Trần Văn Cảnh
TÌNH
YÊU VỢ CHỒNG
MỘT
BÀI PHỤNG CA
T |
rong các đề tài của đời sống con người, có lẽ « tình yêu » là đề tài được nói đến nhiều nhất, trong khắp các thời đại, ở khắp các lục địa, qua khắp các thể loại nghệ thuật và văn chương.
Đã là người, ai mà chẳng yêu. Nhưng yêu là gì ? Vì sao
yêu ? Yêu do động lực nào ? Yêu vì mục đích nào ? Yêu thế
nào ? Yêu ở đâu ? Yêu khi nào ? Ai yêu ? Yêu ai ?
Đức Giáo Hoàng Bênêđictô
XVI đã lưu ý chúng ta phải « nhớ đến
sự đa dạng ý nghĩa của thuật ngữ ''tình yêu'': chúng ta nói đến tình yêu tổ
quốc, tình yêu nghề nghiệp, tình yêu bạn bè, yêu thích việc làm, tình yêu giữa
cha mẹ và con cái, giữa anh chị em và thân bằng quyến thuộc, tình yêu tha nhân
và tình yêu đối với Thiên Chúa » [1].
Dưới khía cạnh tình yêu vợ
chồng, có ba ơn gọi chính : ơn gọi sống khiết tịnh, ơn gọi sống tình yêu
vợ chồng và ơn gọi sống góa. Bản thân là một người đã chọn sống ơn gọi tình yêu
vợ chồng, muốn tìm hiểu hơn về ơn gọi này hầu giúp mình và giúp những người
mình có trách nhiệm phải giúp, trong bài này, người viết chỉ muốn đề cập đến ơn
gọi thứ hai là ơn gọi sống tình yêu vợ chồng. Và xin khởi đầu cới ba câu hỏi
căn bản : Văn hóa Việt Nam ghi khắc gì về tình yêu vợ chồng ? Đức tin
công giáo trao cho tình yêu vợ chồng sứ mệnh gì ? Tuyệt đỉnh của sứ mệnh tình
yêu vợ chồng công giáo đưa về đâu ?
1.Tu là cõi phúc, tình là
giây oan
Văn chương bình dân Việt
nam có một kho tàng phong phú về hấp lực yêu thương, tình ái trai
gái.
Bài hát quan họ Bắc Ninh : « Yêu nhau cởi áo ối à cho
nhau, về nhà dối rằng cha dối mẹ a..à..a..á..a, rằng a ối a qua cầu (x2), tình
tình tình gió bay (x2). Yêu nhau cởi nhẫn ối a cho nhau, về nhà dối rằng cha
dối mẹ a..à..a..á..a, rằng a ối a qua cầu, rằng a ối a qua cầu (x2), tình tình
tình đánh rơi (x2). Yêu nhau cởi nón ối à cho nhau, về nhà dối rằng cha dối mẹ
a..à..a..á..a, rằng a ối a qua cầu (x2), tình tình tình gió bay (x2) ».
Ca dao
bình dân :
« Anh về, em chẳng cho về.
Em nắm vạt áo, em đề tặng anh.
Câu thơ ba chữ rành rành :
Chữ trung, chữ hiếu, chữ tình là
ba.
Chữ trung thì để phần cha,
Chữ hiếu phần mẹ, đôi ta chữ
tình ».
Nhưng về tình yêu vợ chồng,
thì chữ tình, chữ yêu lại ít được dùng đến, mà hay dùng những chữ khác, như
nghĩa tào khang, chồng hòa, vợ thuận, nhà thường :
« Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng
hòa, vợ thuận, nhà thường yên vui,
Sinh
con mới ra thân người
Làm
ăn thịnh vượng, đời đời ấn nỏ.
Dường như về tình yêu vợ
chồng, văn chương bình dân, phát xuất từ tâm tình bột phát, của sức sống tự
nhiên, đã đè nén cái hấp lực yêu thương tình ái trai gái để khép mình vào khuôn
khổ lễ nghi, thuần phong, mỹ tục của văn chương bác học, qua những tư tưởng
hướng đạo của ba tôn giáo Phật, Lão, Khổng, mà truyền thống dân tộc đã chịu ảnh
hưởng sâu xa.
Đạo Phật do đức Phật
Thích Ca Mâu Ni (-623-543) sáng lập, mà nền tảng xây trên Tứ Diệu Đế.
Khổ đế (chân lý về
khổ) : đời là bể khổ ; khổ vì đau khổ, như sinh lão bệnh tử ; khổ vì
sự thay đổi và khổ vì duyên sinh.
Tập khổ đế (chân lý về
nguồn gốc của khổ) : nguồn gốc của đau khổ là vô minh, ham muốn.
Diệt khổ đế (chân lý
về diệt khổ) : muốn diệt khổ phải thắng được vô minh, ham muốn.
Đạo đế (chân lý về con
đường thoát khổ) : con đường thắng vô minh, ham muốn là con đường tu, là chiêm
niệm, từ bi, thờ ơ với phúc họa, để ra khỏi vòng luân hồi của cõi vô thường,
tới được niết bàn là nơi thinh không, thanh tịnh không còn ham muốn.
