TƯỞNG NIÊM 30 NĂM
NHẠC SƯ HẢI LINH GIÃ TỪ TRẦN THÊ
05/01/1988 – 6/01/2018
Đêm trường mưa lạnh dừng
chân bước,
Thắp nén hương lòng vọng
cố nhân…
…như một nén hương trầm, nhớ Ns Hải Linh, Đức Cha Mai Thanh Lương,
Lm Ns Ngô Duy Linh, Lm Phạm Văn Tuệ,
Lm Anrê Dũng Lạc Trần Cao Tường
N |
hớ
lại, khi mới nhen nhúm một số tài liệu Văn học, Tôn giáo… xây đắp ngôi nhà Dũng
Lạc, Cha Tường ngỏ ý muốn tôi phụ trách mảnh đất Thánh Nhạc: Nêu lên những kỉ
niệm một thời, gần gũi các Nhạc sĩ tên tuổi đã đi vào lòng người, như: Linh mục
Nhạc sĩ Hoàng Kim (phụ trách Nhà thờ Mạc-Ti-Nho trong thời gian Cha Lê Trung Thịnh
- Đại Tá - phải lo điều hành Nha Tuyên úy Công giáo), Nhạc sĩ Hùng Lân (đệm
Organ cho Nhà thờ Mạc-Ti-Nho), Linh mục Nhạc sĩ Huyền Linh (chạy từ Quảng Đức về
Trung tâm Fatima Bình Triệu, Sàigòn vào tháng 3.1975), Linh mục Nhạc sĩ Phương
Linh (con Cụ Cố Tường, ở phố Thượng Kiệm, Phát Diệm, gần ngay nhà tôi). Và đặc
biệt, Nhạc sư Hải Linh và Linh mục Nhạc sư Ngô Duy Linh…
Suy nghĩ mãi, vì phải lo cho tờ bán nguyệt
san tại New Orleans, không thể kiếm đâu ra giờ để ghi lại những kỉ niệm một thời
và liên lạc với các Nhạc sĩ còn đang sinh hoạt tại quê nhà…, tôi đành xin khất
Ngài vào một thời điểm tương đối dài rộng hơn.
Tiếp theo, nhân dịp Giáo sư Trần Văn Đoàn -
bạn tôi, đồng thời là Cậu của Cha Trần Cao Tường – tới New Orleans, Cha Tường tổ
chức dâng Lễ tại nhà Bà Cố và các em để cầu cho họ hàng nội ngoại, trong đó có song
thân và hai anh của Giáo sư Đoàn. Trong những phút đàm đạo trước khi dâng Lễ,
không nhớ do nguyên nhân nào, tôi có kể rằng: Khi tới thăm Thầy Benoit Đỗ Minh
Cẩn, C.Ss.R., Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn - (anh
con Bác tôi – Gia tộc bên Nội tôi ở họ Tự
Tân, thuộc Giáo xứ Phát Diệm, dâng hiến cho Dòng Chúa Cứu Thế hai thành viên là
Cha Nguyễn Kim Dong, C.Ss.R. – một trong 4 Linh mục Việt Nam đầu tiên của Dòng
Chúa Cứu Thế - và Thầy Benoit Đỗ Minh Cẩn, C.Ss.R.) – gặp lúc Thầy Cẩn đang
lo việc trong phòng áo (sau Cung Thánh) Nhà thờ Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp, đường Kỳ
Đồng, Sàigòn. Tôi thấy có một tấm bảng ghi: Xin các Cha chỉ giảng tối đa 10
phút…
Khi bắt đầu dâng Lễ, Cha Tường bộc bạch mấy
câu: Lúc nãy, anh Nhị Long có nói: Tại
Nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Sàigòn, các Cha chỉ giảng 10 phút. Hôm nay, tôi chỉ
nói 5 phút thôi. Rồi Ngài nhìn tôi mỉm cười… Sau khi dâng Lễ là bữa cơm
trong vòng thân mật gia đình và Cha Tường nhắc tôi: Vẫn còn nợ Ngài bài viết về Hải Linh, Ngô Duy Linh… Bài viết này,
chính là nén hương trầm tưởng nhớ đến Ngài…
NGÀY HÀN MẶC TỬ TẠI NEW ORLEANS,
LOUISIANA 19.11.1994
Từ trái: Lm Phạm Văn
Tuệ, Ct Hoàng Bổn, Ct Nhị Long, ô. Trần
Huỳnh Đức, Bs Vũ Thế Truyền, Gs Phạm Nghệ, Cha Ngô Duy Linh, Ns Phạm Duy, Lm Trần
Cao Tường, Bà Công Tằng Tôn Nữ Bích Ngọc (cháu Hàn Mặc Tử) chụp chung với Ca
đoàn Gx Thánh Lê Thị Thành NGÀY HÀN MẶC TỬ.
HANG BELEM & HẢI LINH
Cứ mỗi khi tiết trời bắt đầu se lạnh, báo
hiệu Mùa Giáng sinh tới thì từ thành thị đến thôn quê, từ đồng bằng đến vùng
núi đồi miền sơn cước, lòng người như nở rộ một niềm vui với những bản Thánh ca
Giáng sinh quen thuộc, để cố quên đi những đầy ải nhục nhằn, những vật vã trong
cuộc sống, bao trùm những mảnh đời bất hạnh trên quê hương khổ đau, quằn quại
rên xiết… xuyên suốt chiều dài cuộc chiến triền miên ba mươi năm máu lửa ngút
ngàn (1945-1975): Quê Mẹ bị cầy nát vì cuộc chiến đầy hận thù và nước mắt. Thật
vậy, dù Lương hay Giáo, thì những câu ca Giáng sinh như Đêm Thánh Vô cùng, Cao Cung Lên và nhất là bản Hang Belem: Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời… đã thấm đậm trong lòng
mọi người.
Hầu như ai cũng biết: Đêm Đông lạnh lẽo Chúa sinh ra đời do Nhạc sĩ Hải Linh sáng tác vào
Mùa Giáng sinh năm 1945. Xin giới thiệu đôi nét về một Thiên tài Âm nhạc kiệt
xuất, đã để lại cho hậu thế một kho tàng quí báu, nhất là về Trường ca qua hai
chủ đề TÔN VINH THIÊN CHÚA & TÁN TỤNG QUÊ HƯƠNG mà Nhạc sĩ Thiên tài Phạm
Duy đã ca tụng là những “Viên Ngọc quí
giá nhất của Dân tộc Việt”.
Tôi còn nhớ, trong một buổi tối thật khuya
khuắt, trong cái lạnh tê buốt da diết của một đêm băng giá… sau khi tổng dượt
chương trình Thánh ca NGÀY TRUYỀN THỐNG THẦN NHẠC LÊN NGÔI Mùa Giáng sinh năm
1987 cho Ca đoàn Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời, Avondale, Louisiana (mà Nhị Long là Ca trưởng, Bố Ngô Duy Linh tận
lực dìu dắt), Nhạc sư Hải Linh đã thổ lộ với người viết bài này như sau: Cuộc
đời tôi là cả một chuỗi dài cô đơn. Càng cô đơn bao nhiêu, Chúa càng cho tôi có
một sức cảm thụ mạnh mẽ bấy nhiêu. Sức cảm thụ ấy, tôi đã dàn trải trên những
dòng Nhạc để lại cho đời…
CẢ CUỘC ĐỜI CHO ÂM NHẠC
Hải
Linh tên trong giấy khai sinh là Trần Văn Đệ, sinh ngày 4 tháng 10 năm 1920 tại
Giáo xứ Ứng Luật, Giáo phận Phát Diệm (Phủ Kim Sơn, Tỉnh Ninh Bình, Bắc Việt
Nam). Ngày sinh nhằm Lễ kính Thánh Phanxicô thành Assisi (Italia) nên song thân
chọn Thánh nhân làm bổn mạng cho con. Tuy nhiên, trong giấy khai sinh lại ghi
là ngày 30.10.1920.
Song thân của Nhạc sư Hải Linh là cụ Phêrô Trần
Văn Minh (thường gọi là cụ Chánh Minh) và bà Maria Nguyễn Thị Lan. Hai cụ có tất
cả chín người con, gồm sáu trai và ba gái. Người con trai trưởng đã bị bạo bệnh
qua đời lúc còn trẻ, Hải Linh là con trai thứ hai. Ngoài ra, Linh mục Nhạc sĩ
Hùng An (Trần Văn Hoan - người con trai thứ bảy) cũng đã tạ thế tại Giáo xứ
Duyên Lãng (Xuân Lộc), ông Trần Văn Dương (Đồng Nai), bà Trần Thị Tính (tên chồng
là Phạm Chính, thường gọi là cô Chín, cư ngụ tại đường Bà Hạt (gần Lý Thái Tổ)
thuộc Giáo xứ Bắc Hà, Sàigòn; bà Trần Thị Mến ở Cái Sắn, Tân Hiệp, Rạch Giá;
ông Trần Văn Khiết ở Thủ Đức…
Thân phụ của Nhạc sư Hải Linh làm nghề đắp
tượng và thân mẫu là một bà “Quản”, phụ trách việc Dâng Hoa, ngắm Lễ, dâng Hạt…
tại Nhà thờ Họ Lưu Phương (cách Nhà thờ Chính toà Phát Diệm không bao xa).
Chính lời Kinh, tiếng Hát của thân mẫu và bàn tay điêu khắc nghệ thuật tinh vi
của thân phụ đã là những nhân tố chính, tác thành nên một Hải Linh biết rung cảm,
biết say sưa đắm đuối trong Suối Nhạc Nguồn Thơ…
THỜI ĐIỂM 1931-1945
*
1931 : Cậu Đệ được gia đình gởi sang Cha già Trác tại Nhà xứ Đại Đề,
Bùi Chu để làm quen với nếp sống tu trì. Cha già đổi tên là Trần Đức Trị.
(theo tập tục của các Linh mục Giáo phận
Bùi Chu, khi Linh mục nghĩa phụ tên đầu mẫu tự là gì thì các nghĩa tử đều đổi
tên theo vần Cha Bố - quen gọi là Linh tông).
*1932-1934
: Nhập Trường Thử (Probatorium) Trung Linh, Bùi Chu. Theo lời thuật lại của
Cha Trần Đức Huynh (liên hệ huyết tộc) thì thời gian này, Hải Linh tỏ ra rất
say mê và có năng khiếu về Âm nhạc, coi Âm nhạc là nguồn sống. Thời gian này, học
Nhạc với Linh mục Rangel (người Tây Ban Nha) giáo dân Việt thường gọi là Cố Lễ.
Sau đó, tự tìm hiểu về Nhạc lý và bắt đầu sáng tác theo cảm hứng…
*1935-1936 :
Nhập Tiểu Chủng viện Ninh Cường, Bùi Chu. Ngày 9 tháng 3 năm 1936, Toà Thánh
thành lập Giáo phận Thái Bình (tách từ Giáo phận Mẹ Bùi Chu) bao gồm 2 tỉnh
Thái Bình và Hưng Yên. Lúc ấy, Cha già Trác thuộc Giáo phận mới Thái Bình, Cậu
Trị lại nhận Cha già Liễn bảo trợ và một lần nữa, lại đổi tên là Trần
Văn Linh. Các dưỡng tử của Cha già Liễn gồm Cha Đỗ Minh Lý (Hiệp Hội
Thánh Mẫu Chí Hoà), Cha Ngô Duy Linh, Cha Vũ Đức Long (Toàn CMC), Ns Trần Văn
Linh (Hải Linh)... Hàng cháu là Đức cha Mai Thanh Lương, Cha Dao Kim...
*1937-1938 :
Giúp xứ An Bài, Bùi Chu.
