TÁC PHẨM, TÁC GIẢ VÀ NGƯỜI DỊCH THƠ
Ngày 27 Tháng 04
Năm 2014, Hội Thánh tuyên phong hiển thánh cho Đức Thánh Cha Gioan Phao Lô Đệ
Nhị.
Con người, cuộc
sống, lòng đạo đức, thánh
thiện, nhân cách, tinh thần làm việc và cách lãnh đạo Giáo hội Công Giáo, thế
giới đã rõ, đã biết, đã tường
tận. Nhất là lòng
kính trọng, khâm phục, ngưỡng
mộ và kính mến.
Không những thế mà còn cảm thương
cho cuộc đời của ngài từ khi còn
là một cậu bé mồ côi mẹ, rồi lớn lên đi lao động, đi quân dịch, cũng mang ba
lô, đội nón sắt... hiên ngang bảo vệ quê hương. Hết nghĩa vụ quân ngũ, ngài lên đường theo tiếng gọi
lương tâm, vào chủng viện đi tu, làm linh mục, giám mục, hồng y, làm
giáo hoàng và giờ đây, ngài đang làm thánh cho chúng ta. Cả loài người thiên hạ
sẽ gọi và tuyên xưng ngài là Thánh Nhân.
Bắt đầu năm phụng
vụ 2014 và mãi
đến suốt đời, Hội Thánh Công Giáo sẽ có và dành riêng một ngày đặc biệt trong
năm. Đó là Ngày 22 Tháng 10, để Giáo hội khắp nơi trên Hoàn vũ mừng lễ kính vị
Thánh Gioan Phao Lô II.
Nói và viết về
ngài, có lẽ với tôi và cả với bạn nữa sẽ rất dè dặt, vì quả thật ngôn ngữ giới
hạn của chúng ta không đủ để diễn đạt trong khi sự nhân đức và thánh thiện của
ngài thì quá bao la và cao cả. Có nhiều người đã
nói, đã viết về ngài, về vị thánh sống từ khi ngài còn nơi dương thế. Vâng, cả thế giới này đã thực hiện và làm những điều đó mỗi ngày ròng rã suốt
gần bốn mươi năm qua bằng nhiều hình thức qua các phương tiện truyền thông và báo
chí, trên các trang mạngkể từ khi ngài được bầu làm giáo hoàng năm 1978 rồi mãi đến khi ngài qua đời, và vẫn còn khơi dậy cho đến hôm nay. Tôi tin tưởng ảnh hưởng của ngài
sẽ còn rộng lớn hơn trong tương lai và sẽ mãi mãi trong dòng chảy của kiếp nhân sinh.
Thánh nhân
Gioan Phao Lô Đệ Nhị đã đi vào lòng lịch sử của Thế giới, của Giáo Hội Công
Giáo và bất biến trong lòng kính yêu, trong mỗi trái tim của người tín hữu hiện diện khắp nơi trên quả địa cầu này.
Tuy nhiên, có lẽ bạn và tôi sẽ không biết đến về một lĩnh vực rất riêng của ngài mà theo Đức Cha Giáo Phận Bắc Ninh Cosma Hoàng Văn Đạt nghiên cứu và tìm hiểu rằng, Ngài là một trong bảy nhà thơ lớn của nền văn học nước Ba Lan, và nếu hôm nay không có Giáo sư Phanxicô Lê Đình Thông, một học giả có tiếng tăm tại Pháp nói riêng và Hải Ngoại nói chung đã khổ công nghiên cứu, chuyển ngữ, rồi dịch thơ của thánh nhân lại bằng tiếng Việt Nam của chúng ta, một ngôn ngữ mẹ đẻ rất gần gũi bên cạnh như hơi thở, như cơm với cá, như mẹ với con, thì có thể tôi chưa biết trọn vẹn đến ngài.
Qua tập thơ của
Đức Thánh Cha Gioan Phao Lô II đã
được vị giáo sư này dịch lại mà tôi nhận được từ một anh nhạc sĩ bạn. Tôi lắng
đọng tâm hồn để đọc từng chữ, từng câu, từng ý tưởng và lần lượt từ bài này qua bài khác. Dòng thơ ấy
đã lôi cuốn tôi vào một tri thức
của chữ nghĩa và của văn chương, dẫn tôi đến bến bờ không phải là sự trừu tượng mà thực thể cho tôi được cảm, được nhận và biết thêm
về cuộc sống đời thường với tình
cảm sâu kín rất thật, rất giản dị nơi
con người của thánh nhân.
