Chân Phước Anrê Phú Yên
Người chứng thứ nhất (1625-1644)
II. TINH THẦN LIÊN ĐỚI CỦA CÁC THÁNH TỬ ĐẠO
Trong bối cảnh chính trị và xã hội thời bách hại, nhiều người lên tiếng đòi các vua quan hãy sống đúng nguyên tắc phục vụ cơ bản là ‘dĩ dân vi quý’. Chẳng hạn ông Nguyễn Trãi (1380-1442) đã khuyên nhủ: «Nhân Nghĩa chi cử, yếu tại an nhân’ (việc nhân nghĩa cốt tại an dân). Rồi nhìn vào xã hội tham tàn thối nát, dân tình nheo nhóc, ông đã than lên, tại sao «nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn, vùi con đỏ dưới xuống hầm tai vạ, dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế?». Mấy chục năm sau, ông Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) cũng viết: «Cổ lai quốc dĩ dân vi bản, đắc quốc ưng tri tại đắc dân’ (Từ xưa đến nay nước lấy dân làm gốc, được nước nên biết là ở chỗ được lòng dân). Trong một bối cảnh xã hội như vậy, các anh hùng tử đạo Việt Nam, nhất là các linh mục, thày giảng hay ông trùm làm sao không chia sẻ, liên đới đến tam cùng với dân chúng được? Các ngài không có tài văn võ, không có tiếng nói công khai như quý ông Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Công Trứ… nhưng các ngài giàu lòng phục vụ âm thầm, đầy bác ái, yêu thương và chia sẻ với dân nghèo, đồng quê. Các ngài nâng đỡ họ về tinh thần, hướng dẫn họ sống theo tình yêu, chân lý và huynh đệ… Theo gương Chúa Giêsu, ‘các ngài sống giữa họ để phục vụ chứ không phải để được phục vụ’ (Mt 20,27-28). Các ngài đến như thánh Gioan là ‘giảng cho người ta nhận ra Thiên Chúa và được ơn cứu độ Ngài ban’ (Lc 1,76). Vì thế các ngài tự thấy: một trật phải liên đới với giáo dân, phải sống và hoạt động với họ, vì họ và nhờ họ, vừa phải liên đới với nhau theo tinh thần hiệp thông của Giáo Hội: Mỗi vị là một tay thợ của vườn nho (Mt 20,1-16), của đồng lúa (Mt 9,37-38). Nhưng trên hết là phải liên đới với Chúa Giêsu: Chính Chúa kén chọn các ngài, cắt đặt công việc mục vụ cho các ngài (Ga 15,16-17), trao cho các ngài ‘chén đắng phải uống’ (Mc 10,38-39) đàn chiên phải chăm lo (Ga 21,16-17).
1. Các ngài sống giữa dân nghèo như những người phục vụ:
Không bài giảng hay bài giáo lý nào hiệu lực, đánh động người ta hơn là ‘đời sống chứng tá’. Đó là phương thế truyền giáo là sư phạm mục vụ của các Thánh Tử Đạo giữa giáo dân nghèo khổ cơ cực, chân thành, lương thiện mà các ngài được sai đến để phục vụ.
● Cha Vicentê Đỗ Yến (+1838) là một vị đầy lòng từ bi bác ái, tính tình rất dễ thương, đồng thời cũng đầy cương nghị, nét mặt lúc nào cũng vui vẻ. Sống giữa giáo dân, ngài luôn sẵn sàng lo lắng cho con chiên và tận tụy hết mình. Ngài không bỏ qua một cơ hội nào mà không giúp đỡ những người chung quanh. Tất cả tâm hồn ngài tập trung mỗi khi dâng lễ và cử hành bí tích’ (DMAH 2 tr.131).
● Thầy giảng Phêrô Đào Văn Vân (+1857) phục vụ người nghèo hết mình: Những người giáo dân Bầu Nọ quả quyết rằng: Thầy Vân rất đạo đức, hiền lành, siêng năng làm việc, dù đã có tuổi. Bổn đạo thấy thày đã hơn 70 tuổi rồi mà còn ra ngoài đồng làm việc thì cản ngăn, nhưng thày nói: ‘Bổn đạo vất vả, chân lấm tay bùn, dầm sương dãi nắng, gồng gánh xa xôi, tôi làm một chút gọi là đỡ cho họ’. Mọi người cảm phục và khen ngợi lòng bác ái của thày. Thấy ai khốn khó, thày Vân đem tiền của đến tận nhà giúp đỡ họ. Ngoài ra thày Vân còn năng đi thăm kẻ liệt và chuyên cần dạy giáo lý nữa. (DMAH 3 tr.161)
● Cha Tế (+1745) không muốn để giáo dân bị liên lụy vì mình: Ngay khi vừa bị bắt với một số giáo dân, quan nạt nộ cha Tế dữ dội, mục đích để đòi tiền chuộc. Có lần quan hỏi cha: ‘Ngươi có sợ không?’. Cha trả lời mạnh mẽ ‘Tôi không sợ cho tôi, mà tôi chỉ lo cho giáo dân thôi’… Cha Tế bị bắt và bị giam suốt 7 năm. Tuy nhiên cả trong thời kỳ bị giam, cha vẫn tiếp tục giúp đỡ tinh thần cho giáo dân (DMAH 1 tr.167+169).