Chữ tình ái,
được nói đến trong thập nhị nhân duyên, ở duyên thứ 8 (thụ sinh ái : cảm
nhận với thế giới bên ngoài sinh ham muốn) và thứ 9 (ái sinh thủ : ham
muốn sinh ra chiếm đoạt), là một trong thập nhị nhân duyên lôi cuốn con người
vào vòng luân hồi « vô thường ».
« Tu là cõi phúc, tình là giây oan » là câu thơ mà Nguyễn Du đã
dùng để diễn tả xác tín Phật giáo của văn hóa Việt Nam rằng con đường tu bát
chánh đạo là con đường chân chính đưa vào cõi phúc Niết bàn, nhờ xa lánh trần
tục, nuôi tâm dưỡng tính ; Còn tình lưu luyến trai gái chỉ là giây oan, vì nó
là một ham muốn mãnh liệt, là sợi dây oan nghiệt trói buộc con người vào ham
muốn, vô minh, đau khổ.
Đạo Lão do Lão Tử
(-604-531) sáng lập, mà những điều căn bản đã được ghi chép trong « Lão Tử - Đạo Đức
Kinh ». Lão tử bác bỏ thuyết trời sinh
ra vạn vật, mà có cái gì khác sinh ra vũ trụ, có trước thượng đế. Cái đó, ông
không biết tên là gì, tạm đặt tên cho nó là “đạo” Đạo là “mẹ của vạn vật” (Đạo Đức Kinh,
ch.25). Đạo bất biến, vô danh, vô vi. « Đạo sinh ra vạn vật, đức bao
bọc, bồi dưỡng, nuôi lớn tới thành thục, che chở mỗi vật (…); vật chất khiến
cho mỗi vật thành hình; hoàn cảnh [khí hậu, thuỷ thổ] hoàn thành mỗi vật »
(Chương 51).
Đạo có ba tính chất là mộc mạc,
tự nhiên và quay trở về. “Đạo vĩnh cửu thì không làm gì (vô vi - vì là tự
nhiên) mà không gì không làm (vô bất vi - vì vạn vật nhờ nó mà sinh, mà lớn);
bậc vua chúa giữ được đạo thì vạn vật sẽ tự biến hóa (sinh, lớn). Trong quá trình
biến hóa, tư dục của chúng phát ra thì ta dùng cái mộc mạc vô danh (tính cách,
bản chất của đạo) mà trấn áp hiện tượng đó, khiến cho vạn vật không còn tư dục
nữa. Không còn tư dục mà trầm tĩnh thì thiên hạ sẽ tự ổn định” (Chương 37).
[Đạo] lớn (vô cùng) thì lưu hành (không ngừng), lưu hành (không ngừng) thì
đi xa, đi xa thì trở về) (Chương 5).
Đạo
có cái gì tương đối và tương phản. “Cái gì hoàn toàn thì dường như khiếm
khuyết mà công dụng lại không bao giờ hết; cái gì cực đầy thì dường như hư
không mà công dụng lại vô cùng; cực thẳng thì dường như cong, cực khéo thì
dường như vụng, ăn nói cực khéo thì dường như ấp úng” (Chương 45). “Đạo trời giống
như buộc dây cung vào cung chăng? Dây cung ở cao quá thì hạ nó xuống, ở thấp
quá thì đưa nó lên; dài quá thì bỏ bớt đi, ngắn quá thì thêm vào. Đạo trời bớt
chỗ dư, bù chỗ thiếu” (ch.77). “Đạo người thì không vậy [thói thường ở
đời thì không như đạo trời], bớt chỗ thiếu mà cấp thêm cho chỗ dư. Ai là người
có dư mà cung cấp cho những người thiếu thốn trong thiên hạ? Chỉ có người đắc
đạo mới làm được như vậy” (ch.77).
Vấn đề tình yêu trai gái
hay vợ chồng không phải là đề tài quan trọng và hầu như không được đề cập đến
trong Đạo Đức Kinh. Ông chê những đức nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, và
trung hiếu của đạo Khổng. “Cho nên đạo mất rồi, sau mới có đức. Đức mất rồi
sau mới có nhân, nhân mất rồi sau mới có nghĩa, nghĩa mất rồi sau mới có lễ.
Lễ là sự biểu hiện của sự suy vi của sự trung hậu thành tín, là đầu mối của
hỗn loạn. Dùng trí tuệ mà tính toán trước thì chỉ là cái loè loẹt của đạo, mà
là nguồn gốc của ngu muội” (ch.38). Và có một câu gián tiếp nói về gia đình
: “Đạo lớn bị bỏ rồi mới có nhân nghĩa; trí xảo xuất hiện rồi mới có trá
ngụy; gia đình (cha mẹ, anh em, vợ chồng) bất hòa rồi mới sinh ra hiếu, từ;
nước nhà rối loạn mới có tôi trung” (Chương 18).
Đạo Khổng do Khổng Tử
(-551-479) sáng lập, có kỳ vọng đảm bảo sự hài hòa tương quan tam tài « thiên, địa,
nhân », đặc biệt chú trọng đến trật tự, nề nếp xã hội, dựa vào ngũ luân,
ngũ thường. Ngũ luân là năm tương quan : Cha con có tình thân (Phụ tử hữu
Thân), Vua tôi có nghĩa (Quân thần hữu Nghĩa), Chồng vợ có sự phân biệt (Phu
phụ hữu Biệt), người lớn người nhỏ (anh em) có thứ tự (Trưởng ấu hữu Tự), bằng
hữu có lòng tin (Bằng hữu hữu Tín)”; Ngũ thường là năm nguyên tắc cư xử ở đời :
nhân, nghĩa, lễ, trí, tín.