Bài thơ "Mẹ
Ơi" (Trích đoạn I) của ngài. Qua một góc nhìn với một lăng kính giới hạn nào đó, tôi thấy được
tình cảm của ngài đối với người mẹ của mình, một thứ tình cảm luôn dạt dào nhưng luôn khắc khoải và lắng sâu. Ngài không thể che dấu
niềm đau vật vờ và nỗi chua xót thiếu thốn người mẹ trong đời sống.
Chúng ta có thể
tưởng tượng và nhận ra được cuộc
đời đơn côi của một đứa bé bị mất mẹ, với những tháng ngày ngỏ vắng, dại khờ, với
lờ mờ sớm trưa mà ngài phải gánh
lấy trong quãng đời thơ dại
đó. Tựa đề bài thơ này chỉ vỏn vẹn có mỗi hai
chữ "Mẹ Ơi". Vâng, chỉ có hai tiếng giản dị đó thôi cũng đủ cho chúng
ta thấy được sự khao khát tình
mẫu tử nơi ngài, khao khát của
môt đứa bé luôn cần có mẹ bên cạnh để được chở che và vỗ về, được gọi
"mẹ ơi" bất cứ khoảnh khắc nào trong đời sống từ khi bé thơ và thậm
chí đến khi đã khôn lớn. Nhưng
quả thật, ngài đã bất hạnh vì
không được gọi hai tiếng thiêng liêng đó. Hai tiếng gọi đầu đời trên môi của em
bé mà không một ai hướng dẫn, không
một trường lớp nào dạy dỗ, chỉ bảo. Chỉ có Thượng Đế mới gắn chặt tình mẫu tử thiêng liêng đó ngay từ những giây phút
phôi thai khi đứa bé được thụ thai, rồi nên hình, nên dạng trong dạ lòng của người mẹ.
Tôi nghĩ rằng và hơn
ai hết, dịch giả Giáo sư Lê Đình
Thông đã thẩm thấu và cảm nhận điều sâu xa về cuộc đời thiếu thốn tình mẫu tử của
thánh nhân, để chọn và dịch lại hai tiếng "Mẹ Ơi" rồi đặt tên làm tựa đề cho bài thơ này.
Hãy điểm qua một vài câu thơ của ngài được chuyển ngữ và dịch thơ lại sau đây:
"Dòng đời trôi nổi bấp bênh, qua bao năm tháng lênh đênh
nổi sầu. Mẹ tôi mất cũng đã lâu, làm sao quên được niềm đau vật vờ...."
Thế đó! Ôi
tình cảm thật chân thiết đã in sâu vào tâm trí, trong tiềm thức của ngài mà khi
đọc qua, có lẽ chúng ta không ngăn chặn được cái nghèn nghẹn co thắt đâu đó trong
tim, và có thể giọt lệ đang làm ta cay
mắt và chực ứa trào. Chưa hết, bài thơ "Hoa Trắng"
cũng là một kiệt tác về văn chương nhưng cũng rất đậm sâu về tình cảm mà tác giả đã diễn tả như tiếng kêu rên rỉ âm thầm, xót đau trong lòng của một đứa bé mất mẹ.
Bài thơ Hoa Trắng này đã thật sự dẫn đường tôi đến để nhìn thấy ngôi mộ của mẹ
thánh nhân. Tôi tin chắc ngôi mộ này rất đơn sơ và có thể lót đá hoặc quét vôi
trắng nằm chênh vênh, đơn độc ở một góc chân trời nào đó mãi tận nước Ba Lan. Bài thơ này đã cho tôi cảm nghiệm thêm nổi buồn, xót xa, qua những
năm tháng trong từng giây phút trống vắng, lạc lõng, đơn côi giữa dòng đời mà
thánh nhân đã đối diện và sống trong hoàn cảnh mất mẹ từ khi ngài còn rất nhỏ
bé, khoảng tám chín tuổi nếu người
viết nhớ không lầm.
