “tóc xoắn”).
Với tư cách là giám mục thường trú, ở trong tổng giáo phận
của tôi, tôi có vài giám mục phụ tá như các Đức Cha Julian Groblicki, Jan
Pietraszko, Stanislaw Smolenski và Albin Malysiak. Chính tôi đã tấn
phong hai vị sau nầy.
Tôi rất thích Đức Cha Albin vì tính năng động
của ngài. Tôi còn nhớ đến ngài khi ngài còn là cha xứ Nowa Wies, một trong
những khu vực ở Cracovie. Đôi khi tôi thích gọi ngài bằng biệt danh là “Albin
nhiệt tình”
Đức Giám Mục Jan Pietraszko là một nhà thuyết
giảng tuyệt vời, một người làm cho cử tọa hứng khởi. Đức Hồng Y Franciszek
Macharski, người kế vị tôi ở Cracovie, đã khởi động vụ án phong thánh cho
ngài năm 1994. Vụ án đó giờ đây đang ở giai đoạn cứu xét tại Roma.
Tôi cũng nhớ rất rõ hai vị giám mục phụ tá kia: trong
nhiều năm, chúng tôi đã tìm cách cùng nhau phục vụ Giáo Hội thân yêu Cracovie
của chúng tôi, trong tinh thần hiệp thông huynh đệ.
Trong thành phố lân cận là Tarnów, có Đức Cha Jerzy
Ablewicz mà tôi đã nhắc đến. Tôi đến thăm ngài thường xuyên: thật ra chúng
tôi sinh cùng thời – ngài chỉ hơn tôi một tuổi.
Đức Giám Mục ở Czestochowa – Đức Cha Stefan Barela,
luôn đối xứ với tôi rất thân tình. Trong bài giảng Thánh Lễ kỷ niệm hai mươi
lăm năm phong chức linh mục của tôi, tôi đã nói:
“Chức vụ giám
mục như một khám phá bổ túc, một khám phá mới về chức linh mục. Tuy nhiên điều
khám phá mới đó cũng được thực hiện trên căn bản cùng một tiêu chuẩn: trước
tiên người ta phải hướng về Chúa Kitô, Mục Tử độc nhất và Giám Mục của mọi tâm
hồn và cũng hướng về Chúa Kitô một cách thâm sâu hơn, hăng say hơn và đòi hỏi
hơn.
Điều đó thực hiện
được bằng cách hướng đến các linh hồn, những linh hồn bất tử, được chuộc lại
bằng giá Máu Chúa Kitô. Hướng về các linh hồn có thể không có tính cách tức
thời như trong công việc hằng ngày của một linh mục trong giáo xứ – cha chánh xứ hay cha phó xứ. Ngược lại, đó
là một tầm nhìn rộng lớn hơn, bởi vì trước mặt giám mục mở ra cộng đồng Giáo
Hội toàn vẹn.
Trong lương tâm
chúng tôi là những giám mục của Công Đồng Vatican II, Giáo Hội là nơi gặp gỡ
của toàn thể gia đình nhân loại, là nơi hòa giải, xích lại gần nhau bất chấp
mọi trở ngại, xích lại gần nhau bằng đối thoại, xích lại gần nhau bằng cái giá
của sự đau khổ.
Có thể điều đó đúng
với chúng tôi – những giám mục Ba-lan thời đại Công Đồng Vatican II – chúng tôi
phải trả giá bằng sự đau khổ hơn là qua việc đối thoại”
(Kalendarium
Zycia Karola Wojtyly, Cracovie 1983, tr. 335-336).
Chính ở
Silésie mà Đức Cha Hertbert Bednorz thi hành mục vụ và trước ngài có Đức
Cha Stanislaw Adamski. Đức Cha Bednorz được bổ nhiệm làm giám mục phó.
Khi tôi được bổ nhiệm tổng giám mục, tôi đã đi thăm hết các giám mục trong tổng
giáo phận và cũng vì vậy tôi đã đến
Chúng
tôi với các giám mục ở Silésie rất thông hiểu nhau. Tôi gặp gỡ các ngài thường
xuyên vào Chúa nhật cuối cùng của tháng năm tại nguyện đường Đức Bà Piekary.
Nhà thờ chính tòa tại đây được thiết lập vào thế kỷ XVII là một nơi sùng kính
Đức Trinh Vương Maria, Mẹ Công Chính và Tình Thương.