*1940-1944
: Dạy Âm nhạc tại Trường Thầy Giảng Bùi Chu. Trong thời gian này, đã sáng
tác và xuất bản Tuyển tập Ca vịnh về Đức Mẹ, đặc biệt về Ca vãn Dâng Hoa. Bài MẸ
ƠI ! ĐOÁI THƯƠNG XEM NƯỚC VIỆT NAM được sáng tác năm 1943…
*1945
: Mùa Noel này, sáng tác nhạc phẩm bất hủ HANG BELEM. Hải Linh cho biết đại
ý như sau: Tháng 11 năm 1945, Hải Linh đang dạy Nhạc tại Trường Thầy Giảng ở
Bùi Chu, một hôm đi ngang qua toà soạn báo Đường Sống (ở Bùi Chu), ông Minh
Châu Đỗ Viết Phúc, Chủ nhiệm - thấy Hải Linh hay sáng tác những bài về Đức Mẹ,
Thánh Giuse… nên đố Hải Linh sáng tác một ca khúc Giáng Sinh để ông đăng trên
báo Đường Sống, số đặc biệt Giáng Sinh. Hải Linh nhận lời và chỉ mấy ngày sau,
Hải Linh đã cầm nhạc bản HANG BELEM tới toà soạn báo Đường Sống, tập cho anh em
trong Toà soạn hát thử. Mọi người thích quá, ông Minh Châu cho người cầm bản nhạc
lên Hà Nội, nhờ Hoạ sĩ Mạnh Quỳnh khắc vào bản gỗ và phổ biến trên báo Đường Sống.
Sau đó, Hải Linh gởi lên Nhà thờ Chính toà Hà Nội mấy bản…
Theo như Nhạc sư Hải Linh kể cho tôi (Nhị
Long) thì chính Hải Linh cầm một số bản Hang Belem về Phát Diệm, biếu tặng Cha
Phạm Ngọc Chi, Giám đốc Đại Chủng viện Thượng Kiệm, Phát Diệm (sau này là Giám
mục Bùi Chu, Qui Nhơn, Đà Nẵng). Hải Linh gặp Cụ Hội Phan Ngọc Hoan (Bác của Hải
Linh) - đang giữ chức Chánh Hội Ca vịnh Nhà thờ Chính toà Phát Diệm - biếu Cụ bản
nhạc mới sáng tác, còn nóng hổi. Cả hai bác cháu cùng tập cho Hội Ca vịnh. (Xin mở một dấu ngoặc: Cụ Hội Hoan là thân
phụ của Trung Tá Phan Ngọc Huấn - rất giỏi Âm nhạc và từng giữ một vị trí quan
trọng Văn phòng Ông Bà Cố vấn Ngô Đình Nhu trước biến cố 1.11.1963. Cụ cũng là
thân phụ của Bà Phan Ngọc Hà, phu nhân của Nhạc sĩ Lê Văn Khoa). Cụ Hội Hoan đã
qua đời cách đây ít năm tại San José, California.
Lễ Đêm Giáng sinh 24.12.1945 tại Nhà thờ
Chính toà Phát Diệm do Đức cha Lê Hữu Từ chủ tế. Cha Phạm Ngọc Chi điều khiển
các Thày Đại Chủng viện Phát Diệm hợp xướng bài TÌM HANG ĐÁ do Linh mục Phương
Linh mới sáng tác, Linh mục Mai Văn Điệu hoà âm. Hải Linh điều khiển Hội Ca vịnh
Nhà thờ Chính toà hợp xướng bài HANG BELEM. Sau Thánh Lễ, Cha Phạm Ngọc Chi
khen ngợi và khích lệ Hải Linh rất nhiều. Kể từ đó, Ngài bắt đầu lưu ý đến tác
giả bản nhạc bất hủ này. Và 5 năm sau, khi Tòa Thánh bổ nhiệm cai quản Giáo phận
Bùi Chu, Ngài đã tuyển chọn Hải Linh qua Roma học hỏi về Âm nhạc. Trước khi đi
du học, Hải Linh lên Hà Nội gặp Thẩm Oánh và một số Nhạc sĩ để bàn thảo một hướng đi mới.
* Linh mục Phương Linh là tác giả những ca
khúc như: Cầu xin Chúa Thánh Thần, Xin Chúa Ngôi Ba đoái thương… Cũng nên biết:
Mùa Thu năm 1945, Linh mục Phương Linh đoạt Giải Nhất Sáng tác Âm nhạc Toàn quốc
với bài TRUNG THU CHÈO THUYỀN: Đồng một lòng chúng ta cố chèo…
* Trước biến cố 30.4.1975, lâu lâu, tôi (Nhị
Long) thường lên Tu viện và trường Vinh Sang (Tam Hiệp, Biên Hoà) thăm Ngài; vì
tôi là bạn đồng lứa hồi Tiểu học với hai người cháu của Ngài là “Ngoan và Sinh
– con Cụ Quản Hùng. Sau 30.4.1975, Cha Phương Linh đi tù một thời gian và sau
đó lâm bệnh qua đời…
Kể từ thời điểm 1945, cao trào sáng tác
Thánh ca Việt Nam phát triển mạnh suốt từ Bắc chí Nam:
* Nhạc Đoàn LÊ BẢO TỊNH (Hà
Nội): Được thành lập từ tháng 7.1945 với những thành viên đầu tiên: Nguyễn
khắc Xuyên, Hùng Lân, Thiên Phụng, Tâm Bảo, Hoài Chiên, Hoài Đức, Duy Tân… Sự
đóng góp của Nhạc Đoàn Lê Bảo Tịnh cho nền Thánh nhạc Việt Nam thật đáng trân
trọng.
* Nhạc Đoàn SAO MAI (Bùi Chu):
Được thành lập từ năm 1945, với các Nhạc sĩ: Hải Linh, Minh Trân, Thăng Ca (Ngô
Duy Linh), Ngô Quang Tuấn, Thiên Phước, Võ Thanh Hương, Hồ Khanh… đã là những
luồng gió mới tươi mát đến với Giáo hội Công giáo Việt Nam.
* Nhạc Đoàn TIẾNG CHUÔNG NAM (Thanh
Hoá): Tuyển tập HƯƠNG NHẠC I, xuất bản năm 1951 đánh dấu sự đóng góp của
các Nhạc sĩ như Nguyễn Duy Vi, Thanh Cao, Marco Khanh, Thiệu Duy…
* Các Nhóm Nhạc sĩ:
- Nhóm CA THÁNH (Phát Diệm): Được
gọi tên theo những tập Ca Thánh mà nhóm lần lượt cho xuất bản từ năm 1946. Hiện
Ủy Ban Thánh Nhạc còn lưu giữ được 4 tập với các đề mục như: Kính Thánh Thể và
Thánh Tâm, Đức Mẹ… Rất nhiều bài hiện nay vẫn được sử dụng, như: Tìm Hang Đá, Cầu
xin Chúa Thánh Thần (Phương Linh), Tiếng Vang (Tiến Hưng), Trần
Hùng Dũng, Long Nghị, Mai Văn Điệu, Mai Lạc Thiện, Nguyễn Khắc Tuần (Lạy Mẹ
Fatima, Mẹ nỉ non bao lần… Lạy Mẹ, Mẹ Chúa vinh quang)…
- Nhóm THIÊN CUNG (Hải Phòng): với các Nhạc sĩ, như: Cha Chu Công, Cha Trung
Thu, Long Vân, L.T.H., Lê Hoan…
- Nhóm MINH NHẠC: Do một số Nhạc sĩ góp bài đề Đa Minh thiện bản in chung trong những
tập Minh Nhạc.
* Các Nhạc sĩ độc
lập
- Cha Chính NGUYỄN VĂN VINH (Hà Nội): Ngài theo học từ nhỏ
tại Nhạc viện Paris, khi về VN, Ngài viết Hoà âm cho một số bài Thánh ca của
Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh. Sau này, Ngài sáng tác một số bài như: Tv. 8, Tv. 41,
Giavi, Vua Tình yêu… đặc biệt nhất là Trường ca MỞ ĐƯỜNG PHÚC THẬT (Hợp xướng
4 bè). Là một nhà trí thức, cương
nghị, chống cả Pháp lẫn Cộng sản, năm 1956 bị Cộng sản Hà Nội đưa ra Toà với
tội danh “chống chế độ”, bị biệt giam tại trại Cổng Trời và chết rũ tù một cách
bí mật.
- Năm 1951, từ Rôma có in và gửi về Việt Nam phổ biến tập CẦU NGUYỆN do
Trần Hùng Dũng phụ trách. Trước khi in ấn, Trần Hùng Dũng đã đưa tập
nhạc này nhờ Nhạc sư Praglia xem và sửa chữa. Một số bài trong tập
này là của Nhạc sĩ Trần Hùng Dũng và các bạn ký tên là Ba Anh hay
Tam Huynh, tức Trần Hùng Dũng, Phạm Xuân Thu và Nguyễn Cao Khẩn. Tuyển
tập có những bài như: Cầu xin Chúa Thánh Thần (Phương Linh), Tận Hiến (Vinh
Hạnh)… cho tới nay vẫn còn được sử dụng rộng rãi.
Thiết tưởng không thể không nhắc đến những bậc tiến
bối của nền Thánh Nhạc Việt Nam xuất hiện trước thời điểm 1945:
- Cha SẢNG ĐÌNH NGUYỄN VĂN THÍCH (Huế): Linh mục Giuse
Maria Nguyễn Văn Thích sử dụng thành thạo các nhạc cụ dân tộc như
đàn Nguyệt, đàn Cò, đàn Nhị... Ngoài những di sản về Thơ-Văn-Họa, trong
lãnh vực Thánh ca, ta không thể quên những đóng góp của Ngài trong những sáng
tác ca ngợi Đức Mẹ, nổi tiếng là bài: Đức Mẹ La Vang, cùng với
các bài: Bao giờ tôi được lên trời,
Trời cao đất thấp, Mười hai cái mến….Ngài cũng chính là tác giả bài
hát: “CÁI NHÀ CỦA TA” mà năm 1982, khi thực hiện chuyên đề “Lịch sử
âm nhạc Việt Nam” đài BBC Luân Đôn đã nhắc đến.
- Cha PHAOLÔ ĐẠT (Saigon):
Ngoài việc cùng với các cha Phaolô Qui, Gabriel Long phổ biến kiến thức âm nhạc
và các bài Thánh ca ngoại quốc - lời Việt, Ngài còn để lại cho chúng ta những
sáng tác bất hủ, như: Kinh nguyện Chúa Thánh Thần, Nửa đêm mừng Chúa ra đời,
Kinh cầu Đức Bà, kinh cầu Trái Tim… (những
chi tiết này ghi theo tài liệu của Ủy Ban Thánh Nhạc/HĐGMVN).
THỜI GIAN NGHIÊN CỨU
ÂM NHẠC
TẠI ÂU CHÂU
1950-1956
Sau khi Đức cha Phạm Ngọc Chi trọng nhậm Giáo phận Bùi Chu, Ngài tuyển
chọn 50 thành viên gồm Linh mục, Tu sĩ, Giáo dân xuất sắc nhất, xuất ngoại du
học để sau này góp phần xây dựng một nền Giáo dục Nhân bản và Khai phóng cho
Giáo hội và quê hương Việt Nam. Hải Linh là một trong số những thành viên ưu tú
được tuyển chọn. Tại Giáo phận Phát Diệm, Đức cha Lê Hữu Từ cũng gởi đi 50
thành viên Linh mục, Tu sĩ, Giáo dân… đi tu nghiệp Âu Châu và Hoa Kỳ.