Tôi đây cũng đã mất mẹ, mới mất cách đây bốn năm thôi và mất khi tôi
đã là năm mươi tuổi. Vâng, năm mươi tuổi mà mất mẹ thì cũng xem như đã
vững chân đứng trong dòng đời ngược xuôi, tự lo và xoay xở và tự sống còn về thể
lý. Tuy nhiên và mặc dù thế, trong tôi vẫn luôn cảm nhận được sự đau xót,
thương tiếc, đơn côi, bơ vơ, lạc lõng đến thế nào ấy, nhất là khi tôi thất thểu
bám sau quan tài để tiễn đưa mẹ tôi xuống lòng huyệt. Dòng lệ và dòng suy tư đã
làm tôi ý thức được là kể từ nay tôi sẽ không còn mẹ trong cuộc đời, sẽ không
bao giờ được gần bên mẹ, được gọi tiếng mẹ ơi khi cần đến, khi đau khổ hay hoạn
nạn để được mẹ ủi an, khi hạnh phúc hay khi sướng vui để kể cho mẹ mừng, khi thất
bại hay công thành danh toại để chia sẻ với mẹ... Với những cảm nhận chia ly và
mất mát của tôi đó, thì huống gì sự đau đớn, chua xót và đơn côi đối với một đứa
bé mới lên tám tuổi thì niềm đau sâu thẳm đến chừng nào ? Làm sao và có thể đứa
bé tự định hướng được trong cuộc đời ?.
Những đau xót
và thương tiếc của thánh nhân được diễn
tả qua các vần thơ trong bài Hoa Trắng, đã thật sự dao động trong tâm hồn tôi, đã làm tôi phải
chảy nước mắt khóc thương nhớ đến
mẹ của tôi mà giờ đây ngôi mộ và thân xác của mẹ cũng đang nằm cô quạnh dưới lòng đất lạnh:
"Mẹ
tôi mộ đá trắng ngần, nở bông hoa trắng xoay vần đời con. Vành tang mất mẹ mỏi
mòn, bao năm xa cách một lòng nhớ thương. Mẹ tôi mộ trắng xót thương, tình yêu hoa trắng còn vương cõi trần, Mẹ tôi mộ vắng vấn vương..." (Bài thơ Hoa Trắng).
Hãy dành thời gian để đọc hai muơi lăm bài thơ của ngài, rồi thả dòng suy tư về
đời sống và con người của thánh nhân. Ngoài các nhân đức và đời sống thánh thiện,
ngài còn có lòng đặc biệt
yêu quê hương và đất nước của
mình. Có hai câu nói mà ngài đã
nói và đã để lại cho chúng ta thấy được lòng yêu nước, yêu quê hương, thương giống nòi thật mãnh liệt ở trong trái tim của ngài.
Trong thời
gian làm Giáo hoàng, ngài đã thẳng thắn và can đảm nhưng rất chân thành bày tỏ
lòng yêu nước của mình. Ngài nói: "Dù là một vị Giáo hoàng, nhưng tôi vẫn có trái tim để yêu quê hương và đất nước của
tôi". Ngài còn khẳng định lòng yêu quê hươngvà muốn bảo vệ cho đồng bào dân tộc của mình qua câu nói sau đây: "Tôi sẽ cởi áo giáo hoàng để về bảo vệ
và chiến đấu nếu Liên xô hay một quốc gia nào đó tiến quân xâm lược đất nước tôi".
Ngày đắc cử ngôi
vị Giáo hoàng và đứng trên ban lơn, ngài cất tiếng chào mừng và chúc bình an cho mọi tín hữu. Ngoài lời chào mừng và chúc
bình an đó, ngài đã dùng một đoạn ngắn của Thánh Mathêu trong Phúc âm để nói với
dân chúng: "Các con đừng sợ" Một câu nói ngắn ngủi ấy thôi, thế mà
sau này đã làm tan rã các thế lưc
tà quyền và những mưu mô của thế tục. Vì "Các con đừng sợ" nên người dân Đông Đức đã mạnh dạn hiên ngang đứng dậy dùng búa thẳng tay phá
sập bức tường ô nhục Bá Linh năm
1989 để vượt qua Tây Đức tìm lại bà con, gia đình, tìm lại tự do mà sau
bao nhiêu năm run sợ vì phải bị bức tường ngăn cách dòng máu lưu thông trong huyết quản một người Mẹ chỉ vì ý thức hệ và lòng tham bá chủ của những đứa con cứng
đầu, ngổ nghịch, tham lam và khó dạy !.