2. Liên đới với các bạn tù.
Không có một nhà tù riêng cho các anh hùng tử đạo. Khi bị bắt, các ngài bị đồng hóa như một tội nhân phạm pháp. Ý Chúa muốn như vậy để các ngài hiểu rộng rãi hơn câu ‘tứ hải giai huynh đệ’, thấm thía hơn lời ‘nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại’. Chia sẻ nhiều hơn, liên đới nhiều hơn với các tù nhân thường lệ.
● Để giúp đỡ về tinh thần: Cha Huấn làm chứng rằng: ‘Khi ở trong tù thầy Mậu (+1839) vui vẻ, gây được nhiều thiện cảm với các bạn tù ngoài công giáo… Vì thế thày đã dạy giáo lý cho 44 người, trong đó có một thanh niên nhiều chữ nghĩa tên là Hùng, học kinh bổn giỏi và thành thật. Anh đã xin và thày Mậu đã rửa tội cho anh…’ (DMAH 2 tr.347).
● Để giúp đỡ về vật chất: Nhiều người làm chứng về lòng bác ái của cha Xuyên (+1839), nhất là khi ở trong tù. Khi giáo dân đến thăm cho tiền hay cho đồ ăn, cha đều đem chia sẻ với các bạn tù (DMAH 2 tr.336). Cũng vậy, ông trùm Đích (+1838) sống thân thiện với các bạn tù. Nhiều lần ông mời họ đọc kinh với ông. Nhất là những đồ dùng hay thức ăn gia đình hoặc người thân đem cho ông, ông đều chia sẻ lại cho các tù nhân cùng giam với mình (DMAH 2 tr.201).
3. Liên đới nhau trong niềm tin và đức bác ái.
Là người Việt Nam - Công Giáo, các anh hùng tử đạo thương nhau, liên đới với nhau dĩ nhiên là theo nghĩa ruột thịt gia đình ‘anh em như thủ túc’, ‘chị ngã em nâng’ ‘máu chảy ruột mềm’ ‘lá lành đùm lá rách’; hay theo tinh thần đoàn thể ‘Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ’, ‘tương thân tương ái, hăng hái tiến lên’; hoặc theo tình tự dân tộc ‘vì dân vì nước tạo nghĩa tương thân’, ‘bầu ơi thương lấy bí cùng, tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn’, ‘Nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước hãy thương nhau cùng’… Nhưng đồng thời, cao siêu và phong phú hơn, các ngài yêu thương và liên đới với nhau trong niềm tin anh dũng, nói khác, theo gương Chúa Giêsu, Đấng đem tình yêu của Thiên Chúa đến cho mọi người, gọi mọi người là anh em, đồng thân phận và chịu mọi thử thách như mọi người, hầu giúp những ai gặp thử thách, dạy họ trung tín thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho mọi người và cứu rỗi mọi người’ (xDt 2, 10-18). Các ngài cũng sống theo tinh thần của thánh Phaolô: ‘tự nguyện làm tôi tớ mọi người, vui với người vui, yếu với người yếu, khóc với người khóc, trở nên mọi sự cho mọi người hầu cứu rỗi thêm được nhiều người’ (1Cr 9,16-23). Một cách cụ thể, các anh hùng tử đạo đã thể hiện tình yêu và liên đới huynh đệ với nhau như thế nào? – Xin thưa:
● Bảo vệ người và nơi che giấu các ngài:
+ Thánh linh mục Nguyễn Đình Nghi (+1840): ‘Hôm ấy thống đốc Trịnh Quang Khanh cho lính khám nhà bà Anna Thuận, họ bắt được đồ đạo và trói bà giải đi. Một toán lính khác khám xét nhà bà Duyên, bắt được cha Nghi, họ reo hò mừng rỡ. Rồi họ dùng gươm, mác đâm thủng các bờ vách và đào nát nền nhà của bà. Lúc đó cha Nghi lên tiếng: ‘Tôi là linh mục, tôi sẵn sàng chịu mọi hình phạt vua quan sẽ định cho tôi, tôi chỉ xin các ông một điều là tôn trọng đừng phá nhà này, đừng dánh đập những người giáo dân vô tội’ (DMAH 2 tr.460). Cũng chính cha Nghi, trong phiên tòa 7.7.1840, thống đốc Trịnh Quang Khanh đòi ba cha Nghi, Ngân (+1840) và Thịnh (+1840) phải khai báo những nơi trú ẩn và những người chứa giấu các ngài. Cha Nghi thưa thay cho anh em: ‘Thưa quan lớn, chúng tôi đã đi nhiều nơi, nếu nói ra quan lớn sẽ tàn phá những nơi ấy và sẽ hành hạ những người có lòng che chở chúng tôi. Vì thế, xin lỗi quan lớn, chúng tôi không bao giờ khai báo’. Quan tức giận truyền cho lính đánh xối xả vào ba cha. (DMAH 2 tr.465).