Đặt chân tới Roma (Italy) vào cuối năm 1950. Sau này (1986) chính Nhạc
sư Hải Linh cho tôi (Nhị Long) biết chi tiết như sau: Năm 1950, Hải Linh tới
Roma và cư ngụ tại Nhà Quản lý Phát Diệm (Foyer Phát Diệm) do Cha Luca Trần Văn
Huy đứng đầu - (sau khi về Việt Nam
khoảng 1955-1956, trải qua nhiều thập niên, Cha Luca dạy tại Đại Chủng viện
Sàigòn, góp công sức đào tạo biết bao thế hệ Linh mục cho Giáo hội Việt Nam –
Vì Cha Huy rất nghiêm khắc
trong vấn đề kỷ luật và giờ giấc của Nhà Quản lý, nên rất khó cho Hải Linh
trong vấn đề học hành và nghiên cứu Âm Nhạc thêm. Hải Linh liền liên lạc với
Cha Lương Kim Định (đang nghiên cứu Triết học) tại Paris, Pháp. Và sau đó, Hải
Linh khăn gói lên đường qua Paris ở với Cha Kim Định và một số thành viên khác
tại căn nhà số 21 Rue Beaurepaire, Paris X. Sau khi tới Paris, Hải Linh vùi đầu
vào việc nghiên cứu Âm nhạc tại Institut Grégorien de Paris (chuyên giảng dạy
về Bình ca cũng như về điều khiển) và Trường César Franck (chuyên dạy về Sáng
tác). Hải Linh miệt mài ngày đêm như vậy suốt 6 năm, cho đến khi về Nước năm
1956.
* Cũng nên ghi lại một sự kiện hi hữu do chính Thầy Hải Linh kể lại với
tôi: Khi còn ở nhà Quản Lý Phát Diệm tại Roma (1950), Thầy Hải Linh có dịp gặp Đức
cha Ngô Đình Thục và Cụ Ngô Đình Diệm sang Roma trong cuộc Hành hương Năm Thánh
1950. Khi Thầy Hải Linh và các thành viên cư ngụ trong Nhà Quản lý hỏi Cụ Diệm
về tình hình đất nước mỗi ngày một bi đát... Cụ Diệm nói: Xin các Cha, các Thầy cầu nguyện
và lo học hành để còn về xây dựng Đất Nước, đừng quá lo lắng về chính trị. Tình
hình chính trị Việt Nam còn phải tùy thuộc vào những xoay vần trên bàn cờ chính
trị Quốc tế…
* Năm 1951: Đức Thánh Cha Pio XII bằng Sắc
chỉ “Albae Jam AD Massem (Đồng lúa đã chín) ký ngày 29.4.1951 đã Tôn phong 25
Vị Anh hùng Tử Đạo Việt Nam (trong số này có 2 vị Dòng Đa Minh Tây Ban Nha) lên
bậc Chân Phước. Thầy Hải Linh đã điều khiển các Tu sĩ Việt Nam đang Tu học tại
Âu Châu hợp xướng 2 bài: Tiếng Nhạc Oai
Hùng và Chiến Sĩ Phúc Âm trong
buổi Triều Yết, cảm tạ Đức Thánh Cha Pio XII.
* Nhạc sư Hải Linh cho biết rằng: Hải Linh
qua Paris học trước Cha Ngô Duy Linh 3 năm, nên khi Cha Linh qua Paris (1953)
Hải Linh đưa các tài liệu học tập cho Cha Linh nghiên cứu ngày đêm. Vì thế, Cha
Linh đỡ mất thêm được 3 năm.
Thời gian nghiên cứu Âm nhạc tại Paris,
ngoài Hải Linh và Ngô Duy Linh, còn có Nhạc sĩ Phạm Duy và Linh mục Nhạc sĩ
Lương Hoàng Kim. Cha Hoàng Kim kể với tôi (Nhị Long) như sau: Hồi ở Paris, cứ mỗi lần đến nhà Cha Kim
Định, tôi gọi lớn: Hải Linh có nhà không? Khi Hải Linh mở cửa, tôi (Hoàng Kim)
hát thật to, chọc vui Hải Linh: “Mẹ ơi, đoái thương xem nước Việt Nam…”. Hải
Linh liền vái Hoàng Kim: “Thôi thôi, tớ lạy chú mày…”. (bởi vì, nhạc điệu bài
này “Tây” quá…
Cha Hoàng Kim còn kể: Lâu lâu, Hải Linh,
Ngô Duy Linh, Phạm Duy, Hoàng Kim… thường gặp gỡ nhau để chia sẻ những khám phá
mới lạ về Âm nhạc, Phạm Duy bộc bạch:
“Các cậu tu tác… còn tớ một đêm mà không có người đẹp bên cạnh, tớ chịu không
được…” Điều này, cũng dễ hiểu. Cứ đọc hồi ký của Phạm Duy sẽ thấy chất nghệ
sĩ, bay bướm suốt cuộc đời tài hoa của Thiên tài Phạm Duy…
Cha Ngô Duy Linh có lần tâm sự: May
mắn cho Bố và Hải Linh (Cha con tôi vẫn thường xưng hô bố con) được thụ huấn một bậc Thầy lỗi lạc là Giáo
sư Guy de Lioncourt. Sau 6 năm miệt mài, Hải Linh đã tốt nghiệp Composition Musicale, Chef de Choeur, Diplome de Chant
Grégorien với luận án “La Couleur Vietnamienne dans le Chant Grégorien” (Mầu
sắc Việt Nam trong Bình ca).
Chính Linh mục Nhạc sĩ Hoàng Kim cho tôi (Nhị Long) biết: Sau khi tốt
nghiệp Âm Nhạc viện César Franck, Giáo sư Guy de Lioncourt nói: “…
trong suốt đời dạy học của tôi, tôi chỉ gặp được hai môn sinh lỗi lạc nhất: Đó
là Hải Linh của Việt Nam và Kishio Hirao (Trưởng Ban Nhạc đài Phát thanh Tokyo,
Nhật Bản).
* Vài nét về Linh mục Gioakim Lương Hoàng Kim: Sinh
ngày 12.09.1927, quê ở Đồng Quan, xã Vũ An, phủ Kiến Tường, tỉnh Thái Bình. Vào
Tiểu Chủng viện Mỹ Đức thuộc Giáo phận Thái Bình năm 1942. Lên Đại Chủng viện
Alberto, Nam Định năm 1949. Thụ phong Linh mục trong tháng 6 năm 1953. Có tài
liệu ghi năm sinh là 1930 (?). Nếu đúng thì khi thụ phong Linh mục năm 1953,
Cha Hoàng Kim mới 23 tuổi. Điều này, phải đặt lại…
Cha Gioakim Lương Hoàng Kim du học tại
Roma và Pháp trong tháng 10 năm 1954. Trở về Sàigòn vào cuối năm 1964. Từ năm
1965, Cha về giúp Mục vụ cho Giáo xứ Vườn Xoài trong một thời gian, rồi Nhà thờ
Mạc-Ti-Nho. Sau đó, về Đền Thánh Vinh Sơn, thuộc Giáo xứ Nghĩa Hoà (Chí Hoà).
Là một Nhạc sĩ sáng tác Bình ca số “1”
của Việt Nam. Cả một nguồn sáng tác phong phú là một kho tàng Thánh Nhạc đáng
trân quí để lại cho hậu thế. Nhạc sư Hải Linh đã từng nói với các môn sinh: “Chỉ cần một bài THIẾU NỮ SION thì Cha
Hoàng Kim đã đáng mặt một Đại Nhạc sĩ”. Ngoài ra, Ngài còn là thành viên
trong NHÓM PHIÊN DỊCH CÁC GIỜ KINH PHỤNG VỤ trong nhiều năm. Kể từ khi Cha
Hoàng Kim qua đời (1985) đến nay, chưa có một Nhạc sĩ Công giáo nào nối gót
sáng tác Bình ca nổi đình đám. Từ tháng 6 năm 1984, Cha bị bệnh ung thư Phổi và
đã qua đời ngày 15.04.1985, sau 58 năm hiện diện trong cõi nhân sinh với 32 năm
trong nhiệm vụ Linh mục.
***
Trong thời gian nghiên cứu Âm nhạc tại
Paris, Hải Linh đã dệt Nhạc vào những vần Thơ trác tuyệt Hàn Mặc Tử. Giáo
trường ca AVE MARIA (thơ Hàn Mặc Tử) được sáng tác trong thời điểm này. Nối
tiếp là những tác phẩm như Đà Lạt Trăng Mờ, Duyên Kỳ Ngộ, Ra Đời…
* Xin mở một dấu ngoặc: Câu
mở đầu của thi phẩm Ave Maria: Như song
lộc triều nguyên ơn phước cả… khiến rất nhiều người vẫn chưa hiểu đúng ý
nghĩa thâm thúy, cao trọng của Hàn Mặc Tử. Cách đây khá lâu, trên nguyệt san
Trái Tim Đức Mẹ do dòng Đồng Công phát hành tại Hoa Kỳ, người viết xin ghi lại
nơi đây để quí độc giả am tường:
Ý nghĩa “Như Song Lộc Triều Nguyên…”
Nhân đọc bài thơ “Cho Đến Đêm Nay” của nhà thơ Thiệu Nguyên đăng trên
nguyệt san Trái Tim Đức Mẹ số 96 tháng 12, 1985, tôi gặp câu: “Như Lộc Triều Nguyên mới trổ bông”, tôi
muốn góp một ý kiến về việc giải thích câu thơ đầu một bài thơ bất hủ của thi
sĩ Hàn Mặc Tử: Ave Maria - Như Song Lộc
Triều Nguyên…
Tôi thấy có rất nhiều hiểu lầm về câu đầu trong bài thơ này. Hồi còn
nhỏ, đứng nghe các bậc đàn anh bàn về ý nghĩa câu thơ này; thì được biết chính
vị Thầy dạy của bậc đàn anh là một người chuyên về Văn chương Việt Nam (cấp Đại
học), viết trên báo Thanh Niên từ thời còn Pháp thuộc cũng không giảng nổi ý
nghĩa câu thơ này. Trước năm 1975, trong một buổi phát thanh thuộc chương trình
Công giáo đài Sàigòn, Linh mục Nhạc sĩ Nguyễn Văn Minh (Tổng Thư ký Ủy Ban
Thánh Nhạc trước 30.4.1975) dẫn giải về thơ Hàn Mặc Tử, tôi cũng được biết,
Linh mục hiểu biết chưa được thấu đáo, vì theo Linh mục: Lộc là Nai, Triều
Nguyên là trong Triều đình, trong sân của các Vua nhà Nguyên. Trước đây, các Nữ
Tu Dòng Carmêlô Tông Đồ tại Houston, Texas cũng có ra một cuốn băng nhạc lấy
tên là “ Lộc Triều Nguyên - Như Song Lộc”.
Vì cách đặt câu và cách viết chữ thì tôi được phép nghĩ rằng, các vị chỉ
hiểu đại khái là câu thơ đó chỉ về Đức Mẹ Maria. Vì nghe các bậc đàn anh cho
câu thơ đó là một bí hiểm, nên tôi cố công tìm tòi. Nhân khi đi học, được thụ
huấn với cụ Thẩm Quỳnh, Cử nhân Hán học (Giáo sư Đại học Văn Khoa Sàigòn), tôi
có đem câu thơ ra xin cụ giảng giải trong lúc truyện trò riêng tư. Cụ giải
thích rất dễ dàng và trôi chảy. Tôi xin phép ghi lại lời giải thích của một vị
thâm nho, hầu góp phần cùng độc giả, hiểu thêm ý nghĩa lời thơ của Hàn Mặc Tử.