"Các con
đừng sợ" Ngài cũng đã lập lại một lần nữa trong kỳ Đại Hội Giới Trẻ như để
nhắc nhở những thế hệ trẻ sau này đừng sợ mà hãy mạnh dạn chiến đấu với nền văn
hóa của sự chết, văn hóa của bóng tối và của tội lỗi...
Lòng yêu quê hương và đất nước của ngài có thể diễn tả qua người diễn
viên nơi sân khấu cuộc đời.
"Quanh ta
có biết bao người, tác phong chín chắn nói cười thong dong. Ta như thác nước
xuôi dòng, mà không hổ
thẹn tấm lòng sắt son..." (Bài thơ Diễn Viên)
Dù là một vị
Giáo hoàng cao trọng, nhưng tôi nghĩ ngài rất gần gũi với người chân lấm tay
bùn, người thấp cổ bé miệng. Từ người lao công của hầm mỏ, đến những công nhân
lao động chân tay như: xẻ
đá, đục, gõ, cưa,
bào, và những giọt mồ hôi.
"Dùng bàn
tay chai đá nứt làn da. Giơ búa cao đập tan bao tảng đá. Đá chẻ ra bao ý nghĩ mặn mà. Nhờ chịu khó ta làm nên tất cả..."
(Bài thơ Xưởng Thợ)
Vâng, thơ hay mà người dịch thơ cũng tuyệt vời và khéo léo. Nhưng
hình như chúng
ta đang nghe có tiếng thở dài mệt
nhoài vàthấy
những giọt mồ hôi nhễ nhãi, lấm tấm trên khuôn mặt và ướt đẫm trên chiếc áo lao động của ngài.
"Người thợ
điện nghỉ ngơi cơn gió mát,
xẻ non cao đào sông rạch
xa gần. Bác nông phu phơi lúa chín ngoài sân, bầy
con nít nắm tay nhau ca hát..." (Bài thơ Xưởng Thợ)
Gần gũi nhất là
tác giả vẽ cho ta một bức tranh, trong đó có hình ảnh sống động của bác nhà nông, con trâu với đồng
lúa, với ánh sáng mặt trời đang chiếu dọi trên đồng ruộng. Cho ta thấy bác phu
đang cầy cấy mà có thể bác phu đó cũng chính là ngài với những mong ước rất chi là bình thường và giản dị... Sự
mong đợi từ những cây mạ non khi vừa ươm xuống lòng ruộng, rồi từng ngày chăm bón ngóng chờ được nẩy mầm,
niềm sung sướng khi thấy lúa trổ đòng đòng, thỏa lòng khi được mùa gặt bội thu,
hát câu ca vang trên con đường đê, khấp khởi hân hoan kê vai quẩy gánh thóc về.
Hãy nhìn vào
bức tranh, để thấu và cảm nhận được lòng ngóng trông của bác nhà nông:
"Ánh
mắt nào con mong còn đợi, mau đến mùa lúa mới đơm bông. Cấy cầy vất vả nhiều
công, mong sao mưa thuận, cầu mong gió hòa..." (Bài thơ
Mùa Lúa Mới)
Tôi nghĩ thánh
nhân khi đương thời đã
có cái nhìn rất thực tế về Nhân Sinh Quan. Ngài không bao giờ bi quan, nhưng
luôn lạc quan trong mọi tình huống trong đời sống. Đặc biệt nơi ngài là sự quan tâm đến những người chung quanh và
lòng xót thương khi gặp người bị nạn.
Nếu giả sử ngài
không phải là vị giáo hoàng mà tôi chỉ biết và tìm hiểu sau khi đọc các vần thơ, tôi sẽ thấy nơi ngài
có lòng thương người và rất
quan tâm những ai bên cạnh dù thời gian eo hẹp và dù có bận rộn trong đời sống.
"Tâm trí ta
mệt nhoài tim bấn loạn, khu phố đông người qua lại vội vàng. Lời dặn dò nghe đó đây loáng thoáng, chớ bỏ qua rồi ra sẽ muộn
màng..." (Bài thơ Tiếng Thầm).
