C |
on người tồn tại là nhờ
Tình Người. Xã hội bền vững là biết Liên Kết. Hai yếu tố quan trọng này phát xuất
từ Thánh Kinh. Nhân loại áp dụng cho từng nơi cho phù hợp phong tục tập quán để
sống còn.
Như Việt Nam, cha ông dặn
con cháu, muốn sống chân chính:
-
Đoàn kết gây sức mạnh. Chia rẽ thì chết.
-
Một cây làm chẳng nên non,
ba
cây chụm lại thành hòn núi cao.
-
Thấy người hoạn nạn thì thương....
Lẽ
sống đơn giản này bắt nguồn từ Thánh Kinh, qua gương ‘‘người Samarita nằm bên
đường’’ (x. Lc 10, 29-37) hay ‘‘trả công cho nguời làm vườn nho’’ (x.Mt. 20,
1-16 )
Những
sự kiện này do luật căn bản ‘‘bác ái yêu thương’’ (x.Mt.19, 19)
Hai
luồng tư tưởng, ‘‘đạo đời’’ gặp nhau: Thánh Kinh rao truyền: Yêu thương nhau,
vì anh em cùng cha trên trời (x. ).
Thì luân lý Khổng giáo khuyên: Anh em bốn bể một nhà. (Tứ hải giai huynh đệ).
Căn bản giáo thuyết Phật giáo, là : từ bi, thương xót mọi người. Chính vì thế
văn minh nhân loại cùng hưởng chung, loại bỏ chế độ nô lệ. Để cùng nhau xây dựng
hòa bình chung. Hay mọi người liên kết qua tương thân tương ái (x. Rm 13, 8)
Luật con Người không qua khỏi luật
Thiên Chúa
Thánh
Kinh gắn liền với kinh nghiệm trải rộng trong đời sống bình dân VN. Con đường từ
tập tục tạo ra tín ngưỡng, rồi dần dần đem ý thức kết thành giáo lý để tín ngưỡng.
-
Một người bị cướp, lại bị trọng thương nằm vệ đường, khách qua đường không ai
thèm ngó ngàng. Chỉ có người Samari chạnh lòng thương đến băng bó vết thương
đem vào quán, nhờ chăm sóc. (x. Lc 10, 29-37)
-
Trả công đồng đều, một đồng, cho những người làm vườn nho, đến làm từ sáng,
trưa hay chiều. (x. Mt 20, 1-16)
-
Phục vụ nhau như Chúa truyền: Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh
em. .. con người đến không phải được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ (Mt 20,
27-28)
Con người sống liên kết cộng Đoàn
Lịch
sử văn minh xã hội là đoàn kết đấu tranh. Người bình dân không triết lý, lập
trường suy tư phát xuất từ sinh hoạt xã hội.
Dân
VN thực hành Thánh Kinh ‘‘phải đổ mồ hôi trán mới có cái mà ăn’’. Tự mình làm
ra của cải. Không ỷ vào ai. Dù trải qua hai sương một nắng ba chìm bảy nổi,
chín lênh đênh, cũng sẽ thành công, kết quả tốt đẹp: Có công mài sắt có ngày
nên kim.
Họ
bảo nhau trong việc đồng áng: Cày sâu cuốc bẫm, cấy thưa hơn bừa kỹ.
Tranh
đấu để đoàn kết. Dân làng nhủ nhau:
Muốn cho có đó cùng đây
Sơn lâm há dễ một cây nên rừng
Hay:
Một cây làm chẳng nên non.
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.
Ý
nghĩa hay Thánh Kinh tính, hàm chứa trong ca dao VN
- Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một
giàn
Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước phải thương nhau
cùng-
- Chị ngã em nâng
- Tay đứt ruột sót
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha kính mẹ ấy là chân tu.
Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn đứt dây
Đạo
yêu thương bỏ tư lợi lo công ích. Bỏ ích kỷ sống rộng lượng quảng đại hơn.
Khôn ngoan đá đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau
Trích
đoạn trong ‘‘Gió Đầu Mùa’’ (1937) của Thạch
Lam (1910-1942) nói về anh em trong nhà,
gắn bó với nhau từng miếng cơm manh áo:
Sơn
cũng thấy lạnh, vội vơ lấy cái chăn trùm lên đầu rồi cất tiếng gọi chị. Mẹ Sơn
nghe thấy, đặt chén nước chè xuống, bảo chị Lan:
-
Con vào buồng lấy thúng áo ra mặc cho em, đi
Rồi
quay ra bảo Sơn:
-
Con sang đây mà ngồi cho ấm. Bước khéo để cho em bé ngủẨ
Sơn
kéo chăn lên đắp cho em, rồi co ro đứng dậy sang phản bên này.