Qua ngũ luân, ngũ thường,
lý tưởng là đạt được chữ trung dung, quân bình giữa hai lực đẩy và hai sức hút,
là âm dương. Kinh Dịch viết : « Âm dương giả, thiên địa chi đạo giả,
vạn vật chi cương kỷ », nghĩa là « Âm dương là đạo của trời đất, là
cương kỷ của vạn vật ». Rộng hơn và cụ thể hơn, thì âm dương phải phối hợp
mới có trời đất. Khí âm hay sinh, nhưng phải có khí dương mới sinh được ;
Khí dương hay nuôi vật, nhưng nếu không có khí âm, thì không lớn được. Cho nên,
theo luật tự nhiên của trời đất, đã có khí âm, khí dương, ắt phải có đôi lứa vợ
chồng. Trai phải có vợ ; Gái phải có chồng ; Phải phối hợp âm dương
thì mới có thể sinh trưởng được. Như vậy, theo Khổng giáo, đời sống vợ chồng là
lẽ tự nhiên của trời đất, nguồn gốc đến từ hấp lực đực cái, giống như các sinh
vật khác, nhưng được giáo hóa đi vào khuôn khổ luân thường.
Có một tâm hồn thấm nhuần
sâu xa tư tưởng âm dương Khổng giáo, Ôn Như Hầu đã viết trong « Cung oán
ngâm khúc », từ câu 125 đến 128 về tình yêu vợ chồng rằng :
« Kìa điểu thú là loài vạn vật
Dẫu vô tri cũng bắt đèo bòng
Có âm dương có vợ chồng
Dẫu từ thiên địa cũng vòng phu thê ».
2.Yêu là cõi phúc, đền nghì
tình Ai
Đức tin công giáo đã đưa
cho tình yêu vợ chồng một ý nghĩa và một vai trò rất cao cả. Thi sĩ bác sĩ công
giáo Vân Uyên Nguyễn Văn Ái đã tóm gọn rất khéo rằng : « Chữ yêu trong tình nam nữ và vợ chồng, theo
Thánh kinh, bắt nguồn từ Thiên Chúa Tình Yêu. Thiên ý mong muốn con người
bắt đầu được hưởng cõi phúc ngay tại đời này, qua kiếp sống phu thê và sẽ còn
nối tiếp đời đời trong tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu của Thiên Chúa là
như vậy. Con người lấy gì đền đáp lại ? Chỉ có yêu mới đền đáp được tình
yêu. Đó là nguồn thi hứng dẫn đến câu thơ « Yêu là cõi phúc, đền nghì tình
Ai » [2].
Nhưng Thánh kinh đã viết gì
về tình yêu nam nữ và vợ chồng ? Bác sĩ Vân Uyên Nguyễn Văn Ái trả
lời qua một bài trình bày như sau [3] :
Trong Cựu Ước theo sách
Sáng Thế, ngay từ khi tạo dựng ra trời đất và con người, Thiên Chúa đã chúc
phúc cho sự kết hợp nam nữ được coi như có một giá trị tôn giáo độc đáo. Cả
nam lẫn nữ, con người được tạo dựng theo hình ảnh giống như Thiên Chúa.
Người nam khi thấy người nữ
đã kêu lên : « Đây là xương thịt của tôi ». Do đó người nam từ
bỏ cha mẹ, lưu luyến người nữ, và cả hai trở thành « nhất thể » (Gn,
1-2), một thân xác (une seule chair).
Nhiều đấng Tiên Tri trong
Cựu Ước, như Osée (1,2+), Jérémie (18,1+), Isaïe (1, 21), Ezéchiel
(16 ;23),… khi đề cập tới mối liên quan giữa Thiên Chúa và Dân Cựu Do Thái
(Israel) đã xử dụng hình ảnh tình yêu nam nữ.
Các tiên tri coi tình yêu
của Thiên Chúa đối với dân được chọn (Israel) cũng như tình của người nam. Một
người nam vừa hiền từ chung thủy, vừa đòi hỏi, ghen tương. Các tiên tri cũng
nói về những phản bội, chối bỏ, tà đạo của dân cựu do thái (Israel) được coi
như người nữ bất trung. Có khi còn dùng cả danh từ nặng hơn chữ bất
trung.
Nhưng dù vậy, tình của
Thiên Chúa cũng không dập tắt, vì Thiên Chúa yêu cho đến cùng (Jn 13, 1)
Khi nói đến tình yêu nam nữ
trong Cựu Ước không thể nào không nói tới bài Diễm ca (Cantique des Cantiques),
một điệp khúc nói về tình yêu nam nữ thắm thiết và chung thủy.
Lời thơ là lời của người nữ
được yêu (la bien aimée) nói về tình yêu của người yêu đối với mình. Theo
truyền thuyết, tác giả bài này là vua Salômông. Đây là một bài thơ ngụ ngôn ca
ngợi tình yêu của Thiên Chúa đối với dân Israel, giống như tình yêu nam nữ.
Bài Diễm Ca được trình bày
và sắp xếp theo những đoạn đường trở lại và những hy vọng của dân Israel, gồm
có 5 bài ca, một phần mở đầu và một phần kết, xen lẫn (theo kiểu kịch thuật Hy
Lạp) một vài đoạn đồng ca hoặc song ca đối đáp với người nữ.