Trong cuộc sống và dòng đời vội vã, có lẽ bạn và tôi không dành thời gian nhiều để quan tâm người bên cạnh, mà thật ra người nào cũng có liên quan trong đời sống của chúng ta bằng cách này hay cách khác. Từ người láng giềng, hàng xóm đến những bạn bè, những người Thầy, người Cô dạy dỗ ta, những người cùng mang một dòng máu đỏ da vàng, thậm chí đến những người thân trong gia đình... thử hỏi có mấy khi ta mở lời chào và thăm hỏi hay quan tâm đến đời sống và sức khỏe của họ thật lòng ?
Xã hội và môi
trường bây giờ có xu hướng về chủ
nghĩa cá nhân, họ không còn
cái xót thương và lòng trắc ẩn khi gặp người bị hoạn nạn hay thiếu may mắn trong đời sống, thậm
chí nghoảnh mặt hay vô tâm để rồi phải xảy ra "những điều trông thấy
mà đau đớn lòng" (Nguyễn
Du).
Cách đây
không lâu bên nước Trung Quốc, có một
em bé bị xe cán và bị thương khá nặng khi
băng qua đường. Biết bao người qua lại đã nhìn thấy em bé tội nghiệp đang nằm dẫy dụa với các
vết thương, nhưng tất cả đều vô tâm mặc dù
con phố luôn tấp nập
và đông người. Có lẽ
vì bận rộn chạy cho kịp cuộc sống
để rồi không một ai chịu cúi xuống ra tay giúp đỡ hoặc đưa em bé đi bệnh viện,
hoặc băng bó vết thương cho em. Cuối cùng vì kiệt sức bởi máu ra quá nhiều và
em đã nhắm mắt lìa trần chết tất tưởi
một cách thê thảm và oan uổng. Khi chết rồi, xác em cũng nằm trên góc con phố
đó đến chiều tối cũng không có một ai màng đến.
Em nhắm mắt lìa trần nhưng
có mở được mắt lương tri cho những người dân cùng
mang dòng máu với em
trên con phố nào đó ở bên Trung Quốc ? Em nhắm mắt chết tất tưởi, nhưng tôi tin em đã mở mắt loài người trên thế giới để họ nhìn
thấu rõ những con người đó đã đánh mất hết lương tâm, chai lì lòng trắc ẩn, coi thường tình
người, mất tính nhân bản mà hậu
quả là do sự nhồi nhét một
thứ chủ nghĩa lạc hậu, lỗi thời, một thứ chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cá nhân.
Nếu bạn lên youtube mà người Việt Nam đã đưa lên. Hãy mở xem những cảnh người lớn đánh nhau trên đường phố, trong trường học với các học sinh, thậm chí các học sinh nữ. Biết bao người đứng xung quanh chỉ để xem mà không hề chịu vào để can ngăn và giúp kẻ yếu được thoát nạn. Họ quá dửng dưng như thể con tim và lương tâm của họ không còn một chút xót thương và rung cảm của đồng loại.
Hãy nghe lời khuyên của thánh nhân:
"Đừng
nhìn nhau vẻ hời hợt bề ngoài, đến bên nhau trong sâu lắng khôn nguôi..." (Bài thơ Tiếng
Thầm)
Vì chủ nghĩa cá nhân đã che lấp cái tình nghĩa con người, xem vật chất là trên hết. Văn hóa của bóng tối và
văn hóa của sự chết đã
làm tắt nghẽn dòng máu loài người,
bóp chết trái tim biết rung cảm và xót thương, đóng cửa và nhốt lý trí lại nơi hàng rào trong bức tường ích kỷ, làm cho kém đi sự nhận thức và lu mờ để
không còn có khả năng biết
được những "cái đẹp cứu rỗi thế giới". Hậu quả là biết bao cảnh đau
lòng sảy ra trên thế giới từ chiến tranh chết chóc, khủng bố, đánh bom tự sát,
nạn bạo hành trong gia đình, học trò đánh thầy, bác sĩ thủ tiêu bệnh nhân xuống
sông vì lỡ làm chết để che dấu bởi cách chữa trị hời hợt và thiếu lương tâm.