+ Thánh thừa sai Louis Hương (+1852) nói nhiều lần với quan tòa: «Tôi đi rất nhiều nơi, không còn nhớ đến tên. Nếu tôi nhớ, tôi cũng không bao giờ nói cho các quan biết». Lần khác ngài quả quyết: «Các quan cứ việc đánh đòn tôi đi theo như ý thích của các quan. Xin đừng trông tôi khai một lời nào có hại cho giáo dân. Tôi đến đây để phục vụ cho đến chết» (DMAH 3 tr.74, 75).
● Liên đới với nỗi buồn và lo lắng của người trong gia đình còn ở lại và khuyên họ vững vàng sống đức tin.
+ Thật cảm động, những lời thánh Matinô Thọ (+1840) nói với vợ và các con trước khi bị bắt: ‘Nếu tôi bị bắt, xin bà và các con hãy vui lòng, dù có mất của cải cũng đừng phàn nàn. Nếu bà và các con bị bắt, xin bà và các con can đảm xưng đạo cách mạnh mẽ’ (DMAH 2 tr.474). Khi ngồi tù và được các con tới thăm, ông lại thân mật chia sẻ: ‘Các con yêu quý của cha, Thiên Chúa nhân lành định rằng cha không còn về với các con nữa, nhưng các con còn có mẹ, hãy vâng lời mẹ. Các anh chị lớn hãy lo đùm bọc các em nhỏ, các em nhỏ chịu khó nghe lời anh chị. Các con hãy can đảm làm việc chăm chỉ để phụng dưỡng mẹ, hãy trung thành đọc các kinh sáng kinh chiều và lần hạt. Thiên Chúa ban cho mỗi người một Thánh Giá, các con hãy vui lòng vác lấy và can đảm chịu gian khổ mà giữ đạo thánh. Cha không còn làm gì để giúp các con ở dưới trần này được nữa, cha chỉ còn lo sửa soạn ra đi. Vậy sau khi cha chết rồi, chú Chấn và mẹ các con chết rồi, thì hãy chia nhau tài sản. Nếu được phép, các con mang xác cha về chôn nơi cha bị bắt. Những gì cha đã làm cho các anh chị lớn khi cha còn ở nhà, thì các anh chị lớn cũng hãy làm như vậy cho các em nhỏ’ (DMAH 2 tr.476).
+ Thật cảm động lời của thánh y sĩ Simon Phan Đắc Hòa (+1840) nói với vợ hiền trước khi đi chịu trảm quyết: «Bà hãy can đảm, đừng buồn sầu vì số phận tôi đang chịu. Cái chết của tôi làm vinh danh Chúa. Xin bà hãy khuyên bảo các con chúng ta biết tuân theo thánh ý Chúa. Việc tương lai của chúng tôi đã ghi trong tờ di chúc. Còn về các học trò của tôi, bà hãy coi chúng như con vậy». Rồi ngài hôn đứa con út và nói: «Khi cha bị bắt, con mới có một tháng mà bây giờ đã tập tễnh biết đi. Cha dâng con cho Chúa» (DMAH 2 tr.488).
● Các ngài không bao giờ có lời khai báo làm khổ cho nhau: ‘Cả họ vui chịu sỉ nhục, đánh đập, bỏ làng trốn đi chứ không nói chỗ ẩn lánh của cô Daria, một người đồng đạo muốn giữ luật Chúa (DMAH 1 tr.110). Thày giảng Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu bị giam cùng một trại tù với cha Tự, y sĩ Cảnh, và các thày giảng Uy, Vinh, Đệ, Mới. Ngài bị khốn khổ nhiều lắm vì mỗi lần ra tòa, các quan cứ hỏi vặn cho biết về những người đồng đạo cùng bị giam. Thày khôn khéo không nói câu nào gây phiền lụy cho người khác (DMAH 2 tr.345).