Nhiều nhà thần học coi bài
Diễm Ca như một bài thánh ca thánh nhất trong các bài thánh ca. Theo tôi, bài
Diễm Ca là một bài tình ca tình nhất trong các bài tình ca. Đây chỉ là một cách
nói, vì theo đạo của chúng ta, thánh và tình là một, thánh là yêu mà tình
cũng là yêu.
Xin nêu làm thí dụ ba câu
đầu lời nói của người nữ được yêu (la bien aimée), để có một ý niệm về tính
chất diễm tình của bài Diễm ca diễn tả mối tình đắm say cả hồn lẫn xác ;
ba câu này trích trong cuốn Bible de Jérusalem viết bằng pháp ngữ :
« Qu’il me baise des baisers de sa bouche
Tes amours sont plus délicieuses que le vin
L’arôme de tes parfums est exquis » (Ct, 1, 2-3)
Theo ấn bản Kinh Thánh mới
nhất vừa được Tòa Tổng Giám Mục Sài gòn thực hiện năm 1998 (trang 1231) ba câu
này được dịch như sau :
« Ước gì chàng hôn ta những nụ hôn chính môi
miệng chàng
Ân ái của anh còn ngọt ngào hơn rượu
Mùi hương anh thơm ngát ».
Minh châu
dịch :
« Môi tìm môi đón nụ hôn tình ái
Ngây ngất say hơn hẳn rượu ngọt bùi
Hương ai tỏa xác hồn xao xuyến mãi ».
Vân Uyên
dịch :
« Đợi môi âu yếm đến hôn em
kết tình dịu ngọt hơn bồ tửu
Ngây ngất hương người thật ấm êm ».
Điểm lạ lùng của chữ yêu
trong Cựu Ước là tình yêu nam nữ cả hồn lẫn xác được đặt tận đỉnh cao
của tình thiên tính.
Theo Tân Ước, tình yêu nam
nữ chỉ tìm thấy toàn vẹn ý nghĩa và đạt tới sự thật, khi qua hôn nhân bí tích
trở thành tình yêu vợ chồng.
Trong thơ gửi tín hữu Ephêsô,
thánh Phaolô gọi tình yêu vợ chồng là « huyền nhiệm lớn » (grand mystère). Huyền nhiệm đã kỳ lạ. Huyền
nhiệm lớn là kỳ lạ trên sự kỳ lạ (Ep 5,32).
Tình yêu vợ chồng được
thánh Phaolô so sánh với tình của Chúa Kytô đối với Giáo Hội. Tình yêu vợ
chồng, mà thường tình cho là trần tục, trở thành « kỳ lạ trên sự kỳ lạ » vì được coi như mối tình mầu nhiệm không
bao giờ phai, kéo dài vô tận trong thời gian, của « Thiên Chúa làm ngườỉ », kết hợp với « nhiệm thể » của mình là Giáo Hội
(Ep 5, 23-25).
Như vậy, tình yêu vợ chồng
trở thành như một trong những trung tâm điểm của đức tin. Nói cách khác, tình
yêu vợ chồng khi đạt tới mức « yêu »
cũng là một con đường dẫn tới Thiên Chúa, dẫn tới cõi phúc.
Theo Tân Ước, nhiều lần
Chúa Kytô đã ví nước Trời như một Tiệc Cưới và tự ví mình như chàng rể (Mt 9,15 ; 22,1-14 ; 25,1-13 ;
Ga 3,29).
Chúa Kitô đã giảng về tính
chung thủy gắn bó, không có gì có thể phân chia tình vợ chồng trong hôn nhân bí
tích. Theo Phúc Âm của thánh Matthêu, Chúa Giêsu đã nói : « Vợ chồng không còn là hai mà là một. Những
người Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được chia rẽ » (Mat
19,6).
Đối với người đời xưa cũng
như đời nay, những lời nói này thật không phải dễ hiểu và dễ chấp nhận. Chính
những môn đệ của Chúa Kytô cũng đã thốt lên : « Nếu số phận của người nam phải đối xử với vợ như vậy, thà đừng kết hôn
còn hơn ». Và Chúa Kytô đã trả lời « Không phải ai cũng hiểu được. Chỉ có kẻ Chúa cho hiểu mới hiểu »
(Mat 19, 10-11).
3.Yêu người yêu Chúa, phụng
ca một bài
« Thiên Chúa là Tình
yêu », thông điệp của ĐGH Bênêdictô XVI ban hành tại Rôma, tại Đền Thánh
Phêrô, ngày 25.12.2005, có lẽ đã là cách Chúa cho chúng ta hiểu hơn về tình yêu
hôn nhân (eros) toàn vẹn cả hồn lẫn xác, có thể dẫn tới tình yêu bác ái (agape)
của Giáo Hội mà đưa ta tới Thiên Chúa, tới cõi phúc.
Yêu chồng, yêu vợ mặn mà
Yêu người yêu Chúa, cùng là bài ca.