Các tệ nạn, cướp bóc, giành giựt, hỗn loạn, đảo lộn mọi thứ trong đời sống. Tất
cả điều đó cũng phát xuất từ các chủ nghĩa nói trên và xem thường cung cách giáo dục ở các nhà trường từ đức dục, trí
dục, luân thường đạo lý,
nhân lễ nghĩa trí tín, lòng đạo đức, tính thương người...
Có lẽ thánh
nhân đã nhìn thấy một xã hội, một thế giới băng hoại đó nên ngài mới viết ra những
lời tâm huyết để mời gọi và nhắn gửi đến chúng ta, nhất là nhắn gửi đến các bạn
trẻ:
"Các
bạn trẻ tìm đường bước tới. Đường loanh quanh trăm lối về đâu. Biết chăng muốn
bước qua cầu. Con đường chính đạo nhiệm mầu trong tâm..." (Bài thơ Đường
Sáng) Ôi thật là thâm
thúy và nhiệm mầu !
Bạn đọc mến,
Như đã nói từ đầu, tôi chỉ muốn đề cập đến một góc cạnh
trong lăng kính rất giới hạn của ngôn ngữ, và chỉ vỏn vẹn những vần thơ mà tôi cho đó là cái nhìn rất Nhân Sinh Quan trong đời sống đời thường của Đức
Thánh Cha Gioan Phao lô II. Những bài thơ, vần thơ tôn giáo, đạo đức, tu đức... của thánh nhân mà
Giáo sư Lê Đình
Thông cũng đã chuyển ngữ và khéo léo dịch thơ lại rất ý
nghĩa và thanh thoát... Tôi không dám luận bàn hay phân tích, nhưng sẽ đọc mãi để cảm hóa lòng đạo đức của mình.
Trong tri thức
và những gì là của ngài, cũng huyền nhiệm và cao cả. Từ cuộc sống đời thường
nơi dương thế, đến khi ngài làm giáo hoàng, bị ám sát với bốn viên đạn xuyên
qua ngực nhưng không chết, và thậm chí ngay cả thời gian mà ngài qua đời trong
những ngày lễ Phục sinh và kính Lòng Thương Xót Chúa, cũng nằm trong sự huyền nhiệm đó, mà hễ điều
gì, cái gì đã là huyền nhiệm
thì con người và khoa học cũng
không thể giải thích và chứng
minh được.
Xin bạn hãy nhắm mắt suy luận để thấy rõ hơn những gì
tôi vừa đề cập. Vâng, tất cả nơi ngài là huyền nhiệm và cao cả đối với tôi.
Tôi xin mời bạn
hãy đọc những vần thơ đó sớm có thể, khi đọc những vần thơ đó là chính bạn đang
thực sự cầu nguyện, nội tâm và trí đoán của bạn một cách nào đó đang siêu thoát
và có thể đang chạm đến Đấng Thượng Trí.
Trong tri thức
và lòng đạo đức của ngài, trong tâm tình và văn chương phong phú, kiệt tác, xuất
chúng của ngài trải dài trên những vần thơ đó, đích thật là huyền nhiệm nhưng giãi bày, thanh
thoát nhưng tình cảm, cao sâu nhưng gần gũi, triết lý nhưng
thực tế, có thể sờ mó được, nhất là tấm lòng tình cảm chân chất của ngài đối với mẹ hiền, với
quê hương và đối với nhân thế.
Cuộc đời trải
dài tám mươi lăm năm nơi dương thế, ngài đã để lại biết bao điều thánh đức và gương sáng, về đời sống mục tử và chứng nhân. Nhân thế
cũng đã để lại lòng thương mến, kính yêu, trân quí mà người người khắp nơi trên
thế giới luôn hướng về Tòa
Thánh nơi căn phòng có ánh sáng lọt qua cửa sổ trong những đêm ngài hấp
hối, rồi tiếng khóc vỡ òa khi tin ngài qua đời. Cuối cùng chiếc quan tài bằng gỗ
tạp đơn sơ, giản dị và khiêm hạ như
chính con người và đời sống của ngài. Chiếc quan tài đặt sát xuống mặt đất giữa quảng trường Thánh Phêrô
mêng mông biển người; không có đèn nến, hoa đăng, không có vải lụa gấm vóc giăng đầy như các chủ tịch của nước Bắc
Hàn qua đời, cũng không trầm thơm
ngào ngạt, hay khói hương nghi
ngút như các vị vua chúa hay các bậc quyền quí, cao sang. Nhưng thay vào đó, ngài có hàng triệu
triệu con tim khắp nơi trên thế giới, đủ mọi thành phần và giai cấp đã nhỏ lệ khóc tiếc
thương. Ngài đã sống thánh giữa trần gian và đã mang lại cho con người những điều của Chân - Thiện - Mỹ...