4. Liên đới ngay với những người ‘chối đạo vì yếu đuối và hèn nhát’ để khuyên họ can đảm xưng đạo và sống đạo.
Các Thánh Tiền Nhân nhìn thấy rõ nguy cơ chối đạo: Vì lợi lộc vật chất, vì tham sống tạm bợ, vì nhát đảm, vì bị mê hoặc bởi những lời dụ dỗ, lại không cương quyết chấp nhận mọi đau khổ, mọi roi đòn mọi nhục mạ, hay đầu hàng trước cái chết dữ dằn, mà nhiều người đồng đạo, thậm chí có cả linh mục đã ‘chà đạp Con Thiên Chúa, đã xúc phạm đến Máu Giao Ước và nhục mạ Thần Khí ban ân sủng…’ (Dt 10, 26-29). Các Thánh đau buồn, nhưng không bao giờ có một lời oán trách, chê bai hay lên án những người chối đạo. Các ngài đợi dịp tốt thì khuyên họ can đảm tuyên chứng đức tin, trở về với đạo thánh và thành tâm thống hối để được ơn tha thứ… Sau đây chúng ta nêu lên một vài trường hợp cụ thể:
● Một trong những mưu độc của tổng trấn Trịnh Quang Khanh: dùng tên những người công giáo đã bỏ đạo để khuyến dụ và làm lung lay đức tin của các chiến sĩ Chúa Giêsu. Nhưng nhờ ơn Chúa các Thánh lờ đi, không nghe theo, không hở môi chê bai chỉ trích những người đã bỏ đạo. Chẳng hạn chúa Minh Vương thường nhắc đến vụ thừa sai Maurô chối đạo (DMAH 1 tr.75). Hay tệ hơn, quan tuần vũ Ninh Bình còn kéo cụ Duyệt đã chối đạo đến khuyên thày giảng Gioan Baotixita Đinh Văn Thành (+1840): «Hãy bắt chước Thánh Phêrô đi, chối đại rồi ăn năn trở lại». Thày Thành nghe nhưng làm ngơ lời khuyên ghê sợ ấy, nên bị quan tuần vũ cho lính đánh 30 trượng (DMAH 2 tr.405).
● Chuyện ba binh sĩ Augustinô Phạm Viết Huy, Nicola Bùi Đức Thể và Dominicô Đinh Đạt (+1839) thật cảm động. Ba ông đã can đảm xưng đạo và chịu hành hạ, sỉ nhục suốt tám tháng trời, thế nhưng vì yếu đuối cả ba đã theo nhau chối đạo, để lãnh lấy mỗi người 10 quan tiền và trở về nhà. Nhưng cũng từ đó cả ba đều bị lương tâm cắn rứt và được nghe nhiều lời khuyên răn tốt lành… Ba ông coi đó là ơn Chúa tha thứ và kêu gọi hối cải. Ba ông rủ nhau đi tìm linh mục giải tội và quyết tâm lên tỉnh xưng đạo lại. Cả ba quỳ xuống lạy quan tổng trấn Trịnh Quang Khanh: «Bẩm quan lớn, đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng con thờ là là Đấng cao cả phép tắc vô cùng, bởi chúng con đã quá dại dột mà chịu quá khóa, mất nghĩa cùng Chúa chúng con, nay chúng con xin trả tiền lại cho vua và cho quan lớn, cùng xin giữ đạo Chúa cho thật lòng»… Nghe vậy, tổng trấn Trịnh Quang Khanh nổi giận, chửi bới thậm tệ. Nhưng ông không biết xử trí làm sao… Trong lúc đó ba binh sĩ Huy, Đạt và Thể bảo nhau ăn chay, hãm mình, cầu nguyện để đền ‘tội đã làm gương xấu’ và ‘xin ơn chết vì đạo thánh’… Rồi ba ông cương quyết: «Nếu quan thượng Khanh không cho chúng ta chết vì đạo, thì chúng ta sẽ vào kinh đô tâu xin nhà vua cho chúng ta chết vì đạo, để sửa lại gương mù chúng ta đã làm»… Hay tin, mọi người quen biết, bị giam trong tù hay sống đạo ở ngoài, chung lời cầu nguyện cho ba ông… Và ba ông đã được phúc tử vì đạo cùng năm 1839 (DMAH 2, tr.295-328).