Tại
nguyện đường Đức Bà Piekary chính vào ngày đó, tuôn về những đoàn người hành
hương thuộc nam giới. Đức Cha Bednorz thường mời tôi thuyết giảng. Chúa
nhật cuối tháng năm tạo nên môt biến cố đặc biệt: đó là cuộc hành hương của
những công nhân mỏ. Họ biểu thị một chứng tá khác thường trong nước Cộng Hòa
Nhân Dân Ba-lan.
Những
người tham dự nghe giảng thường kèm theo những tràng pháo tay nổ dòn khi nghe
những điều trình bày tỏ rõ sự đối kháng về những đường hướng đang bàn cãi nằm
trong chính sách chính phủ đang theo đuổi, liên quan đến vấn đề tôn giáo hay
phong hóa, chẳng hạn việc nghỉ ngơi vào Chúa nhật. Về vấn đề đó, ở Silésie, một
câu nói của Đức Cha Bednorz đã trở
thành châm ngôn đối với dân chúng: “Chúa
nhật thuộc về Thiên Chúa và thuộc về chúng ta nữa.”
Sau
Thánh Lễ, Đức Cha Bednorz thường có
thói quen ngõ lời với tôi như sau: “Vậy
thì chúng con đợi tới năm sau để nghe một bài giảng khác tương tự.” Đối với
tôi, dân chúng ở Piekary đã nêu lên một chứng tá tuyệt vời bằng cuộc hành hương
vĩ đại của họ. Tự bản chất chứng tá đó nói lên điều gì đặc biệt khác thường.
Chiếm
một chỗ rất đặc biệt trong quả tim của tôi, đó là Đức Hồng Y Andrzej Maria
Deskur, hiện nay là chủ tịch danh dự Hội Đồng Giáo Hoàng về Truyền Thông Xã
Hội. Tôi đã cất nhắc ngài lên tước vị hồng y ngày 25 tháng 5 năm 1985. Kể từ
lúc khởi đầu triều đại giáo hoàng của tôi, ngài luôn hỗ trợ tôi rất nhiều, đặc
biệt qua những đau khổ cũng như những ý kiến chỉ bảo của ngài.
Trong
khi nhắc tới các giám mục, tôi không thể không trưng dẫn Thánh bổn mạng của tôi
là Thánh Charles Borromée. Khi tôi nhớ tới khuôn mặt của ngài, tôi bị
xúc động bởi sự trùng hợp do những biến cố và mục vụ.
Ngài là
giám mục
Tôi có
thể nói được, suốt những năm triều đại giáo hoàng của tôi, việc thực thi công
đồng luôn ở hàng đầu trong tâm tưởng của tôi. Tôi luôn kinh ngạc về sự trùng
hợp đó và cảm thấy thích thú bởi sự dấn thân dũng cảm của vị thánh đó: Sau công
đồng, Thánh Charles hiến trọn cuộc đời giám mục cho những cuộc thăm viếng mục
vụ trong giáo phận ngài, lúc bấy giờ có khoảng tám trăm giáo xứ.
Tổng
giáo phận Cracovie trước đây nhỏ hơn, tuy nhiên tôi không thể thực hiện hết các
cuộc thăm viếng đã được bắt đầu. Giáo phận Roma hiện nay được giao phó cho tôi
cũng lớn nữa: có 333 giáo xứ. Cho tới nay tôi đã thăm viếng 317 giáo xứ. Như
vậy còn lại 16 giáo xứ phải thăm viếng.
Bài viết khác
Âm Nhạc Công Giáo trong Văn Hóa Việt Nam - Gs Lê Đình Thông
Vidéo : NGÀY VĂN HÓA THƯ VIỆN GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS - Chúa Nhật 07/04/2024
Thư mời Ngày Văn Hóa Thư Viện Giáo Xứ VN Paris 07-04-2024
The Chosen : Đấng được chọn - Công Bình
Rogations, nghi thức Cầu Mùa đang được hồi sinh tại giáo xứ Moissac - Công Bình
Chúc Thọ & Chúc Thêm - Cung Chi
Vâng Phục Qua Giấc Mơ - Anê Thùy Dung
Nhìn và Ngắm - Nguyễn Đăng Quế
Mùa Chay 2023 : Mùa Cháy – Mùa Chạy – Mùa Chảy - Lm Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Đức Thánh Cha Phanxicô và chuyến công du đầu năm 2023 - Công Bình
Chuyện Yếu Đuối - Trầm Thiên Thu
Suối nước chữa lành - Sr. Maria Thúy Nga, FMA
Đôi lời tri ân độc giả Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris - Giang Minh Đức
Vè Tết Quý Mão - Anna Trương Thị Lâm Sang