Chị
Lan từ trong buồng đi ra, khệ nệ ôm cái thúng quần áo đặt trên đầu phản. Mẹ Sơn
lật cái vỉ buồm lục đống quần áo rét. Sơn nhận ra cùng những áo Sơn đã mặc năm
ngoái, năm kia... Sơn cầm giơ những chi%c áo lên, thấy mát lạnh cả tay. Từ bộ
quần áo thoảng ra hơi mốc của vải gấp từ lâu trong hòm. Làm Sơn nhớ lại những
buổi đầu mùa rét từ bao giờ, lâu lắm, ngày Sơn còn nhỏ.
Mẹ
Sơn giơ lên một cái áo cánh bông đã cũ nhưng còn lành lạnh, nói:
Đây
là chiếc áo của cô Duyên đây
Duyên
là đứa em gái bé của Sơn, chết từ năm lên bốn tuổi. Mẹ Sơn nhắc đến làm Sơn nhớ
em, cảm động và thương em quá. Vú già đã nuôi Duyên từ lúc mới đẻ, với lấy áo lật
qua lật lại ngắm nhìn, tay mân mê các đường chỉ:
Giá
bây giờ em nó còn cũng chả mặc được
Mẹ
Sơn yên lặng không nói gì. Nhưng đến lúc vời Sơn lại gần mặc áo. Sơn thấy mẹ
rơm rớm nước mắt.
Nhà
văn Hồ Biểu Chánh (Gò Công, 1884-1958) viết trong ‘‘Cha Con Nghĩa Nặng’’ (1929)
tả về gia đình thôn quê. Chồng là Trần văn Sử thật thà, hiền lành. Vợ trai lơ,
lẻo mép. Hai vợ chồng có 3 con: Tý, Duyên và Sung. Vợ Sử gian díu với một lính
canh trong hội đồng, tên Sửu. Ai cũng biết. Chuyện đến tai Sử...
Hồ
Biểu Chánh tả về chiều ở đồng ruộng:
-
Một bữa nọ, nhằm tiết tháng bảy. Trời mưa lu ầm, lu ỳ. Ngoài đồng nông phu làm
lăng xăng, người thì lo phát cỏ, kẻ thì lo trục đất. Mấy đám mạ gió thổi lộn
sóng vàng vàng; trong hào ấn, trái già cuốn đỏ đỏ (Nhà Văn Hiện Đại. Q 2,
tr.364)
-
Mặt trời chưa lặn, ếch uệch cạc kêu vang mé hào, trâu na nần đi lần về xóm. Lúa
cấy đã giáp đồng hết rồi, đám nào chưa bén thì coi như vàng phè, đám nào đã nở
thì coi như xanh mướt. (Sđd, tr. 365)
Đem
bác ái chứng minh dân tộc tính.
Dân
Việt lấy tình thương làm căn bản sống:
- Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
-
Cây
xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con
Mừng cây rồi lại mừng cành
Cây đức lắm chồi, người đức lắm con
Ba vuông sánh với bảy tròn
Đời cha vinh hiển, đời con sang giầu
Đạo
thánh hiền xử thế ai giữ được sẽ là người tốt xứng đáng hiền nhân quân tử. Liêm
chính thanh bạch là nền tảng, cai trị dân.
Như
chuyện kể về viên quan thanh bạch:
Dương
Chấn được bổ làm thái thú Đông Lai. Lúc đi phó nhậm ở Xương ấp gặp quan huyện
Vương Mật, nhờ Dương Chấn mà được tiến chức. Chờ đêm tối, quan huyện mới đem
vàng bạc vào tạ ơn và cố nài xin nhận:
-Bây
giờ đêm khuya, không ai biết.
Dương
Chấn đáp:
-
Trời, đất, ông và tôi biết...
Vương
Mật xấu hổ, lùi ra.
(Hậu
Hán thư. Cổ Học Tinh Hoa)
Quả
vậy, đúng là ‘‘tôn giáo đi vào cuộc đời’’. Hay ‘‘tôn giáo đến với xã hội’’
Dòng
thơ mang dấu ấn Thánh Kinh.
Đọc
lại những tác phẩm thơ, người ta thấy rải rác hay nói tư tưởng tác giả giông giống
trong Thánh Kinh.