Song Lộc: Song Lộc là hai ngôi Sao trong khoa Tử
vi: Lộc Tồn và Hóa Lộc. - Triều:
Chầu - Nguyên: Chữ nho, chữ nguyên chính ra phải đọc là viên có nghĩa là chung quanh. Vậy nghĩa
đen: Đức Mẹ như người có hai ngôi Sao: Lộc Tồn và Hóa Lộc chầu chung quanh cung
mệnh. Theo Tử vi Đông phương, cung mệnh của người nào có hai ngôi Sao này chầu
chung quanh thì đàn ông sẽ đạt tới Quốc Vương, Tổng thống, Tể tướng, đàn bà sẽ
tới Nữ vương, Hoàng hậu. Vậy “Như Song
Lộc Triều Nguyên” có nghĩa Mẹ Maria là Nữ Vương (trong sứ mệnh an bài của
Thiên Chúa).
Tôi
xin thân thưa lại một lần nữa, đây là ý kiến của một vị thâm nho, ngoài ra tùy
ý quí vị xét đoán. Tôi được biết Linh mục Nguyễn Văn Minh là một người rất ham
thích học hỏi, Ngài có nghiên cứu về Tử vi, Tướng số và cả về bùa ngải nữa.
Ngài là Tuyên úy của binh chủng Thủy quân Lục chiến (VNCH), nên gặp nhiều anh
em gốc Miên, có bùa ngải thực sự. Vì thế, Ngài cố tâm nghiên cứu để có thể giúp
đỡ đời sống thiêng liêng của anh em.
Nhưng vì chữ “Viên” mà đọc là Nguyên thì phải thâm nho mới thấu được.
Tôi viết để quí độc giả cùng chư quân tử bốn phương thưởng lãm… (Quang
- Houston, Texas)
1956-1961: QUI CỐ
HƯƠNG
THÀNH LẬP CA ĐOÀN
HỒN NƯỚC
Từ Paris, Pháp quốc, Hải Linh
khăn gói lên đường trở về cố hương. Sở trường và hành trang từ ngoại quốc về,
chỉ thành công khi có được những cộng tác viên tâm đắc, thiết lập một môi
trường Hợp Ca. Điều này, Cha Ngô Duy Linh đã cho tôi (Nhị Long) biết đại ý như
sau: Khi Hải Linh về Việt Nam thì việc
lập một Ca đoàn không khó vì nhân sự là Chủng sinh Tiểu Chủng viện Phanxicô Bùi
Chu di cư, cạnh Nhà thờ Huyện Sĩ. Tuy nhiên, chỉ có bè Nam. Còn bè Nữ đào ở đâu
ra? Hải Linh bàn với Cha Ngô Duy Linh, xin phép Đức Cha Phạm Ngọc Chi, tuyển bè
Nữ ở ngoài. Cha Linh gạt đi: Chắc chắn, Đức cha sẽ không chấp thuận. Do vậy,
nhân sự CA ĐOÀN HỒN NƯỚC cuối cùng, hoàn toàn không dính dáng gì đến “Nhà Tu”.
Ca đoàn Hồn Nước
dưới quyền điều khiển của
Ca trưởng Hải Linh
trình tấu tại rạp Thống
Nhất, Sàigòn- Mùa Giáng sinh 23.12.1957
Sau khi về Sàigòn
ít lâu, Nhạc sư Hải Linh nhận dạy tại Âm Nhạc viện Sàigòn. Tuy nhiên, vẫn ôm ấp
một hoài bão kiện toàn Ca đoàn Hồn Nước đạt tới mức nghệ thuật điêu luyện như
các Ca đoàn tại các nước tiên tiến như Pháp, Đức, Thụy Sĩ...
Còn một chi tiết nữa rất quan trọng trong cuộc đời Nhạc sư Hải Linh,
cũng được Cha Linh thuật lại: “Năm 1956, khi đang chuẩn bị hành trang lên đường
về Sàigòn thì Cô Phạm Thị Ly cũng mới tốt nghiệp Tiến sĩ Giáo dục ở Hoa Kỳ -
trên đường về Sàigòn, ghé qua Paris ít ngày. Không biết do ai giới thiệu, Cô Ly
đến gặp Cha Ngô Duy Linh, ngỏ ý: Nếu Cha
về Sàigòn lập Ban Hát thì Cô sẽ tiếp một tay; vì Cô có học một thời gian về Âm
nhạc tại Mỹ. Cha Linh trả lời rằng, vì Ngài là Linh mục, nên về Nước chỉ
chú tâm dạy học là chính, không chủ tâm lập Ban Hát. Đồng thời Cha Linh nói: Tôi có một người bạn - Hải Linh - sẽ lập một
Ban Hát lý tưởng để trình diễn trong tương lai. Tôi sẽ giới thiệu để Cô cộng
tác...
Cô Phạm Thị Ly chính là Cô Hải Linh khi cả
hai chính thức kết hôn ngày 11 tháng 2 năm 1958 tại thành phố Cao nguyên Đà Lạt
đầy thơ mộng và nhạc phẩm ĐÀ LẠT TRĂNG MỜ (thơ Hàn Mặc Tử) do Hải Linh dệt Nhạc
để tặng người yêu MỘNG LY trong một Đêm Trăng đầy thi vị trên núi đồi miền sơn
cước. Do nhận xét từ ngoại cảnh, các bạn thân như Lm Ngô Duy Linh, Lm Vũ Minh
Thái, Lm Trần Đức Huynh, Lm Vũ Đình Trác… không đồng thuận, nhưng cuối cùng,
Hải Linh quyết tiến tới
Đôi nét về Ca Đoàn HỒN
NƯỚC
Như đã viết ở trên, năm 1956 trở về Việt Nam, dù bất cứ giá nào, Hải
Linh cũng phải gầy dựng một Ca đoàn có tầm vóc. Công việc đã tuần tự diễn tiến
tốt đẹp. Ngôi trường Trung học Nguyễn Bá Tòng (đường Bùi Thị Xuân, Quận 3,
Sàigòn) là địa điểm sinh hoạt của Ca đoàn Hồn Nước trong các ngày Chủ Nhật mỗi
tuần. Mấy năm sau do Linh mục Đỗ Đình Tiệm làm Hiệu trưởng. Có một giai thoại
rất vui về Cha Tiệm, Hải Linh kể cho tôi (Nhị Long) nghe như sau: Khi Hải Linh về Sàigòn năm 1956 và dạy Nhạc tại Học viện Lê Bảo Tịnh
(đường làng 21, Gia định (ngày nay là số 4 bis đường Hoàng Hoa Thám). Đây là
Liên Đại Chủng viện do Đức cha Chi xây cho Bùi Chu, Phát Diệm và cả những Giáo
phận di cư từ miền Bắc 1954. Thầy Tiệm là một Chủng sinh với nhan sắc khiêm tốn
nhất của Chủng viện. Một hôm, trong giờ tập hát tại hội trường của Học viện,
Hải Linh tủm tỉm nói: Chúa ban cho mỗi
người một nhan sắc cùng với những nhiệm vụ khác nhau. Những Chủng sinh đẹp
trai, sáng sủa… thì được chọn giúp Lễ, nhan sắc trung bình… thì vào Ban Hát;
còn nhan sắc như… Thầy Tiệm… thì chỉ được đốt bình hương ở đầu Nhà thờ… Tất
cả hơn một trăm Đại Chủng sinh vỗ tay reo hò như pháo nổ. Năm 1972, khi Hải
Linh đã từ Hoa Kỳ trở về Việt Nam được ít lâu - một hôm - gặp Cha Tiệm ở trường
Nguyễn Bá Tòng, Cha Tiệm vừa cười vừa nói vui: … đến bây giờ, con vẫn còn phải đốt bình hương đấy Thầy ạ…
Sau này, Học viện Lê Bảo Tịnh sát nhập vào
Đại Chủng viện Sàigòn, số 4 Cường Để và cơ sở Học viện trở thành Trường Trung
học Nguyễn Bá Tòng, cơ sở II dành cho Nam sinh. Cơ sở Nguyễn Bá Tòng I, trên
đường Bùi Thị Xuân dành cho Nữ sinh.
*Ai đã có dịp được thụ huấn Nhạc sư Hải Linh trong những Lớp Ca Trưởng
điều nhận thấy: Để tạo bầu khí tươi vui, Hải Linh luôn luôn điểm xuyết những
câu, những chuyện dí dỏm. Có một lần Hải Linh nói: Trong một bản Nhạc thì người Nhạc
sĩ sáng tác cảm thụ 100%... sang đến Ca trưởng chỉ còn 50%... xuống đến chị bán
Xôi thì chỉ còn 10%...
Mùa Giáng sinh 1957, ca đoàn Hồn Nước ra mắt giới thưởng ngoạn
Sàigòn một cách phấn khởi tại rạp Thống Nhất. Năm 1958, tại Thảo Cầm
Viên Sàigòn, Ca đoàn trình tấu hợp xướng Đà Lạt Trăng Mờ với phần nhạc đệm
của Ban Nhạc Hoà Tấu New York của Nhạc trưởng Sherman dưới sự điều
khiển của chính Nhạc sư Hải Linh.
- Vào những ngày 16, 17, 18 tháng 2 năm 1959, Đại Hội Thánh Mẫu Toàn
Quốc tổ chức tại thủ đô Sàigòn mang tầm vóc Quốc tế với sự hiện diện của Đức
Hồng y Agagianian, Đặc sứ của Đức Thánh Cha Gioan 23 và nhiều Giám mục Á Châu -
Ca trưởng Hải Linh điều khiển Ca đoàn Hồn Nước đảm nhận phần Thánh ca trong
Thánh Lễ Đại Trào trước Vương Cung Thánh Đường (Nhà thờ Đức Bà) Sàigòn. Bài
Kính Mừng Nữ Vương được Giải Nhất trong dịp này.
Trong khi
Hải Linh có đất dụng võ thì Cô Phạm Thị Ly vẫn làm việc ở Toà Đại sứ Hoa Kỳ tại
Sàigòn. Do những nguyên nhân sâu xa, năm 1961, gia đình Nhạc sư Hải Linh lại di
chuyển qua Hoa Kỳ và Bà Ly xin được một chân Khoa trưởng (Dean) tại một Đại
học. Lúc này, ông bà đã có hai người con: Cecilia Dung Trần (sinh 14.4.1959) và
Joey Đức Trần (31.3.1961). Khi sanh Cecilia Dung - trong một đêm - Hải Linh
sáng tác xong một bản Hợp ca 4 bè. Đó là bài Lòng Mẹ (lời của Y Vân). Riêng cậu
Đức thì mãi sau khi về lại Việt Nam (1970) Hải Linh mới sáng tác xong bài Thằng
Bờm để tặng cho con trai.