● Khi thày giảng Toma Toán (+1840) tuyên bố bỏ đạo thì thánh linh mục Giuse Đỗ Quang Hiển (+1840) cùng bị giam trong một nhà tù, yên ủi và khuyên răn nên Thày Toma hối cải, khóc lóc cầu nguyện ‘Lạy Chúa con, con thật đã quá điên rồ nên mới nghe người ta mà chối bỏ chính Chúa của con. Con quyết ăn năn giốc lòng chừa không bao giờ phạm tội như vậy nữa’. Thày được cha Hiển giải tội cho. Sau đó, nhiều lần được dỗ ngọt, bị đe dọa, đánh đòn, thày Toma chỉ nói luôn một câu: ‘Thưa quan lớn, tôi không có ý bỏ đạo bao giờ nữa. Tôi sẵn lòng chết chứ không tuân lệnh quan lớn’. Quan tức giận, đã bỏ đói thày cho tới chết, ngày 27.6.1840, thọ 73 tuổi (DMAH 2 tr. 430-436).
5. Liên đới ‘nâng đỡ và an ủi nhau’ và quyết tâm tuyên chứng đức tin.
Như lời Thánh Phaolô viết trong thư gửi giáo đoàn Do Thái: Trong thời cấm đạo, nhất là khi bị bắt, các vị tử đạo phải đối phó với bao nỗi đau khổ dồn dập, khi bị sỉ nhục và hành hạ trước quan tòa, khi phải liên đới với những người cùng cảnh ngộ. Các ngài đã thông phần đau khổ với những anh chị em cùng tù tội, đã vui mừng để người ta tước đoạt của cải, chức vị… Tất cả chỉ vì lòng tin, chỉ vì muốn trung tín với Thiên Chúa, muốn được ơn cứu độ… muốn chờ đợi phần thưởng cao quý và vĩnh cửu (xDt 10,32-35). Trong trận chiến căm go này, các Thánh Tiền nhân đã liên đới với nhau, đã thực hiện cụ thể giới răn của Chúa Giêsu ‘Các con hãy yêu thương nhau như thày yêu thương các con’ (Ga 15,17): khích lệ người nhút nhát, nâng đỡ người yếu hèn, không lấy ác báo ác, nhưng làm điều tốt cho nhau, chỉ dẫn cho nhau, kính trọng nhau, hòa thuận với nhau, nhất là cầu nguyện cho nhau không ngừng và cùng nhau tạ ơn Chúa trong mọi hoàn cảnh.… (x.1Ts 5,12-22).
● Sách kể rằng: Khi 8 người giáo dân Quảng Nam (1700) bị các quan giải về Kinh Đô và ném vào chuồng voi, họ không ngớt lời an ủi nhau’ (DMAH 1 tr 82).
● Sách kể rằng: Ba binh sĩ Augustinô Phạm Viết Huy, Dominicô Đinh Đạt và Nicolas Bùi Đức Thể (+1839) đã cấu kết với nhau theo tình nghĩa đồng binh chủng và đồng đức tin. Vì thế trước quan tòa, binh sĩ Phạm Viết Huy luôn đại diện anh em để trả lời. Chẳng hạn khi quan cho lính kéo lê các ngài qua ảnh Thánh Giá rồi truy hô ‘Chúng quá khóa rồi, chúng quá khóa rồi’, thì lập tức ông Huy đại diện anh em kêu lên thật lớn: ‘Quan lớn dạy đánh đòn cùng kéo ép chúng tôi, có lẽ nào mà nói chúng tôi đã quá khóa được!’. Quan tức giận, đánh đòn ba ông trong ba ngày liền, mỗi ông bị đánh 130 trượng. Lần khác ra tòa, quan dụ ba ông bỏ đạo, ông Huy lại thưa thay anh em: ‘Bẩm quan lớn, quan lớn dạy chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa, thì chúng tôi sẽ theo đạo nào, vì trong các đạo khác, chẳng có đạo nào là đạo thật’. Quan tức giận truyền cho lính cạo trọc đầu cả ba ông, bắt đeo gông và phơi nắng trước dinh quan (DMAH 2tr.302).
● Sách kể rằng: «Khi quan đã chém đầu cha Tự và y sĩ Cảnh rồi, thày Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu được coi như ‘người hướng dẫn tâm hồn của bốn thày giảng khác là Uy, Vinh, Đệ và Mới’. Mỗi lần ra tòa thày Mậu đều trả lời thay cho bốn anh em. Ngày bị dẫn ra pháp trường, thày Mậu cũng đi trước và bốn thày Uy, Vinh, Đệ, Mới đi theo sau. Tất cả đều hân hoan, niềm vui hiện trên khuôn mặt…» (DMAH 2 tr. 346,351).