Vợ chồng « nhất thể » đôi ta
Yêu người yêu Chúa, phụng ca một bài
Thông điệp được chia làm
hai phần. Phần I nói về « Sự thống nhất của tình yêu trong sáng tạo
và lịch sử cứu độ ». Phần II nói về « tình yêu bác ái và hoạt động
bác ái của Hội Thánh như là một cộng đoàn của tình yêu ». Đức ông Giuse
Mai Đức Vinh đã tóm tắt thông điệp như sau cho khóa Gặp Gỡ Huấn Luyện Giới
Trưởng Thành lần thứ XIII, từ 21 đến 24, tháng 05, năm 2009 tại Orsay, ngoại ô
Paris [4]:
Phần I : Đức Thánh Cha
xác định một số dữ kiện thiết yếu liên quan đến tình yêu mà Thiên Chúa đã
ban cho nhân loại một cách huyền nhiệm và nhưng không. Những dữ kiện đó là :
1. ‘Tình yêu’ bộc lộ dưới
nhiều hình dạng (yêu nước, yêu nghề, yêu bạn bè… yêu Chúa). Nhưng mọi hình dạng đều quy
về một tình yêu duy nhất và hoàn toàn trổi vượt, đó là Tình Yêu nơi Thiên Chúa
(số 2).
2. Ba hình dạng chính yếu
của tình yêu là (số 3):
- ‘tình ái’ (eros) : tức là tình yêu giữa một
người nam và một người nữ. Trong Tân Ước ít nói dến dạng thức tình yêu này
- ‘tình bạn’ (Philia) : tức
tình yêu bằng hữu giữa người này với người khác. Trong Tân Ước, đặc biệt trong
Tin Mừng Thánh Gioan nói đến một cách sâu sắc về tình yêu bạn hữu giữa Chúa
Giêsu và các môn đệ (x Ga 15 tt).
- ‘tình bác ái’ (Agape) :
tức là tình yêu có phẩm tính sâu sắc, phổ quát, siêu nhiên, vị tha… Các Tân Ước
đều dùng nhiều dạng thức tình yêu này.
3. Đức Thánh Cha nói riêng
về ‘tình ái’ (Eros) (số 4-5): Văn hóa Hy lạp đề cao dạng tình yêu này, coi tình yêu
này là mãnh lực mạnh nhất (Omnia vincit amor, et nos cedamus amori). Nhiều tôn giáo ‘suy tôn khả năng sinh
sản’, ‘tục mại dâm thiêng liêng trong các đền thờ’ đều coi tình ái như một thứ
quyền lực thiêng liêng, ngang hàng với Thiên Chúa. Cựu Ước cực lực chống lại
chủ trương trên đây của tôn giáo này, coi đó
là tiêu biểu cho một cám dỗ chống lại đức tin độc thần và chống lại nó
như một hình thái sa đọa tôn giáo. Tuy nhiên Cựu Ước không hề loại bỏ tình ái
(eros) đúng nghĩa… Vì khi được uốn nắn và thanh luyện, tình ái dẫn con người
dến gần với Thiên Chúa… Khi nói về tình ái (eros), người ta nghĩ đến thân
xác, đến dục tính… và người ta chỉ trích Kitô Giáo trong quá khứ, đã coi thường
và khinh bỉ thân xác và dục tính... Tuy nhiên, phải khẳng định : lối tôn
sùng thân xác ngày nay là một sai lầm, vì nó đã biến thân xác và tình dục thành
đồ vật mua bán, và chính con người cũng trở thành ‘món hàng’ thương mại (số
4-5).
4. Ngài cũng nói riêng về
‘tình bác ái’ (Agape) tiêu biểu cho ý niệm tình yêu trong Thánh Kinh. Tình bác ái
(agape) và tình ái (eros) không tách rời nhau hoàn toàn, nhưng tình bác ái
(agape) vượt lên trên tình ái (eros), thay vì tình ái ích kỷ, chỉ đi kiếm ‘điều
lợi cho mình’, thì tình bác ái (agape) lo tìm điều tốt, điều lợi cho người mình
yêu, nó sẵn sàng từ bỏ và chấp nhận hy sinh. Nói cách khác, tình ái (eros)
là tình yêu ‘trần thế’ (mondain), còn tình bác ái (agape) là tình yêu lấy đức
tin làm cơ sở. Tình ái (eros) thì hẹp hòi, tạm bợ, còn tình bác ái (agape)
rộng mở và lâu bền. Tình bác ái (agape) chính là tình ái (eros) được siêu nhiên
hóa, nhân bản hóa, được mở rộng cho mọi người và đến với mọi người… như giáo
huấn của thánh Phaolô : « Ai kết hợp với Chúa Giêsu (eros), thì trở nên cùng
một thần trí với Ngài (agape) » (1Cr6,17). Sau cùng tình bác ái (agape)
diễn tả huyền nhiệm của bí tích Thánh Thể, trong đó Chúa Giêsu hoàn toàn hiến
thân (agape) cho nhân loại…(số 6-11)
5. Chúa Giêsu, hiện thân
của tình yêu Thiên Chúa : ‘Thiên Chúa là Tình Yêu, Thiên Chúa yêu chúng ta
trước và đã ban Đức Giêsu, con chí ái của Ngài cho chúng ta. Do đó, Chúa
Giêsu là hiện thân tình yêu của Thiên
Chúa giữa chúng ta (tam cùng với chúng ta) : cùng sống, cùng hoạt động và cùng
yêu với chúng ta… Và như vậy, Thiên Chúa gia tăng niềm vui, Thiên Chúa trở
thành niềm vui cho chúng ta… Niềm vui này chúng ta có thể múc lấy mỗi ngày nơi
Bí Tích thánh Thể… và như vậy, vì yêu chúng ta, ‘Thiên Chúa trở nên tất cả
trong mọi sự’ (1Cr 15,28) cho chúng ta. Đó là tình yêu Agape tuyệt hảo ! (số 12-18)
Phần II : Đức Thánh
Cha nói về những thể hiện tình bác ái (agape) cụ thể trong Hội Thánh, theo giới răn ‘yêu
thương người ta như chính mình’ (Mc 15, 31). Dĩ nhiên không thể nói hết, Đức
Thánh Cha chỉ ‘nói đến một số yếu tố căn bản để khơi dậy trong thế giới một
năng dộng mới mẻ mà con người hay chính Giáo Hội phải thực hiện hầu đáp trả lại
tình yêu của Thiên Chúa’. Vì thế, Giáo Hội là một Cộng đồng yêu thương, thể
hiện tình yêu. Đức Thánh Cha nêu bật những điểm sau đây :
1. Hoạt động bác ái của Hội
Thánh là thể hiện tình yêu của Thiên Chúa Ba Ngôi : Vì thế thánh Aucơtinh
viết : «Tìm thấy tình bác ái (agape) là nhìn thấy Thiên Chúa Ba Ngôi » (19).