Sau này
(1987) trong một lần chở Thầy Hải Linh tới Newman Center (Đại học UNO –
University of New Orleans) tập hát cho Nhóm New Orleans (sẽ đi dự Lễ Phong
Thánh tại Roma 19.6.1988), Hải Linh kể cho tôi (Nhị Long) như sau: Năm 1969,
trước khi qua Paris rồi về Sàigòn, cậu Joey Đức nói: Má thì Ba đã tặng bài Đà Lạt Trăng Mờ, chị Cecilia Dung thì được bài
Lòng Mẹ, còn con chưa có gì… Hải Linh yên ủi con: Ba hứa, trước khi chết… Ba sẽ có kỉ vật cho con và bài THẰNG BỜM là
quà tặng cho con trai Joey Đức sau khi Hải Linh về tới Sàigòn ít lâu…
Trong thời điểm 1961-1969, Hải Linh có cơ
hội nghiên cứu thêm nghệ thuật Âm nhạc tại Mỹ, đồng thời dạy một số giờ Việt ngữ
và Văn hoá Á Đông tại Đại học Monterey, California cho những nhân viên chuẩn bị
sang làm việc tại Việt Nam. Hải Linh than thở: Thời gian này, hầu như không sáng
tác được bao nhiêu…
TRỞ LẠI QUÊ HƯƠNG
LẦN THỨ HAI CHO ĐẾN NGÀY SÀIGÒN ĐỨT PHIM
30.4.1975
Năm 1969,
Hải Linh từ California bay qua Paris để rồi trở về thẳng Việt Nam do sự thúc
giục của Đức cha Phạm Ngọc Chi và Ủy ban Thánh Nhạc Toàn quốc. Cả một khả năng
tiềm ẩn như vậy và tuổi đời mỗi lúc một cao - vì thời gian không chờ đợi ai - chính Hải Linh cũng cảm nhận như
vậy, nên việc qui cố hương là một quyết định khôn ngoan và hợp lý, không còn
lựa chọn nào khác. Chính Hải Linh có lần cho biết: Thời gian chuẩn bị về Việt Nam, gia đình cũng gặp trục trặc không ít:
Hai con Cecilia và Joey nhất định không chịu về và báo cho Nhà trường can thiệp
để cô cậu ở lại Mỹ. Bà Ly cũng không muốn về vì cuộc sống dạy học ở Cali đã ổn
định và vững vàng (mặc dầu Giáo sư Đỗ Bá Khê sẵn sàng sắp xếp để Bà Ly về dậy
tại Đại học Đà Lạt).
Năm 1970, tôi
còn nhớ rất rõ vào một buổi trưa, sau khi dạy ở La San Taberd về Nhà thờ
Mạc-Ti-Nho (góc đường Hồng Thập Tự và Đinh Tiên Hoàng – Quận I), đang dựng xe
để vào phòng nghỉ ăn trưa thì Cha Hoàng Kim từ trên lầu nói vọng xuống thật lớn
với vẻ thật phấn khởi: Nhị Long ơi, Hải Linh đã về tới Sàigòn này
rồi. Và rồi hai Cha con tôi
nói chuyện ít phút, vì tôi còn phải đi dạy tại trường Thánh Mẫu, Gia Định vào 2
giờ chiều. Đại ý, Cha Hoàng Kim nhận
định: Hải Linh đã bước vào cái tuổi Ngũ Thập Nhi Tri Thiên Mệnh (tuổi 50 – đã
biết rõ mệnh Trời) và sống tại Hoa Kỳ quá lâu với một khả năng Thiên phú như
vậy, bó chân bó tay ở xứ người, uổng đi…
Việc Hải
Linh trở lại Sàigòn lần này đã tạo nên một luồng gió mới thổi vào Ủy Ban Thánh
Nhạc VN. Công việc đầu tiên là tái sinh hoạt Ca đoàn Hồn Nước với một số ca
viên mới. May mắn, Dòng Đức Mẹ Mân Côi (Chí Hoà, Sàigòn) đã dành một phòng nhỏ
bên trường Môi Khôi để Hải Linh tạm trú trong khi chưa có nơi ở ổn định. Nhưng
cơ duyên đáng trân trọng hơn nữa là Dòng Mân Côi đồng ý cho Hải Linh được tuyển
chọn 30 em trong số 300 em nữ sinh dự tu (Đệ Tử viện) để bổ xung 2 bè Soprano
và Alto. Bè Tenor và Bass gồm những Ca viên Hồn Nước cũ và một số thành viên
mới. Băng nhạc HỒN NƯỚC SỐ 1 với những ca viên chọn lọc kỹ như vậy nên đã đạt
được tầm mức nghệ thuật như ý Hải Linh mong đợi. Nhưng năm sau, vì những lí do
ngoài ý muốn, Ca đoàn Hồn Nước phải dời về sinh hoạt tại trường Nguyễn Bá Tòng
(đường Bùi Thị Xuân) và lẽ dĩ nhiên mất luôn 2 bè Soprano và Alto mà Hải Linh
đã dày công luyện tập trong một thời gian dài. Băng nhạc HỒN NƯỚC SỐ 2 bị mất
đi những giọng ca chọn lọc đáng trân quí.
Ngày 21.11.1971, Đại Hội Thánh Nhạc Toàn Quốc
lần đầu tiên, do Linh mục Nhạc sư Tiến Dũng và Linh mục Nhạc sĩ Gioan Nguyễn
Văn Minh tổ chức tại hội trường La San Taberd Sàigòn, Ca đoàn Hồn Nước
lại một lần nữa sáng chói trong Đại hội. Trong Đại hội long trọng này,
Ca trưởng Hải Linh điều khiển Ca đoàn Đại Hợp xướng Liên Tu sĩ với hàng trăm ca
viên gồm các Đại Chủng sinh Sàigòn, đại diện các Dòng tu Nam nữ, cùng với Ca
đoàn Hồn Nước - trình tấu Giáo Trường ca AVE MARIA (Đoạn Hợp ca mở đầu “Như
song lộc”… và đoạn Tấu lạy Bà + Phượng Trì).
Sau trên một thập niên vắng bóng, sự kiện Hải Linh trở lại bục điều
khiển đã đem lại niềm tin tưởng, niềm phần khởi cho giới yêu chuộng nghệ thuật
Hợp ca. Cùng xuất hiện trong dịp này có Ban Dân ca của Nhạc sĩ Hùng Lân, Ca
đoàn Hương Nam của Linh mục Nhạc sĩ Hoàng Kim, Ca đoàn Đẹp Bình Minh của Linh
mục Trần Học Hiệu…
Đại hội gồm 2 suất:
-
Suất I: Khai mạc lúc 10 giờ sáng do Đức Tổng Giám mục Nguyễn Văn Bình chủ toạ
-
Suất 2: Khai mạc lúc 5 giờ chiều do Đức Khâm sứ Toà Thánh Henri Lemaitre chủ
toạ.
Đây là lần đầu và cũng là
lần cuối, ngành Nghệ thuật Thánh Nhạc Việt Nam tổ chức được một Đại hội qui tụ
những Ngôi Sao xuất chúng thật tuyệt vời. Khách thưởng ngoạn là thành phần nghiêm
chỉnh, có trình độ…
CÔNG TRÌNH SÁNG TÁC 1940-1988
TẤT CẢ NHỮNG NHẠC PHẨM ĐỀU NẰM TRONG CHỦ ĐỀ:
TÔN VINH THIÊN CHÚA & TÁN TỤNG QUÊ HƯƠNG
* 1940-1945: Bài Mẹ ơi! Đoái thương xem nước Việt Nam, Au Paradis và rất nhiều ca khúc
về Đức Mẹ, Thánh Cả Giuse và các Thánh, Chiến Sĩ Phúc Âm, Khải Hoàn Ca (Tiếng
Nhạc Oai Hùng), Hương Quê, Bao Chiến Sĩ Anh Hùng, Thanh Niên Ca, Xuân Bính Tuất
được sáng tác vào thời điểm này. Nhưng nổi bật nhất là vào Mùa Giáng sinh
1945, sáng tác bản nhạc bất hủ HANG BELEM.
* 1956-1960: Ngoài những giờ dạy Âm nhạc tại
Nhạc viện Sàigòn, Đại Chủng viện, huấn luyện Ca đoàn Hồn Nước, Hải Linh quyết
tâm dồn mọi khả năng dệt Nhạc, điểm tô những vần Thơ trác tuyệt của Hàn Mặc Tử
cũng như trong kho tàng Văn học Việt Nam: Ave
Maria, Ra Đời, Kính Mừng Nữ Vương, Đà Lạt Trăng Mờ, Duyên Kỳ Ngộ. Các nhạc
phẩm như Hò Non Nước (thơ Võ Thanh), Nhạc
Việt, Cóc quân, Ra Khơi, Chinh Phụ Ngâm (8 câu đầu trong Chinh Phụ Ngâm Khúc
của nữ sĩ Đoàn Thị Điểm), Cung Đàn Bạc Mệnh I (Truyện Kiều của thi hào Nguyễn
Du), Tiếng Thu (thơ Lưu Trọng Lư), Lòng Mẹ (lời của Nhạc sĩ Y Vân)… cũng
được hoàn chỉnh.
* 1970-1986:
Ngoài việc dạy Nhạc tại Đại học Đà Lạt, Thành Nhân, Minh Đức, Suối Nhạc và
đào tạo được 40 lớp Ca Trưởng (Chef de Choeur) tại Sàigòn và Đà Lạt, Hải Linh
còn sáng tác: Cung Đàn Bạc Mệnh 2, 3, 4;
Thằng Bờm, Chuỗi Cười và NGÀI LÀ THIÊN CHÚA (Kinh Te Deum). Phụ soạn Say
Noel của Linh mục Kim Long. Thực hiện hai băng nhạc MỘT GIỜ HỢP CA I, II. Hoàn thành hoà tấu khúc CHUÔNG HOÀ BÌNH…
Sau biến cố 30.4.1975, Hải Linh lui vào bóng tối và âm thầm dạy Đàn, dạy
sáng tác và Ca trưởng tại tư gia. Tiếp tục sáng tác Hồng Ân Thiên Chúa, Bộ Lễ Nữ Vương Hoà Bình, Vinh Danh Thiên Chúa, Hoan
Ca Mùa Trường Xuân, Tình Nước Non, Khúc Ca Mặt Trời, Chúa Khởi thắng, Mừng Kính
Thánh Giuse. Nhuận sắc hai bài của Linh mục Vũ Đình Trác: Tán Tụng Hồng Ân, Tình Chúa Yêu Tôi. Nhuận
sắc hai bài của Hải Triều: Bến Thiên
Đàng, Yêu Con Đời Đời.
- Các Mùa Giáng Sinh 1976, 1977, 1978 đều hướng
dẫn cho các môn sinh tổ chức những chương trình Cầu nguyện Thánh ca tại các
Trung tâm sinh hoạt Công giáo Sàigòn. Đặc biệt, Mùa Giáng sinh 1979, nhờ sự
giúp đỡ của Cha Sở Huyện Sĩ, Nhạc sư Hải Linh đã tổ chức ĐÊM THÁNH CA GIÁNG
SINH mang tầm mức qui mô và rộng lớn. Sau đó, tiếp tục tổ chức những buổi Cầu
Nguyện Thánh ca tại Dòng Phanxicô Dakao (Sàigòn) nhân dịp Kỷ niệm 800 năm sinh
nhật Thánh Tổ phụ Dòng. Trường ca Các Tạo Vật (bản dịch của Linh mục Vũ Đình
Trác) được hoàn thành và trình tấu dịp này.
- Mùa Giáng sinh 1980, trong khi đang hướng dẫn các Ca trưởng, các môn
sinh để tổ chức đêm Cầu nguyện Thánh ca THẦN NHẠC LÊN NGÔI, qui tụ hầu hết các
Ca đoàn lớn tại Sàigòn, thì biến cố đau thương xảy tới: Vụ án Đắc Lộ (Dòng Tên) đã làm tê liệt hầu hết các Ca đoàn. Biến cố
nói trên chỉ xảy ra trước Giáng sinh 1980 có một tuần lễ. Kể từ sau biến cố
này, Nhạc sư Hải Linh lại âm thầm lui hẳn vào bóng tối. Tuy nhiên, vẫn tiếp tục
dạy sáng tác và Ca trưởng cho từng nhóm nhỏ do các Giáo xứ gởi đến. Hoàn chỉnh
2 tài liệu Âm nhạc:
1. LỐI VIẾT THOÁNG MỎNG - Trình bày một hướng sáng tác
độc đáo, nói lên nét đẹp thanh thoát nhẹ nhàng của Á Đông, đặc biệt là Việt
Nam. Trình bày lối viết nhạc Việt không cầu kỳ, rườm rà, đồ sộ như nhạc Tây
phương. Nhạc sư nhận định: Thế giới ngày nay đang đi tìm một cái gì nhẹ
nhàng thanh thoát đáp ứng với nguyện vọng thâm sâu của tâm hồn sau những lúc
cảm thấy bấn loạn và bất an. Trong những giờ dạy sáng tác, Nhạc sư Hải
Linh luôn luôn nhấn mạnh đến yếu tố này cho các môn sinh.