6. Liên đới với những người cầu xin các ngài.
Ngay sau khi chết để tôn vinh Thiên Chúa, xây dựng Đạo Thánh và vì yêu mến Quê Hương, nhiều vị Thánh Tử Đạo đã được diễm phúc biểu dương uy quyền của Thiên Chúa bằng những dấu lạ. Các ngài trở nên những ‘trung gian đắc lực trước tòa Thiên Chúa cho những ai nhờ các ngài cầu thay nguyện giúp’. Đối với chúng ta và ở trước tòa Thiên Chúa, các Thánh Tử Đạo Việt Nam là ‘những cha mẹ hiền lành để đức cho con’. Ở trên Thiên đàng, các ngài không chỉ ‘dĩ đức báo đức’, mà còn ‘dĩ đức báo oán’, các ngài nhìn rõ ‘nhân tình thế thái’, thấu hiểu lòng người, thông cảm và chia sẻ với mọi nỗi cơ cực của đời sống con người, đặc biệt của những ai thành tâm cần đến sự giúp đỡ của các ngài. Phần thưởng Thiên Chúa trao ban cho các ngài là khả năng ‘cứu nhân độ thế’, ‘phù hộ độ trì’, ‘cứu khốn phò nguy’…. Những dấu lạ chúng ta đan cử dưới đây xác nhận như vậy:
● Nhờ lời bầu cử của thày Phanxicô (+1629), một giáo dân đã chữa lành 30 người bị quỷ ám; một cô gái tỉnh Nghệ An đã cứu người mẹ hấp hối tỉnh lại và khỏe mạnh bình thường; một cụ già nằm liệt sắp chết giữa rừng được khoẻ lại (DMAH 1 tr.110).
● Nhờ lời bầu cử của cha Đậu (+1745), ông lý hình Chân Nhuệ, người đã bắt nộp cha Đậu cho quan trấn và sau khi cha Đậu chết vì đạo, ông đã hối cải và cầu xin với ngài, ông được khỏi bệnh cách lạ lùng. Một trường hợp khác: ông già giữ chùa bị đau nặng, dù đã cầu đảo các thần phật và chạy chữa thuốc men nhưng vẫn không khỏi. Một người bạn công giáo khuyên ông cầu khấn cha Đậu. Ông nghe theo, khấn vái thành tâm và được khỏi bệnh. Sau đó ông xin trở lại làm con Chúa (DMAH 1 tr.188-189)
● Nhờ lời bầu cử của cha Đạt (+1798), cậu Đam được khỏi bệnh. Ông Phêrô Vũ Văn Thang kể rằng: ‘Cháu trai của tôi là Đam bị chứng bệnh đau bụng kinh niên, nhiều khi đau kinh khủng, không thuốc nào chữa được. Một hôm, tôi được ơn soi sáng, đến mộ cha Đạt đọc năm kinh Lạy Cha, năm kinh Kính Mừng, rồi nhổ vài ngọn cỏ trên mộ ngài đem về nấu nước cho cháu uống. Vừa uống xong bát nước, cháu khỏi bệnh ngay, không đau lại nữa’ (DMAH 1 tr.244).
● Nhờ lời bầu cử của cha thánh Tùy (+1833), Chúa đã ban cho nhiều người được ơn lạ. Thầy Bernard Thu kể lại rằng: ‘Nhiều lần tôi nghe kể lại những phép lạ do lời bầu cử của cha thánh nhưng chưa ai viết ra. Riêng tôi, tôi xác quyết rằng: mỗi lần tôi chữa trị các bệnh nan y, tôi đều cầu khẩn với cha Tùy, và tôi được cha nhậm lời. Chính ngài đã chữa các bệnh nhân. Một vụ việc khác: nhờ lời bầu cử của cha thánh, ruộng lúa của tôi không bị sâu bọ tàn phá như những ruộng khác của đồng bào. Mọi người bỡ ngỡ, nhưng tôi vui mừng vì biết lời khấn của tôi đã được chấp nhận’. (DMAH 2 tr.50-51).
● Nhờ lời bầu cử của thánh y sĩ Cảnh (+1838), những người công giáo hộ tống xác ngài phải đi qua sông giữa đêm khuya và không có đò, họ sốt sắng quỳ xuống cầu nguyện cùng Đấng Tử Đạo, bỗng nhiên nước rút cạn chưa từng có. Họ đưa xác ngài qua sông về nơi an táng cách dễ dàng (DMAH 2 tr.234).