2. Bác ái là nhiệm vụ của
Hội Thánh (20-25) :
- Bác ái là nhiệm vụ của
mỗi tín hữu, nhưng cũng là nhiệm vụ của toàn thể cộng đoàn Giáo Hội, từ cộng
đoàn địa phương, đến giáo hội địa phương, và đến Giáo Hội hoàn vũ. Giáo Hội đã
ý thức nhiệm vụ này ngay từ buổi đầu : ‘Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau,
để mọi sự làm của chung… (Cv 2,44-45). Theo thánh Luca, những yếu tố cấu thành
của Hội Thánh bấy giờ là : Lời rao giảng của các tông đồ, hiệp thông, bẻ bánh,
cầu nguyện (số 20).
- Hoạt động bác ái đòi hỏi
những thừa tác mới : chức phó tế (diaconia) (Cv 6,5-6) phụ tá các tông đồ trong
việc ‘phục vụ việc cầu nguyện, phục vụ Lời Chúa, phục vụ bàn ăn (Cv 6,1-6)
(21).
- Ba hoạt động, ba nhiệm vụ
: Tiệc Thánh Thể – Tiệc lời Chúa – Hoạt động bác ái (agape) : lo cho quả phụ,
trẻ mồ côi, bệnh nhân, tù đầy… (số 22). Nói cách khác, bản tính xâu xa nhất
của Hội Thánh được diễn tả qua ba nhiệm vụ : Loan báo lời của Thiên Chúa
(Kerygma-martyria), cử hành các Bí tích (leitourgia), và thi hành tác vụ bác ái
(diakonia) (số 23-24).
- Ba nhiệm vụ bổ túc cho
nhau, gắn liền với nhau làm cho Hội Thánh trở thành gia đình của Thiên Chúa,
đại gia đình đức tin (Gl 6,10) (số 25).
3. Bác ái không đủ, còn
phải có công bằng : từ thế kỷ XIX, người ta chống lại hoạt động bác ái của
Hội Thánh, nhất là thuyết Maxít, người ta bảo : người nghèo không cần đến bác
ái nhưng cần công bằng…
- Vì thế Giáo Hội ra các
thông điệp xã hội : Đức Lêo ‘Rerum Novarum’ (1891), Đức Piô XI ‘Quadragesimo
Anno’ (1931), Đức Gioan XXIII ‘Mater et Magistra’, Đức Phaolô VI ‘Populorum’
(1967), Octogesima Adveniens’ (1971), Đức Gioan Phaolô II ‘Laborem Exercens’
(1981), ‘Sollicitudo Rei Socialis’ (1987). Hội Đồng Công Lý Hòa Bình ‘Cuốn tóm
lược giáo huấn xã hội của Hội Thánh’ (2004).
- a) Công bằng (justitia):
Nguyên tắc ‘Công bằng xã hội’ : Của Xêsa trả cho Xêsa, của Thiên Chúa trả cho
Thiên Chúa (Mt 22,21). Giáo Hội và Quốc Gia vừa tách biệt vừa tương quan với
nhau…theo những xác định của Công Đồng Vatican II trong Hiến Chế Mục Vụ (GS 74,
68, 42) (số 28).
- Về ‘công bằng xã hội’,
Hội Thánh không thay thế chính trị hay chính quyền, nhưng Hội Thánh không đứng
ngoài lề cuộc đấu tranh cho công bằng.
- b) Tình yêu (Caritas)
luôn là cốt lõi của xã hội, dù là xã hội công bằng nhất. Vì thế một xã hội, một
quốc gia hay một khuynh hướng muốn loại bỏ tình yêu, … là loại bỏ chính con
người. Con người không chỉ sống bằng cơm bánh… Phục vụ con người không phải chỉ
chăm lo về thân xác, nhưng còn cả về tinh thần, bồi dưỡng con người không chỉ
bằng những yếu tố vật chất, nhưng còn bằng những yếu tố tinh thần… Vật chất hay
tinh thần đều sắc đọng trong TÌNH YÊU.