2. TRÌNH TẤU SỐNG ĐỘNG - Nội dung hướng dẫn phương cách
để điều khiển một Bản Hợp Ca sao cho đạt tới một trình độ nghệ thuật tinh vi.
Làm sao có thể diễn tả được cái HỒN của
bản nhạc. Đối với các môn sinh thụ huấn các lớp Ca trưởng, thấu triệt TIẾT TẤU là điều kiện quan trọng nhất
của người Ca trưởng. Chính Nhạc sư Hải Linh đã ghi lại một cách cẩn trọng như
sau: Cũng
như Jérôme- Joseph de Momigny (20
January 1762 - 25 August 1842), lý
thuyết TIẾT TẤU CỠI NGỰA TRÊN VẠCH NHỊP sẽ phải được ăn sâu trong mạch máu,
buồng tim của người Ca trưởng. Khi tôi chết đi, xin cũng viết nó trên mộ tôi để
người đời khỏi quên nắm tro tàn của tôi…
TRỞ LẠI HOA KỲ - IN GIÁO TRƯỜNG CA AVE
MARIA
1986 -1987: Sau khi hoàn tất mọi thủ tục do hai người con
Cecilia Dung và Joey Đức bảo lãnh, Nhạc sư Hải Linh từ giã Ca đoàn Hồn Nước và
họ hàng, thân hữu, rời Sàigòn đi Bangkok, Thái Lan ngày 8 tháng 5, 1986.
Ở Trung tâm chuyển tiếp Suan Plu
11 ngày. Sáng 19.5.1986 rời Bangkok qua Tokyo (Nhật) và tới San Francisco lúc
13:15 ngày 19.5.1986 (giờ địa phương). Có Bà Ly, Dung, Đức, Cha Trần Đức Huynh,
cô Thơ Thơ ra đón. Về nhà hai con Dung - Đức ở Sacramento, thủ phủ Bang
California.
Do sự chuẩn bị và sắp xếp từ trước của Linh mục Ngô Duy Linh, hồi 10 giờ
15 tối ngày 20 tháng 5 năm 1986, Nhạc sư Hải Linh đặt chân tới New Orleans,
Louisiana. Có Đức ông Mai Thanh Lương, Cha Ngô Duy Linh, Nhị Long và cháu
Phương Anh ra đón tại phi trường.
Từ đó, cư ngụ tại căn nhà số 3876 Eastview Dr. Harvey, Louisiana (nơi
đây có các Cha Ngô Duy Linh, Vũ Hân, Phạm Văn Tuệ).
* Có hai Nhạc sư xuất sắc nhất, trọn cả cuộc
đời phụng sự Chúa, phục vụ Giáo hội và Quê hương: HẢI LINH và NGÔ DUY LINH,
trước khi chết, đều hết mình ca tụng và tri ân Cha PHẠM VĂN TUỆ trong những năm
tháng dài sống bên nhau, chan chứa tình người…
Khuya đêm 20.5.1986, Đức ông Mai Thanh Lương, Cha Ngô Duy Linh,Nhị Long
và cháu Phương Anh ra phi trường đón Nhạc sư Hải Linh. Đi với Hải Linh có Cha Trần Đức Huynh và cô Thơ Thơ.
Nhạc sư Hải Linh giới thiệu Ca đoàn Hợp
tuyển Việt Nam tại New Orleans
trình tấu trong ĐẠI HỘI THÁNH NHẠC HOA KỲ
khai diễn tại New Orleans, Louisiana ngày
1.7.1986.
Không kịp nghỉ dưỡng sức vì chỉ 2 tuần sau, phải luyện tập cho 80 ca viên
(tuyển lựa trong số 300 ca viên của 5 Ca đoàn tại New Orleans, La) trình tấu
tại HỘI NGHỊ THÁNH NHẠC HOA KỲ vào chiều ngày 1.7.1986.
Đây là buổi điều khiển đầu tiên sau 16 năm
rời Hoa Kỳ. Trong buổi trình diễn này, Nhạc sư Hải Linh đã được 800 Ca Nhạc sĩ,
Nhạc công, đại diện các Giáo phận toàn quốc Hoa Kỳ đồng loạt đứng lên, vỗ tay
tán thưởng nồng nhiệt bất tận…
Nhìn lại cuốn Video, lòng trào
dâng một niềm xúc cảm, hãnh diện, tự hào cho Dân tộc Việt Nam. Đây là thành
phần cử tọa nghiêm chỉnh, chọn lọc, với một trình độ Âm nhạc có tầm vóc.
Sau khi trình tấu, Linh mục Giám đốc Ủy
ban Phụng vụ Thánh nhạc Hoa Kỳ, Cha Virgil C. Funk đã khiêm tốn đến chào mừng
Nhạc sư Hải Linh: “… tất cả đều dưới bàn tay tuyệt vời của ông. Tôi không biết phải dùng
những lời nào cho xứng đáng. Ông nên đưa ca đoàn Việt Nam đi trình diễn Thánh
ca trên nước Mỹ. Chúng tôi sẽ tận tình giúp đỡ Ông.”.
* Từ tháng 8 năm 1986 tiếp tục mở những lớp huấn luyện Ca trưởng tại New
Orleans, California, Portland Oregon, Dòng Đức Mẹ Đồng Công Missouri - Dallas -
Fort Worth (Texas). Trong thời gian này, sáng tác những bản Thánh ca, chuẩn bị
cho Dịp Lễ Tôn Phong Hiển Thánh tại Roma: KÍNH MỪNG CÁC THÁNH TỬ ĐẠO VIỆT NAM -
BÀI CA KHẢI HOÀN.
- Mùa Giáng sinh 1986, hướng dẫn và cố vấn cho các buổi Trình diễn Thánh
ca Giáng sinh tại California. Ngoài ra, điều khiển Ca đoàn La Vang tại
Portland, Oregon trong Thánh lễ Đại trào 2 kỳ Hành Hương 1986, 1987. - Nhân dịp Giáo phận Thái Bình Hải ngoại mừng
Kỷ niệm 50 năm thành lập, Nhạc sư Hải Linh qua Houston, gặp gỡ hướng dẫn Ca
đoàn tại đây. Đã có chương trình mở lớp huấn luyện Ca trưởng tại vùng Houston.
Hình
bià Giáo trường ca AVE MARIA - Minh hoạ “Thiên Thần Truyền Tin”
- Tháng 7, 1987 rời Portland, Oregon về Missouri giúp Ban Thánh Nhạc và
mở lớp Ca trưởng tại Dòng Đức Mẹ Đồng Công. Điều khiển Ca đoàn tổng hợp trong
Thánh lễ Đại trào NGÀY THÁNH MẪU tháng 8 năm 1987. In và phát hành Nhạc phẩm
AVE MARIA , kỉ niệm Hai Ngàn năm sinh
nhật Đức Mẹ. Trong công việc in ấn này, tôi (Nhị Long) là con thoi giữa
Nhạc sư Hải Linh và Cha Giám tỉnh Nguyễn Đức Thiệp CMC (Thầy dạy cũ của tôi),
Cha Đinh Vương Cần CMC (trưởng Ban Tổ chức Ngày Thánh Mẫu 1987). Vì có một vài
nhân sự trong Nhà Dòng bàn ngang, công việc gặp trục trặc. Nhưng cuối cùng,
Chúa và Đức Mẹ đã can thiệp. Nhà Dòng in 3000 tập. Nhạc sư Hải Linh nhận tác
quyền 700 tập và Thầy đã giao cho Nhị Long mang về New Orleans, sau Đại Hội
1987. Đây là một Nhạc phẩm in ấn trang trọng duy nhất trong suốt cuộc đời Âm
nhạc của Nhạc sư Hải Linh. * Dịp Thanksgiving cuối tháng 11 năm 1987, mở lớp Ca
trưởng tại Dallas-Fort Worth, Texas. Rời Dallas-Fort Worth trong một tâm trạng
phấn khởi và tươi vui. Chuẩn bị cho lớp Ca trưởng tại Houston theo nhu cầu của
giới trẻ tại đây...
* Do lời mời của Linh mục Nhạc sư Ngô Duy
Linh, Nhạc sư Hải Linh đã nhận hướng dẫn phần nghệ thuật các bản Thánh ca trong
Thánh lễ Đêm Giáng Sinh 24.12.1987 tại Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời, Avondale,
Louisiana. Điều khiển Cộng đồng hợp xướng bản HANG BE-LEM. Đây là lần điều
khiển và đệm phong cầm cuối cùng trong cuộc đời.
Ca đoàn Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời (Avondale, Louisiana) trong ĐÊM GIÁNG SINH 24.12.1987…
Còn có sự hiện
diện của Nhạc sư Hải Linh, Cha Ngô Duy Linh…
*HÌNH TRÁI: Chiều ngày 4.10.1987, lớp Tập hát New Orleans, Louisiana (sẽ dự Lễ Phong Thánh tại Roma 19.6.1988) mừng sinh nhật lần thứ 67 Nhạc sư Hải Linh tại hoa viên trước University Center, Đại học UNO (University of New Orleans). Mừng sinh nhật lần cuối cùng trong cuộc đời… Cha Ngô Duy Linh và Giáo sư Phạm Nghệ đứng bên phải.
* HÌNH PHẢI: Nhạc sư Hải Linh đệm phong cầm
trong ĐÊM GIÁNG SINH 24.12.1987 và điều khiển Ca đoàn & Cộng đồng dân
Chúa - tại Nhà thờ Đức Mẹ Lên Trời,
Avondale, Louisiana – hợp xướng nhạc phẩm HANG BELEM… Giáo sư Vĩ cầm Phạm Nghệ
kéo Violon bên cạnh.
* 1988: RA ĐI ÊM
ÁI
Hồi 5 giờ chiều ngày 5 tháng 01 năm 1988, rời New Orleans đi Los
Angeles, California chuẩn bị tập hát dịp Lễ Phong Thánh. Trước khi tới Los
Angeles, máy bay ngưng ở Dallas một khoảng thời gian ngắn. Gặp và nhắn nhủ anh
em nhóm Dallas - Fort Worth (Đàlạt - Phú Quốc).
Đêm 5.01.1988 tới Los Angeles, trong một trạng thái mệt mỏi vì tuổi đã
cao và phải ngồi trên máy bay lâu giờ. Nhưng lý do chính là không hợp thực phẩm
bữa ăn chiều do chuyến bay cung cấp. Trải qua một đêm tại Los Angeles… trằn
trọc, mất ngủ...
Joey Đức, Cecilia Dung, Nhị Long, bà Ly…
cạnh thi hài Nhạc sư Hải Linh tại New Orleans (15.01.1988)
Ngày 6 tháng 01 năm 1988, mệt mỏi
và muốn tới phòng mạch Bác sĩ. Sau những giây phút đau đớn dồn dập, Nhạc sư Hải
Linh từ trần hồi 6 giờ 30 chiều (giờ địa phương) tại bệnh viện Fountain Valley,
California. Linh cữu được đặt tại Nhà Quàn, Hội Việt Nam Tương Tế (nghĩa trang
Melrose Abbey, 2302 South Manchester, Anaheim, Cali.) Thánh lễ tiễn đưa cử hành
vào lúc 5 giờ 15 chiều thứ Tư ngày 13 tháng 01 năm 1988 tại Thánh Đường Saint
Callistus (Cộng đoàn Tam Biên) 12921 Lewis St. Garden Grove, California… Di
chuyển linh cữu về New Orleans, Louisiana trên chuyến bay #798 Delta Airlines.