● Nhờ lời bầu cử của thánh linh mục Đaminh Mầu (+1858) nhiều người được chữa lành: Ông Đaminh Đỗ thuộc họ Đức Bà xứ Kẻ Điền quả quyết ‘mình đã được khỏi bệnh đau bụng nguy kịch’. – Bà thị Chi, 50 tuổi, thuộc làng Lập Bái, cũng tuyên chứng ‘mình được khỏi quỷ ám cách lạ lùng năm 1884’. – Ông cai Thìn, người Lương, cũng quả quyết ‘mình được khỏi quỷ ám, nhờ khấn trên mộc cha thánh Mầu’ (DMAH 3 tr.197).
7. Liên đới với Chúa Kitô.
Tột đỉnh của mọi liên đới trong đời sống của người có đức tin là liên đới với Thiên Chúa, với Đức Kitô. Nói cách khác, họ kết hợp chặt chẽ với Đức Kitô ‘để không những thành những cành nho gắn liền với thân nho’ (Ga 15,5), ‘thành những chi thể gắn liền với thân thể’ (Rm 12,4), nhưng còn hơn thế, ‘không phải họ sống mà là Chúa Kitô sống trong họ’ (), ‘nói trong họ và hành động nơi họ’ (xMt 10,18-20). Thực ra các Thánh Tử Đạo đã múc lấy tinh thần liên đới cao quý này ngay trong ‘niềm tin vào Trời của dân tộc Việt Nam’: ‘Trời sinh Trời dưỡng’, ‘Trời có mắt’, ‘Phước tội tại Trời’, ‘Trăm sự nhờ Trời’, ‘Thiên bất dung gian’, ‘Thiên Đạo chí công’, ‘Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt’, ‘Mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên’, ‘Sống chết ở Trời’, ‘Trời thưởng, Trời phạt’… Quan niệm linh thiêng này được minh bạch hóa, được siêu nhiên hóa, được phong phú hóa và được phổ biến hóa nhờ đời sống đức tin vững chắc và việc tuyên xưng đức tin cách anh dũng của các ngài. Theo gương Chúa Giêsu, các Thánh Tử Đạo muốn quy mọi sự về Thiên Chúa, dâng mọi đau khổ, cực hình và cả mạng sống cho Thiên Chúa, hoàn toàn vì vinh danh Thiên Chúa và để được phần rỗi đời đời. Chúng ta hãy đọc những chứng từ sau đây:
● Thánh y sĩ Giuse Hoàng Lương Cảnh (+1838): Dù đã cao niên, lại phải ra hầu tòa nhiều lần, nghe những lời khi nhục mạ khi dụ dỗ, thánh nhân đều bình tĩnh trả lời, nhưng luôn kết thúc bằng lời cầu xin: ‘Lạy Chúa Giêsu là đường ngay nẻo thật, ai theo Chúa sẽ được sống rất hạnh phúc. Xin Chúa giúp sức cho con’ (DMAH 2 tr.232).
● Thánh Phanxicô Xaviê Hà Trọng Mậu (+1839) viết thư cho cha Huấn kể lại rằng: Khi ấy Đức Chúa Trời đã soi sáng cho con thưa mạnh dạn rằng: «Thưa quan lớn, tôi thờ lạy Thiên Chúa là Cha trên hết các cha, là Chúa trên hết các chúa. Bổn phận của tôi là tôn vinh Ngài…». Bấy giờ quan lại bảo con và các thày Đệ, Uy, Mới và Vinh rằng: «Tụi bay ăn giống gì mà ngu dại thế, tụi bay cũng không thương cha mẹ nữa, ai sinh ra tụi bay ở thế gian này?». Con lại thưa ngay: «Thưa quan lớn, cha mẹ tôi sinh ra tôi, song cũng bởi quyền phép của Thiên Chúa thì tôi mới có!» (DMAH 2 tr.350).
● Thánh nữ Anê Lê thị Thành (+1841): Bị hành hạ quá nhiều, lại bị cơn sốt nặng, thánh nữ kiệt sức và trút hơi thở cuối cùng khi miệng còn kêu xin: «Lạy Chúa tôi, Chúa đã bị đóng đinh vì tôi. Chúa định cho tôi thế nào, tôi xin vâng theo. Tôi phó thác linh hồn và xác tôi trong tay Chúa, Xin Chúa tha tội cho tôi» (DMAH 3 tr.29).