- Tuy nhiên việc hình thành
các cơ cấu công bằng không trực tiếp là nhiệm vụ của Hội Thánh, nhưng thuộc
lãnh vực chính trị, lãnh vực Quốc gia hay Nhà Nước (luật pháp, kinh tế, xã hội,
hành chánh, nghiệp đoàn…). Với tư cách công dân, người tín hữu có bổn phận hợp
tác và tuân thủ đúng đắn…
- Mặt khác các tổ chức bác
ái của Hội Thánh làm thành một công trình riêng (opus proprium), và hoạt động
ngay giữa lòng quốc gia, xã hội. Hội Thánh không bao giờ được miễn trừ hoạt
động bác ái, trong mọi hoàn cảnh, việc bác ái của người tín hữu luôn là cần
thiết (số 29).
4. Nhiều cơ cấu bác ái
trong xã hội hiện nay : Vài nét tổng quát của cuộc tranh đấu công bằng
và tình yêu hiện nay trên thế giới :
a) Phương tiện truyền thông
thu hẹp trái đất, dù có hiểu lầm và căng thẳng, nhưng tin tức mau lẹ, giúp đỡ
liên đới mau chóng (động đất, tai uơng…). Một bằng chứng tích cực về tiến trình
toàn cầu hóa : Nhờ phương tiện truyền thông, khoảng cách giữa con người không
còn nữa, những hoạt động bác ái có thể và phải bao gồm mọi người và mọi nhu
cầu.
b) Bối cảnh xã hội và chính
trị hiện nay đã khai sinh và tăng trưởng nhiều hình thức thiện nguyện (quốc
gia, giáo hội, tư nhân) và nhiều hình thức cộng tác giữa các Quốc gia và các cơ
quan từ thiện của Giáo Hội với dồi dào kết quả. Với sứ mệnh làm chứng về Tình
Yêu Thiên Chúa, tổ chức bác ái của Giáo Hội đem phẩm tính Kitô giáo cho các tổ
chức của chính phủ hay của tư nhân, ngược lại các tổ chức của quốc gia giúp tổ
chức của Hội Thánh có thêm phương tiện và hiệu lực…
5. Khía cạnh riêng biệt của
hoạt động bác ái của Hội Thánh (31).
- Nguồn gốc : ‘Thiên Chúa
là tình yêu… (1Ga 4,8) ; Yêu thương người khác như chính mình… (Mc 12,31). Tám
mối phúc thật…(Mt 4,3-12). Xét xử theo luật bác ái (Mt 25,31).
- Tổ chức Caritas quốc tế
hiện nay … quy tụ cơ cấu, tài lực, nhân sự, phương án…
- Hoạt động bác ái kitô
giáo phải độc lập với các phe nhóm và ý thức hệ… Hoạt động bác ái phải thể hiện
tình liên đới và hiêïp nhất giữa cá nhân, trong cộng đoàn, ngoài xã hội…
- Hoạt động bác ái không
được xử dụng như kế hoạch chiêu dụ tín đồ… (31)
6. Những ngưòi chịu trách
nhiệm về hoạt động bác ái của Hội Thánh.
- Là chính Hội Thánh, cụ
thể từ thời Đức Phaolô VI là Hội Đồng Giáo Hoàng Đồng Tâm (Cor Unum). (x. Giáo
luật Đ 394). Luôn nhân danh Giáo Hội, luôn phải có sự phối hợp theo cấp bậc
hoạt đọâng (32).
- Không lấy cảm hứng từ các
ý thức hệ với mục tiêu là cải tiến trần gian, nhưng luôn luôn ‘tình yêu Chúa
Kitô thúc bách chúng ta’ (2Cr5,14) (33).
- Không thể không cộng tác
với các tổ chức khác … tuy nhiên luôn giữ vững căn tính ‘tình yêu Chúa thúc đẩy
chúng ta…’ (34)
- Phải phục vụ trong khiêm
tốn… ‘chúng ta chỉ là đầy tớ vô dụng’ (Lc 17,10) (35).
- Cần giữ quân bình giữa
hai cực đoan : - tham vọng muốn làm hết, làm ngay, không đo sức mình… - cám dỗ
đầu hàng, khoanh tay… (36)
- Yếu tố giúp giữ quân bình
: lòng đạo đức, việc cầu nguyện (gương chân phước Têrêsa Calcutta) (số 36-37).
Cầu nguyện để ‘giải tỏa’ những thắc mắc theo kiểu ông Gióp (xG 23,3+5-6+15-16),
lời than của chính Chúa Giêsu trên Thánh Giá (Mt 27,46), lời sách Khải Huyền
(kh 6,10)… và để giữ vững niềm tin, đức cậy và lòng bác ái (số 38-39).
LỜI KẾT
Văn hóa Việt Nam ghi khắc
gì về tình yêu vợ chồng ? Đức tin công giáo trao cho tình yêu vợ chồng sứ
mệnh gì ? Tuyệt đỉnh của sứ mệnh tình yêu vợ chồng công giáo đưa về
đâu ?
Về câu hỏi thứ nhất, chúng
ta đã tìm được câu trả lời của văn hào Nguyễn Du rằng : « Tu là cõi phúc, tình là giây oan ».