Máy bay rời Los Angeles hồi 12:20 Pm (giờ địa phương) tới New Orleans,
Louisiana hồi 5:44 Pm (giờ địa phương) ngày 14 tháng 01 năm 1988.
Thánh lễ cầu nguyện được cử hành tại WESTSIDE FUNERAL HOME,
Westbank Expwy, Marrero, Louisiana vào hồi 5 giờ chiều ngày 15.01.1988. Hồi 9
giờ sáng ngày 16.01.1988 chuyển Linh cữu từ Westside Funeral Home tới Nguyện
Đường Đức Mẹ Lên Trời, Avondale, Louisiana (nơi Cha Ngô Duy Linh làm Quản
nhiệm). Phần Cầu nguyện Thánh ca Tưởng Niệm và Thánh Lễ đồng tế trọng thể đã
được diễn tiến từ 10 giờ đến 12 giờ 30 trưa. Sau đó, chuyển Linh cữu ra Nghĩa
trang Avondale. Phần mộ tọa lạc tại: Restlawn Park Cemetery Garden of Family
Devotion Block H, Square G Plot 22, lot 2.
Điều thật lạ lùng là những danh tài lỗi lạc như Hải Linh, Ngô Duy Linh,
Trần Cao Tường… đều chọn về phục vụ một mảnh đất nhỏ bé nhất và an nghỉ tại
nghĩa trang Avondale, Louisiana…
Châu
thành Ngọc Lân (New Orleans) Mùa Giáng sinh đầy kỉ niệm - Nhịlong Nhịlangsơn
* Sơ thảo: Dịp Lễ An táng Nhạc sư Hải
Linh (16.01.1988) * Hoàn chỉnh: Mùa
Giáng Sinh 2010
* Một số lớn độc giả hỏi về bút danh
của người viết bài này, xin thưa:
-
Nhị Long: Lấy từ tên hai dòng sông Nhị
Hà và Cửu Long ghép lại.
-
Nhị Lang Sơn là một cảnh Đèo rất ngoạn mục nằm ở vùng ba biên giới Tây Tạng,
Miến
Điện và Hoa lục. Chính nơi đây là thượng nguồn dòng Cửu Long giang...
Cha Ngô Duy Linh, Nhạc sĩ Phạm Duy, Nhị Long và anh Nguyên trước phần mộ Hải
Linh
* *** *
ĐIẾU VĂN NGÀY VĨNH BIỆT HẢI LINH
Phạm Duy
Anh Hải Linh thương mến,
Tôi được hân hạnh quen anh vào buổi chiều Đông 1954, ngay cửa miệng hầm
métro, trước thềm đá của Nhà Hát Lớn Opéra, bên hữu ngạn dòng sông Seine của
thành phố Paris trong một mùa ướt lạnh và u tối ! Lúc đó, tôi đang theo học ở Institut De Musicologie thuộc viện
Sorbonne với tư cách một bàng thính viên, còn anh thì đang thụ huấn tại Trường
Nhạc César Franck.
Chiều hôm đó, cũng có mặt vị Sư huynh trẻ tuổi Ngô Duy Linh. Và chính Ngài là người rất tế nhị, đã gọi phone cho tôi, hẹn tới gặp
nhau ở đây, trước cổng lớn của một Lâu Đài Nghệ Thuật…
Chúng ta đã kéo nhau đi uống nước và trò chuyện rất lâu về Âm nhạc. Chúng ta đã rất yêu quí nhau, bởi vì chúng ta đều
đang cùng đi học hỏi những kiến thức về âm nhạc của nhân loại ở phương xa, để
có thêm chất liệu dùng vào việc xây dựng một nền nhạc mang âm hưởng Dân tộc…
Tôi còn nhớ hôm đó, anh đã dạy cho tôi biết rằng ở trong Công giáo Việt Nam
có những bài Chant grégorien – mà anh gọi là Bình ca – hoàn toàn do người Việt soạn ra. Lúc đó, anh
đang chuẩn bị trình luận án về MÀU SẮC VIỆT NAM TRONG BÌNH CA (LA COULEUR VIETNAMIENNE DANS LE CHANT GREGORIEN ) và anh đã hỏi
tôi, khi đó đã được coi như một người chuyên khảo về Dân ca (Folkloriste) là : Đã có bao giờ tôi sưu tầm những Bình ca Việt Nam chưa? Sự hiểu biết của tôi lúc đó hãy còn quá non nớt, nhưng tôi cũng đã
biết rằng từ nhiều thế kỷ trước, trong gia đình Công giáo, đã có rất nhiều những
bài Ca vịnh
là thơ lục bát được hát lên với
những điệu hát cổ truyền như hát Vãn,
hát Vè, Trống Quân, Quan Họ … vốn
cũng có những cung bực gần gũi với các âm giai trong nhạc Grégorien …
Loại này được anh gọi là Cổ Giáo Nhạc Việt (Chant Paraliturgique). Tôi cũng còn biết thêm rằng trong giai đoạn thành hình của nền
Tân Nhạc vào đầu thập niên 1940, đã có những công trình quan trọng của Nhạc đoàn Lê Bảo Tịnh với những ca khúc Giáo đường do
người Việt Nam soạn ra, được in trong những cuốn sách gọi là NHẠC TẬP CUNG
THÁNH. Và một trong những bài hát hay nhất được phổ biến nhanh nhất ở cả hai
bên Lương - Giáo lại là bài ĐÊM ĐÔNG hay HANG BELEM của
anh, soạn ra trong năm 1945.
Rồi chúng ta trở về Việt Nam, chúng ta lớn lên với sự lớn
lên của Nhạc Việt. Tôi đã theo dõi sự hoạt động Âm nhạc của anh và rất cảm phục anh trong hai chủ đề mà
anh đã vạch ra một cách rõ ràng : Tôn Vinh Thiên Chúa và Tán Tụng Quê
Hương .
Những lời kinh của Thánh Phanxicô mà Linh mục Vũ Đình Trác đã soạn thành thơ để anh phổ nhạc, đã khiến
cho chúng tôi, những kẻ ngoại đạo, thấy được tạo vật như Mặt Trăng, Mặt Trời, Tinh Tú, chim chóc, Kim Mộc Thủy Hoả Thổ… tất cả đều lên tiếng ca tụng Thiên Chúa, khiến cho chúng tôi cũng muốn cất tiếng ca theo.
Chúng tôi còn được thấy bài thơ THÁNH NỮ ĐỒNG TRINH MARIA của Hàn Mặc Tử, trở thành một Giáo trường ca do bàn tay sáng tạo của anh, để thấy được giá trị tuyệt đỉnh của Thi ca và Âm nhạc Công giáo Việt Nam, không thua kém bất cứ Thi ca và Âm nhạc của bất cứ người Công giáo nào trên Thế giới. Rồi tới những bài kinh Te Deum – TẠ ƠN
THIÊN CHÚA, KÍNH MỪNG NỮ VƯƠNG, TÁN TỤNG HỒNG ÂN… của anh đã vang dội trong các Giáo đường trong Nước, ngày càng giữ cho Niềm Tin vào Chúa trở nên sâu đậm.
Tôn
vinh Thiên Chúa nhưng anh cũng
không quên Tán tụng Quê hương. Hai đại thi
phẩm của dân tộc như CHINH PHỤ NGÂM và KIM VÂN KIỀU đã được anh phổ thành những
bản hợp ca vĩ đại, mang hình thức Ca nhạc Giao hưởng (Poème Symphonique)
hay Tiểu Nhạc kịch (Micro – Opéra).
Và biết bao nhiêu công trình khác của anh như CÓC QUÂN ĐẢ PHÁ THIÊN ĐÌNH, THẰNG
BỜM CÓ CÁI QUẠT MO, RA ĐỜI, RA KHƠI, HƯƠNG QUÊ... đã trở thành những viên ngọc
quý giá nhất của gia tài Âm nhạc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi này.
Anh
lại còn quá rộng lượng mà ban bố cho người đi sau những kinh nghiệm sáng tác của
anh qua cuốn sách nhan đề LỐI VIẾT THOÁNG MỎNG, dạy cho hậu bối biết được nét đẹp
độc đáo của Nhạc
Á đông nói chung, Nhạc Việt Nam nói riêng, vốn không cầu kỳ, rườm rà hay đồ sộ như nhạc Tây
phương và chính cái đơn sơ nhẹ nhàng thanh thoát của nó sẽ được người Tây phương tìm về, khi họ cảm thấy
có sự bất an kinh khủng trong cuộc đời quá ư thiên về vật chất của họ.
Ngoài tài sáng tác ra, anh còn là người đã đào
tạo rất nhiều Ca trưởng (Chef de choeur ) bởi chính anh đã là một Ca trưởng tài tình nhất, giỏi nhất, có nhiều kinh nghiệm
nhất... sau khi đã tạo dựng và điều khiển Ban Hợp ca hay nhất Việt Nam là ban HỒN NƯỚC.
Và cùng với mục đích truyền bá kinh nghiệm của mình, anh đã soạn ra cuốn
sách dạy cách điều khiển hợp ca, nhan đề TRÌNH TẤU SỐNG ĐỘNG, trong đó, anh cho
mọi người thấy lối đánh nhịp cho một Ban Hợp ca cũng giống như việc phóng một Phi thuyền vào Không gian, cần phải có sự chuẩn bị đầy đủ và chính xác
như thế nào...
Anh Hải Linh! Anh đã không còn đứng đây, giơ tay hùng
dũng phóng Vệ tinh cho chúng tôi được bay bổng cùng anh trong không
gian và thời gian nữa. Anh đã nằm xuống để êm ái đi về Nước Chúa, nhưng tôi tin
chắc chắn rằng, ngày
nào còn bóng dáng của những Giáo đường trên những nẻo đường Việt Nam, dù đó không phải
là những nẻo đường vắt trên Quê hương yêu dấu, ngày nào còn vang tiếng kinh cầu chen với
tiếng Nhạc Thánh vọng lên bằng ngôn ngữ Việt Nam, ngày ấy anh vẫn còn
sống động trong lòng mọi người.
Cảm
động và sung sướng biết bao, khi gần đây, trong lúc đang hoang mang và lúng
túng đi tìm những phương cách để kéo được tuổi trẻ Việt Nam tị nạn trở về với
ngôn ngữ mẹ đẻ... thì tôi được tham dự một buổi Lễ Nhà thờ. Tôi đã được chứng kiến một cách vừa ngỡ ngàng vừa sảng khoái đến tột
độ, cái cảnh Nhà
thờ chật ních những em bé đứng bên các bậc phụ huynh. Các em đó, có em chỉ mới
lên năm, lên sáu, đã mở những miệng son ra để cầu kinh hay hát Đạo bằng tiếng Việt! Chúng ta cứ loay hoay đi tìm buổi
trưa vào lúc 2 giờ
chiều
mà không biết rằng Giáo hội Việt Nam lưu vong đang thầm lặng
gìn giữ tiếng mẹ đẻ cho người Việt tị nạn, từ trẻ sơ sinh cho đến người tuổi hạc,
qua niềm Tin vào Thiên Chúa, được nâng niu bởi những bài
Thánh ca Việt Nam, tạo nên bởi những người như Hải Linh.