Nguyễn
Du (Hà Tĩnh, 1765-1820) đã phác họa Thúy Kiều có đủ mọi yếu tố sống hạnh phúc
trong xã hội: thông minh học thức, nhạy cảm, xinh đẹp đến siêu phàm, giỏi đàn
hát, thêu thùa may vá, sắc sảo trong ứng xử giao tiếp, chuyên cần, chung thủy...mẫu
mực trong gia đình trung dung. Nhân vật trọn hảo, nhưng phải tẩy hết mới đạt hạnh
phúc. Nàng phải trả giá cho phẩm giá của mình.
Làn thu thủy nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nước nghiên thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính Trời
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm
(25-30)
Chữ
hiếu đánh giá người con là Kiều.. Nhớ nhà
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ.
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa
xa.
Buồn trông ngọn nước mới sa.
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây đạp đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
(c. 1041-1055).
Lúc
nào tác giả lấy nhân vật chính thay cho mình mang tâm trạng báo đền: đền ơn Tạo
hóa, ơn cha mẹ, non nước cho xứng danh con người trong trời đất và cõi nhân
sinh:
-Trên vì Nước dưới vì Nhà
Một
là đắc hiếu hay là đắc trung (c. 2483-84)
- Để lời thệ hải minh sơn
Làm con trước phải đền ơn sinh thành
(c. 603-604)
Vẻ chi một mảnh hồng nhan
Tóc tơ chưa chút đền ơn sinh thành
(669-670)
-Nợ tình chưa trả cho ai
Khối tình mang xuống thuyền đài chưa
tan
(745-546)
- Hồn con mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền ghì trúc mai
(745-746)
Trong
Kiều, linh hồn được thoát lạc, siêu giác, đầy linh cảm do nội tâm;
- Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
(3251-52)
-Thác là thể phách, còn là tinh anh
- Tu là cõi phúc, tình là dây oan.
Nhà
thơ công giáo Hàn Mặc Tử (1912-1940) biết mình mắc bệnh cùi không chữa nổi, đã
để lại cho mẹ, anh em và bạn bè một nhắn nhủ: giữ ‘‘tâm hồn thanh khiết’’ và sống bằng ‘‘tình
thương cao cả’’, nhất là luôn được tràn ơn ‘‘thánh đức, can đảm và hạnh phúc’’
trước mặt Chúa. Trong lúc tẩm liệm, các
sơ tìm thấy trong túi áo của nhà thơ mảnh giấy nhàu, viết bằng tiếng Pháp:
Hỡi Thiên Thần ở trên Trời
Thiên Thần của Thiên Chúa
Thiên Thần của Hòa Bình và Hoan Lạc
hãy đem đến cho tôi một tràng hoa.
Tôi muốn tắm mình trong hào quang và
tình thương cao cả
Bởi vì ở chốn hạ giới này,
những phép linh dị của Chúa khiến mọi
người phải im lặng
say sưa chiêm ngưỡng cái công nghiệp
huyền diệu của Đấng Tối Cao...
Hỡi Thiên Thần ở trên Trời
Thiên Thần của Thiên Chúa
Thiên Thần của Hòa Bình và Hoan Lạc
hãy tung lên không gian những cánh hồng
và những đóa sen
những khúc hát du dương và những trầm
hương thơm ngát
và hãy rót đầy thánh đức,
can đảm cùng hạnh phúc
xuống giữa các nô tỳ của Chúa.
Đêm thứ tư, 24.10.1940
Phanxicô Trí (Deo gratias, tạ ơn
Chúa)
(Báo Emmau. Nhóm Trẻ GXVN Paris, Nov.
1990, tr.44)
Ngoài
ca dao và văn chương, người VN còn những tục lệ thói quen lâu đời mà chúng ta vẫn
giữ...nó gắn liền với đời sống, như kim chỉ nam cho cuộc sống. Tập quán hay tục
lệ dần dần rở thành luật sống. Phép vua thua lệ làng. Kỷ luật trong tổ chức cần
giữ để phát triển.
Yêu
tổ quốc, nơi sinh trưởng và lớn lên. Đó là bổn phận người dân
Nước non nặng một lời thề
Nước đi đi mải cũng về cùng non
Nhớ lời nguyện ước thề non
Nước đi chưa lại, non còn đứng không
Non cao những ngóng cùng trông
Suối tuôn giòng lệ chờ mong tháng
ngày
(Tản Đà)
Thi
sỹ Nguyễn Khắc Hiếu Tản Đà chú trọng tới đời sống, hội họp, ăn uống chung ;
Đồ
ăn ngon, giờ ăn không ngon, chỗ ngồi ăn không ngon, không được người ăn cho
ngon, không ngon.