Văn chương bình dân Việt Nam rất phong phú về tình yêu trai gái và tình yêu
thân xác. Văn chương truyền thống tam giáo Lão, Phật, Khổng, thì hoặc là không
nói đến tình yêu vợ chồng, hoặc là nói đến như một nhân duyên của cõi vô
thường, hoặc nói đến những ngũ luân ngũ thường như những luật lệ để đối xử với
nhau, hầu giữ gìn tôn ti trật tự trong gia đình và ngoài xã hội ; còn tình
yêu vợ chồng, thì đó chỉ là lẽ tự nhiên của trời đất, nguồn gốc đến từ hấp lực
đực cái, giống như các sinh vật khác, nhưng phải được giáo hóa để đi vào khuôn
khổ luân thường.
Về câu hỏi thứ hai, Thánh
Thư, Cựu ước cũng như Tân Ước đã cho chúng ta hay rằng : « Yêu là cõi phúc, đền nghì tình Ai »,
vì tình yêu vợ chồng là một bí tích trao truyền lại cho thế giới hữu hình cái
mầu nhiệm vô hình được che đậy nơi Thiên Chúa từ đời đời. Đó là mầu nhiệm về
chân lý và về tình yêu, mầu nhiệm của cuộc sống thiên tính, mà loài người được
thực sự chia phần. Mầu nhiệm đó là mầu nhiệm « Thiên Chúa là Tình
Yêu », yêu bất chấp sự đau khổ và sự chết. Tình yêu vợ chồng, khi đạt tới
mức yêu, cũng là một con đường dẫn tới cõi phúc, yêu để đền nghì tình Chúa yêu
ta (Ai là Thiên Chúa).
Trả lời câu hỏi thứ ba,
chúng ta đã tìm được cánh cửa đức tin mở lối qua thông điệp « Thiên Chúa
là Tình yêu » của ĐGH Bênêđictô XVI, giúp ta hiểu rằng tuyệt đỉnh của sứ
mệnh tình yêu đầy đủ hồn xác của bí tích vợ chồng công giáo đưa ta từ tình yêu
người bạn đời đến tình yêu mọi người và đến đáp trả tình yêu Thiên Chúa, mà
chúng ta tóm gọn trong bốn câu thơ :
Yêu chồng, yêu vợ mặn mà
Yêu người yêu Chúa, cùng là bài ca.
Vợ chồng « nhất thể » đôi ta
Yêu người yêu Chúa, phụng ca một bài
Tình yêu vợ chồng, đầy đủ
hồn xác, đưa ta đến hạnh phúc, đến tình yêu bác ái với mọi người và đến tình
yêu Thiên Chúa. Điều này cũng dễ hiểu, vì tình yêu vợ chồng đầy đủ hồn xác là
một tình yêu toàn diện, là một dâng hiến về thân xác, một hiệp thông về tình
cảm, một tha thứ chịu đựng theo lý trí, một hòa thuận theo ý chí và một tâm
tình kính yêu của con tim. Tất cả tình yêu vợ chồng toàn diện này, cũng như tất
cả các tình yêu bác ái với mọi người, tình yêu với Thiên Chúa đều là bài ca,
một bài ca phụng tự. Tình yêu vợ chồng toàn diện này, nói theo Thánh Giáo Hoàng
Gioan Phaolô II, là « Bí tích các thân xác », « bí tích trọng
đại », « không chia cắt điều Chúa đã nối kết » và là « Ơn
gọi các thân xác » [5].
Trần Văn Cảnh
Ghi chú :
1. ĐGH Bênêđictô XVI, Thiên
Chúa là Tình yêu, , 2005, số 2.
2. Nguyễn Văn Ái : Chữ
tình và chữ yêu ; trong « Đường vào tình yêu », Giáo Xứ
Việt Nam Paris, 2000, tr. 255-265).
3. Ibidem.
4. Lm Mai Đức Vinh :
Tìm hiểu thông điệp Thiên Chúa là Tình Yêu ; trong Trần Văn Cảnh : Công
Giáo Việt Nam tại Pháp, 226 năm hành trình Đức Tin, 1784-2010 ; 2011,
tr. 164-170
5. Yves Semen ; La
Spiritualité conjugale selon Jean-Paul II, Ed. Presse de la Renaissance,
Paris : 2010, pp. 55-67.
Bài viết khác
Âm Nhạc Công Giáo trong Văn Hóa Việt Nam - Gs Lê Đình Thông
Vidéo : NGÀY VĂN HÓA THƯ VIỆN GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS - Chúa Nhật 07/04/2024
Thư mời Ngày Văn Hóa Thư Viện Giáo Xứ VN Paris 07-04-2024
The Chosen : Đấng được chọn - Công Bình
Rogations, nghi thức Cầu Mùa đang được hồi sinh tại giáo xứ Moissac - Công Bình
Chúc Thọ & Chúc Thêm - Cung Chi
Vâng Phục Qua Giấc Mơ - Anê Thùy Dung
Nhìn và Ngắm - Nguyễn Đăng Quế
Mùa Chay 2023 : Mùa Cháy – Mùa Chạy – Mùa Chảy - Lm Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Đức Thánh Cha Phanxicô và chuyến công du đầu năm 2023 - Công Bình
Chuyện Yếu Đuối - Trầm Thiên Thu
Suối nước chữa lành - Sr. Maria Thúy Nga, FMA
Đôi lời tri ân độc giả Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris - Giang Minh Đức
Vè Tết Quý Mão - Anna Trương Thị Lâm Sang