Anh Hải Linh ơi! Anh hãy ngủ ngon giấc ngủ nghìn đời! Tôi
sẽ còn gặp anh trong tiếng hát của những người hiền như MaSoeur, qua lời giảng của những Linh mục chưa phai mùi thơm của đồng ruộng Việt Nam, trên
những môi đỏ vết trầu của các bà mẹ còn chít khăn vuông mỏ quạ đi chợ
supermarket... và xinh đẹp nhất, trên những môi mọng của các em bé nửa Việt Nam
nửa Mỹ đang sống nhờ ở Đạo của Chúa và Nhạc Thánh của anh để không còn lo mất gốc, mất rễ.
Vĩnh biệt mà không
vĩnh biệt Hải Linh, người con yêu của Việt Nam và của Chúa…
Phạm Duy
* Bài điếu văn này do Nhạc sĩ Phạm Duy đọc
trong buổi Lễ Tang Hải Linh chiều thứ Tư, ngày 13.01.1988 tại Orange County,
California. Sau đó, Phạm Duy có gởi cho Linh mục Nhạc sư Ngô Duy Linh và Ngài
trao cho Nhị Long phổ biến trong tập sách hát nhân dịp Giỗ giáp năm 31.12.1988
tại New Orleans, Louisiana, USA.
Đức
ông Mai Thanh Lương chụp hình chung với một số cựu môn sinh của Nhạc sư Hải
Linh (16.01.1988).
Luật
sư Vũ Minh Trân & Cha Ngô Duy Linh đứng hàng trên cùng, phía tay trái.
* * * * *
NHỚ HẢI LINH
KIM ĐỊNH *
Nhớ Hải Linh là nhớ tới thời chúng tôi sống an vui ở Paris, nơi đất khách quê người chẳng quen ai, nhưng cứ sống như chim trời cá nước: Không hề đặt vấn đề học bổng học biếc chi cả, mặc cho bên nhà cứ gửi sang hết nhóm Chủng sinh này đến nhóm Nữ tu kia, trên mười mấy mạng, không hề từ chối. Hễ bên nhà đủ sức gửi thì bên này cũng đủ sức đón nhận.
Chính trong bầu khí AN VI đó mà HẢI LINH được gửi sang
Rome học Nhạc. Nhưng chỉ ít lâu, Hải Linh ngỏ ý muốn qua Pháp là tôi chấp nhận
liền. Lúc ấy, chúng tôi đã tậu được một apartment 3 phòng ở 21 Beaurepaire, thuộc
quận 10 tại Paris. Tôi để Hải Linh ở một phòng và Hải Linh bắt đầu đi học Nhạc
tại trường Cesar Franck. Còn rảnh thì giờ nào thì phân tích các bài dân ca. Lúc ấy tôi đang đi
tìm Triết Đông nên rất thích thú nghe Hải Linh nói về Nhạc, vì tôi gặp thấy
trong Dân Nhạc nhiều điểm giống với Triết Đông. Chẳng hạn Nhạc Việt theo hệ thống Ngũ Cung thì Triết Đông căn cứ trên Ngũ Hành… Nhạc là Nữ Vương
Nghệ Thuật. Vì bản tính nghệ thuật là HÒA mà NHẠC thì HÒA từ trong bản tính,
nên ta quen nói Hòa Âm, Hòa nhạc, Hòa tấu…
Triết cũng là Nữ Hoàng các Khoa Học vì khi đi được đến cùng cực thì đạt
THÁI HÒA cũng là đạt thập thành, đạt đủ 4 đức tính của nền Triết là VĂN – LÝ –
MẬT – SÁT. Do vậy mà tôi không chuyên về Nhạc cũng rất thích nói chuyện với Hải
Linh về Nhạc.
Tôi thường giục Hải Linh tìm ra trong Nhạc Việt xem cơ cấu
nào đặc trưng,
tương tự như của Nhật Bản: Nghe là biết được âm nhạc của Nhật liền, không lẫn đi đâu
được. Hải Linh nói: Có, nhưng vì mình có đến 3 Miền nên không nổi bật lên như thế được.
Trong thời gian này, Hải Linh bắt đầu sáng tác những nhạc phẩm như : Nhạc
Việt, Chinh Phụ Ngâm, Cung Đàn Bạc Mệnh… có những câu láy mà Hải Linh lướt trên
Piano được, còn người học thành tài không sao diễn tả nổi.
Nhị
Long bên cạnh Linh mục Triết gia Kim Định
trước phần mộ Nhạc sư Hải Linh.
Hải Linh kể cho tôi nghe chuyện người Nhật Bản
kia vào đặt cho thợ chế Piano làm sao có thể đánh được
mọi quãng. Thợ lắc đầu: Làm sao nổi, may ra chỉ có những
đàn dây như Violon hay đàn Độc huyền mới chơi được. Tôi hỏi vậy tại sao Hải
Linh đánh được như thế. Hải Linh trả lời: Cũng không hiểu tại sao lại
đánh được liền như thế. Đó là điều lạ; vì Hải Linh rất khó tính
trong vấn đề ca hát, phải đi đúng từng li từng tí kiểu văn, lý, mật, sát,
như trong Triết mới chịu. Vậy mà Hải Linh lại đánh lên được theo những
yêu sách tế vi kia
Thời đó tôi đoán là Hải Linh không những có tài mà còn là
thiên tài chưa chừng. Điều do tôi dự đoán lúc ấy thì sau đã được ông Guy de Lioncourt, Viện Trưởng Âm Nhạc Viện Cesar Franck quyết đáp khi ông nói: Hải Linh là một trong hai thiên
tài mà ông gặp được trong đời dạy học của ông. Tôi thỏa mãn câu này coi như một
kiện chứng
cho một ý nghĩ của tôi, vì thời ấy Hải Linh chưa biểu lộ hết tài năng cũng như
tôi chưa đi vào Triết sâu đủ để có thể đưa ra được định nghĩa thế nào là nhân tài. Mãi sau
nhiều quan sát, nhận định tôi mới đi đến kết luận thiên tài là khả năng hoàn
thành được một cái gì đặc sắc, làm bền bỉ và thường làm cách sảng khoái.
Giữa năm 1986, khi Hải Linh trở lại Mỹ có đến thăm tôi được
vài giờ, tôi nói với Hải Linh: Chúng
ta là những người may mắn nhất trên đời vì trải qua bao cuộc bể dâu thế mà hai
ta đã hội được khá đủ điều kiện để hiện thực lý tưởng cao nhất của cuộc đời là
làm được điều mình có khả năng hơn hết và dồn vào đó trọn bầu sinh lực của
mình.
Chúng tôi cũng vội hâm lại những mộng án xưa về đoàn Ca Nhi mà chúng tôi tính sẽ thiết lập sau này để hỗ trợ cho các bài nói chuyện
về Triết Việt… Hải Linh có cho tôi biết là đã sáng tác một bản
hòa tấu: Chuông Hòa Bình. Trong bài đó, có một ít lời mà Hải Linh có dành riêng cho tôi đọc. Hải Linh bảo không muốn
để ai khác đọc vì bài đó đã được gợi ý cho chữ HÒA mà hai người thường nói với
nhau xưa. Rồi Hải Linh nhắc lại câu "Ma Y Thần Tướng" mà tôi hay nói
với Hải Linh:
Khan khan giọng cổ tiếng cười,
Quăn quăn tóc trán là đời khôn ngoan.
Đêm ngày tư lự lo toan…
Tháng 7 năm 1986 tại Hội Nghị Thánh Nhạc Hoa Kỳ, trước
khoảng 800 Ca Nhạc sĩ, Nhạc công Hoa Kỳ, Hải Linh đã điều khiển Ban Hợp ca Việt
Nam gồm 80 ca viên. Các Nhạc sĩ, Nhạc
công Hoa Kỳ đã chứng kiến tận mắt kỹ thuật điều khiển vừa độc đáo, vừa tinh vi
và đã đề cao Hải Linh như một thiên tài hiếm có. Sau khi Hải Linh rời bục điều
khiển, Linh mục Chủ tịch Hội nghị Thánh Nhạc Hoa Kỳ, Cha Virgil C. Funk, tiến tới
trước mặt Hải Linh trong một cử chỉ kính cẩn: Tôi
không có một lời nào xứng đáng để ca tụng tài năng nghệ thuật của ông. Tất
cả đều được đặt dưới bàn tay điêu luyện của ông…
Tôi đang hí hửng vì Hải Linh sẽ có dịp biểu diễn tài năng
trên trường Quốc tế dịp lễ Phong Thánh thì thình lình được điện thoại Cha Trác báo tin: Hải Linh qua đời. Tự nhiên tôi nhỏ mấy giọt lệ khóc tiễn
đưa một người bạn thân. Và trong lòng tôi bỏ mộng án về đoàn Ca Nhi đã nhen nhúm trở lại trong lòng tôi với một căn cứ cụ thể. Tôi thì thầm
với Hải Linh : Hải Linh ơi! Thôi từ biệt Hải Linh nhé và tôi cũng từ bỏ luôn ý
định lập đoàn Ca Nhi ở trần gian này. Xin Hải Linh lên trên ấy liệu tập
đoàn Ca Nhi Thiên thần cho một ngày kia tôi lên, chúng ta cùng khai mạc những buổi
Triết Nhạc siêu việt dưới mắt từ mẫu Maria, còn đời này vậy là hết…
Rồi tôi lau nước mắt và lấy lại niềm vui thường pha lẫn
những hài hước như lúc chúng tôi sống ở Paris. Tôi liền lẩm nhẩm bài hát đầu
tay của Hải Linh mà dịp "Cách mạng 1945" có em bé chăn trâu đã đổi lời đi rồi trèo lên cây Xoan hướng phía trường Thầy Giảng Bùi Chu hát to, lúc các Thầy đang yên tĩnh suy ngắm, làm cho cả nhà bị một bữa nín cười đau đến quặn
ruột:
Mẹ ơi đoái thương xem đến bà Nam !
Bà ấy ốm quá sức lẽ mình !
Bà ấy không ăn được tí gì đâu,
Cho bà ấy tí cháo "hoa hành"
Tôi đổi "bà Nam" ra "Thầy Linh", "bà ấy" ra "Thầy ấy", "tí cháo hoa hành" đổi ra
"ít phút kinh cầu"…
Kim
Định
*Bài viết này do chính Linh mục Triết
gia Kim Định viết và gởi trực tiếp cho Nhịlong.
Bài viết khác
Âm Nhạc Công Giáo trong Văn Hóa Việt Nam - Gs Lê Đình Thông
Vidéo : NGÀY VĂN HÓA THƯ VIỆN GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS - Chúa Nhật 07/04/2024
Thư mời Ngày Văn Hóa Thư Viện Giáo Xứ VN Paris 07-04-2024
The Chosen : Đấng được chọn - Công Bình
Rogations, nghi thức Cầu Mùa đang được hồi sinh tại giáo xứ Moissac - Công Bình
Chúc Thọ & Chúc Thêm - Cung Chi
Vâng Phục Qua Giấc Mơ - Anê Thùy Dung
Nhìn và Ngắm - Nguyễn Đăng Quế
Mùa Chay 2023 : Mùa Cháy – Mùa Chạy – Mùa Chảy - Lm Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Đức Thánh Cha Phanxicô và chuyến công du đầu năm 2023 - Công Bình
Chuyện Yếu Đuối - Trầm Thiên Thu
Suối nước chữa lành - Sr. Maria Thúy Nga, FMA
Đôi lời tri ân độc giả Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris - Giang Minh Đức
Vè Tết Quý Mão - Anna Trương Thị Lâm Sang