Giờ
ăn ngon, đồ ăn không ngon, chỗ ngồi ăn không ngon, không được người cùng ăn cho
ngon, không ngon.
Chỗ
ngồi ăn ngon, đồ ăn không ngon, giờ ăn không ngon, người cùng ăn cho ngon,
không ngon.
Được
người cùng ăn cho ngon, đồ ăn không ngon, giờ ăn không ngon, chỗ ngồi không
ngon, không ngon.
Muốn
cho quốc gia giầu, dân mạnh, phải tôn trọng công ích. Từng người dân giữ gìn
tài nguyên. Làm việc tận tâm. Và giữ lịch sự, tỏ ra người có giáo dụcvà tư cách
Vua
Louis XIV của Pháp có tư cách khiến dân kính trọng và qúi mến. Một hôm, công tước
Bourgeon còn trẻ đẹp cùng ngồi ăn với vua, bên cạnh có một sỹ quan xấu trai, phế
binh. Bà buông lời chế riễu. Vua lớn tiếng: Thưa bà, tôi cho ông là người đáng
qúi trong nước. Vì ông can đảm và anh hùng.
* * *
Trình
bầy như trên, đạo Công Giáo phù hợp với tín ngưỡng dân tộc và dân gian VN:Tình
người liên kết tạo người công dân tốt. Dù Công Giáo (8%) hay không, đều là người
VN. Có khí phách và căn tính như nhau.
Quyền
tự do tôn giáo là tối thượng. Tín ngưỡng quí hơn tài sản nào khác. Vì nó liên
quan đến số phận đời đời mỗi người. Khi chết tài sản để lại tất cả, chỉ mang
theo tín ngưỡng về đời sau. Như Kinh Thánh ghi rõ:
- Trước hết hãy tìm kiếm Nước Trời
(x. Mt 6, 20)
- Mọi sự đều là phù vân (veritas est
veritas)
(x. Gv 1, 2-11; 2, 21-23)
- Một thời để chào đời, một thời để
lìa thế
(Gv. 3, 2)
- Con người từ bùn đất mà ra,
sẽ trở về bụi tro (x.St. 2, 7)
-
Tôi vững tin được Chúa ân thưởng trong đất dành cho kẻ sống (Tv 26,13)
Trùng
hợp, tiền nhân VN quan niệm:
- Sống chơi trần thế thác về âm ty
(ca dao)
- Con gái bỏ chồng theo trai
Chết xuống âm phủ cưa hai nấu dầu (ca
dao)
Đời
người là ô trọc, xã hội xem là sống tạm:
- Đời người như bóng phù du
Sớm còn tối mất, công phu lỡ làng
Và
trông chờ vào ‘‘đời sau, kiếp sau’’.
- Kiếp này duyên lỡ làng duyên
Kiếp sau xin hẹn cửu tuyền gặp nhau
- Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
(Nguyễn Công Trứ)
- Ai ơi hãy ở cho lành
Kiếp này chẳng gặp để dành kiếp sau
-Trăm năm còn thấy gì đâu
Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì (Kiều)
- Ngẫm hay muôn sự tại Trời
Trời kia đã bắt làm ngườì có thân.
(Kiều, 3241-3242)
Canh
tân tư tưởng và hòa giải với mọi người trước, thì hòa bình tới sau. Đó là kết
luận của bài khảo luận thô sơ này.
Bài viết khác
Âm Nhạc Công Giáo trong Văn Hóa Việt Nam - Gs Lê Đình Thông
Vidéo : NGÀY VĂN HÓA THƯ VIỆN GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS - Chúa Nhật 07/04/2024
Thư mời Ngày Văn Hóa Thư Viện Giáo Xứ VN Paris 07-04-2024
The Chosen : Đấng được chọn - Công Bình
Rogations, nghi thức Cầu Mùa đang được hồi sinh tại giáo xứ Moissac - Công Bình
Chúc Thọ & Chúc Thêm - Cung Chi
Vâng Phục Qua Giấc Mơ - Anê Thùy Dung
Nhìn và Ngắm - Nguyễn Đăng Quế
Mùa Chay 2023 : Mùa Cháy – Mùa Chạy – Mùa Chảy - Lm Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Đức Thánh Cha Phanxicô và chuyến công du đầu năm 2023 - Công Bình
Chuyện Yếu Đuối - Trầm Thiên Thu
Suối nước chữa lành - Sr. Maria Thúy Nga, FMA
Đôi lời tri ân độc giả Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris - Giang Minh Đức
Vè Tết Quý Mão - Anna Trương Thị Lâm Sang