● Thánh Phaolô Lê Bảo Tịnh (+1857): Trong thời gian bị giam tù, thánh Lê Bảo Tịnh luôn nói cương quyết: «Tôi quyết tâm chịu mọi sự khổ cực thiếu thốn vì Chúa Giêsu và cùng với Chúa Giêsu là Cha rất nhân lành, là Đấng tôi quyết chí kính mến hết lòng, hết sức cho đến hơi thở cuối cùng» (DMAH 3 tr.134).
● Thánh Phêrô Đoàn Công Quý (+1859) đã bày tỏ lòng mong ước được tử đạo: «Chớ thì tôi không được diễm phúc chiến đấu và chết vì Chúa sao, ước gì xích xiềng trở thành những vòng đeo tay. Hãy xem bao nhiêu bạn hữu đã được ngành lá chiến thắng, còn tôi như người lính canh bị bỏ quên. Ôi lạy Chúa Giêsu, xin ban cho con phúc chết vì Chúa» (DMAH 3 tr.219).
Sau khi trình bày chi tiết về hai khía cạnh liên đới của thời bắt đạo: ‘Liên đới với các Thánh Tử Đạo’ và ‘Liên đới của các Thánh Tử Đạo’, chúng tôi nghĩ rằng: Bài học lớn chúng ta có thể và phải múc lấy không nguyên nơi các Thánh Tử Đạo, mà nơi tập thể dân Chúa ở Việt Nam trong thời gian hơn ba trăm năm bách hại, là ‘sống liên đới, sống đoàn kết, sống tương trợ, sống hiệp nhất’ với nhau trong mọi phạm vi và hoàn cảnh của cuộc sống chúng ta hôm nay. Quả vậy, giữa bối cảnh đất nước giặc giã, tranh quyền vương bá, xã hội tham nhũng, thối nát, đời sống đói khổ, bon chen và tôn giáo đầy mê tín, dị đoan… mà Giáo Hội Việt Nam đã có thể khai sinh, lớn lên, phát triển, chịu đựng và vượt qua những cuộc bắt đạo phũ phàng, là nhờ một trong những yếu tố vừa tự nhiên vừa siêu nhiên, chính là tinh thần liên đới phúc âm. Tự nhiên, bởi vì tinh thần liên đới đã nằm sâu trong máu mủ, trong tâm thức, được thể hiện trong lịch sử oai hùng và sáng rực trong văn hóa ngàn năm của dân tộc Việt Nam. Siêu nhiên, bởi vì tinh thần liên đới tự nhiên nơi mỗi người, mỗi dân tộc bắt nguồn từ sự liên đới hiệp thông của Chúa Ba Ngôi, từ giáo huấn Tin Mừng. Sứ mệnh của mỗi Kitô hữu là vừa phải phúc âm hóa tinh thần liên đới tự nhiên của dân tộc, đồng thời phải sống đức tin kiên trì và anh dũng cho tinh thần liên đới phúc âm được hiện thực trong mọi phạm vi liên đới tự nhiên của dân tộc. Bằng cái chết anh dũng vì đức tin, các Thánh Tử Đạo Việt Nam đã hoàn thành sứ mệnh này. Nói một cách khác theo chủ đề cuốn sách, ‘Các Thánh Tử Đạo đã thăng hoa văn hóa Việt Nam’. Và đây chính là bổn phận phải được nối tiếp, chu toàn bởi chúng ta là hậu duệ của các Ngài. Mong thay!
---------
(1) Trần Trọng Kim, ‘Việt Nam Sử lược’ II, nxb Bộ Giáo Dục, 1930, tr.353-354.
(2)Trần Trọng Kim, ‘Luân Lý Giáo Khoa Thư’, in lần thứ ba, 1941, tr. 3-4
(3) Vũ Thành, ‘Dòng Máu Anh Hùng’ 1, 2, 3 nxb Thanh Sinh Công, Hoa Kỳ, 1987. Trong bài này chúng tôi trưng dẫn nhiều và viết tắt là (DMAH 1, 2, 3 tr…). Chúng tôi trích dẫn hoặc viết theo cuốn sách của cha Vũ Thành, vì đọc các chú giải hay thư mục ở phần cuối của mỗi cuốn sách, chúng tôi yên tâm về nguồn tài liệu lịch sử liên hệ đến Giáo Hội Việt Nam mà cha đã dày công nghiên cứu và xử dụng.
(4) Xem Nguyễn Đồng Chi ‘Kho tàng chuyện cổ tích’ cuốn 5, nxb Văn Nghệ Sàigòn, 1993, tr. 68-73,129-134.
(5) Kinh Sách ‘Các bài đọc’ tập 4, lễ chung các Thánh Tử Đạo, tr. 748, nxb Thành Phố Hồ Chí Minh, 1999, Sài gòn.