Một nhà thơ người
Hoa Kỳ mang tên Ralph Waldo Emrson đã nói: "When you were born you were crying and everyone else was
smiling. Live your life so at the end, your're the one who is smiling and
everyone else is crying." Tạm dịch: Khi bạn sinh ra, bạn khóc mà mọi người đều cười. Hãy sống làm sao đến cuối đời khi bạn ra đi, bạn cười mà mọi người đều khóc.
Vâng, tất cả mọi
tín hữu đều đã khóc thương tiếc sự ra đi của ngài, mặc dù ai cũng biết ra đi là khởi điểm
cho ngày trở về. Về với Cha
trên trời theo quan niệm và
tín lý của Ki-tô giáo.
Người khôn ngoan thì luôn xây nhà trên đá, luôn nghĩ để dọn đường cho sự
sống vĩnh hằng mai sau, còn dướithế
thì sẽ để lại tiếng thơm tiếng tốt
muôn đời mà chính bia miệng của loài người sẽ nhắc mãi qua câu tục
ngữ: "Trăm năm bia đá thì mòn, ngàn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ".
Thánh nhân biết
rõ điều đó nên đã tự nói và
luôn nhắc nhở lòng mình qua bài thơ ngắn
ngủi của ngài sau đây:
"Đời người
ngắn ngủi không bằng, cây đa cổ thụ đầu làng xanh lâu. Hơn nhau cuộc sống đời
sau, linh hồn sống mãi nhiệm mầu huyền vi"
Hoặc là:
"Đời người thân xác mất đi, linh hồn như cánh chim di miệt mài. Sau này
cát bụi hình hài, bao nhiêu sự nghiệp một mai còn hoài" (Bài thơ Độc Thoại).
Vâng, giờ đây mọi
người sẽ không còn khóc nữa,
nhưng sẽ cùng với ngài hân hoan tạ
ơn Chúa và rồi cùng cười trong tiếng lòng với nước mắt sung sướng, nước mắt của hạnh phúc để đón nhận ơn thánh cao cả nhất mà ngài được tuyên
phong là Đấng Hiển Thánh như Thánh Phao lô đã khẳng định: "Qua Thập Giá, sẽ đến được Vinh
Quang".
Có lẽ như có
sự linh ứng khi ngài còn đương thời để rồi bài thơ "Bức Tường" mà ngài đã viết từ hôm nào về một vị thánh, và hôm nay vị thánh
đó có lẽ cũng chính là ngài:
"Tường thẳng đứng hai bên là hốc đá. Tượng Thánh Nhân còn thanh thản nguyện cầu. Luôn mở ra trang sách thánh
nhiệm mầu. Ngập tâm trí trầm hương bao điều lạ..."
Ôi, thật là huyền
nhiệm
! Vâng, như tôi đã nói: Tất cả nơi ngài là huyền nhiệm, là cao cả.
Thưa Bạn!
Đến đây có lẽ bạn
và tôi sẽ chợt nghĩ và sẽ đề cập đến người đã chuyển ngữ và dịch thuật hai mươi lăm bài thơ của thánh nhân, đó là Giáo
sư Lê Đình Thông mà tôi
có đề cập ở phần đầu.
Tôi nghĩ rằng
đây là một ơn thánh đặc biệt đã tác động cho vị giáo sư mũi tẹt da vàng, sống đời tị
nạn lưu vong trên phần đất không phải là nơi chôn nhau cắt rốn của quê hương mình, và không phải khi sinh ra; vị giáo sư này được hấp thụ thứ ngôn ngữ của mẹ
đẻ, gần gũi như hơi thở, như mẹ với con, mà rất xa lạ qua các ngôn ngữ Tiếng Tây, Tiếng Tàu, nhất là
Tiếng Ba Lan. Nếu bạn
có nói một cách rành mạch một thứ tiếngnào mà không phải
ngôn ngữ của mẹ đẻ, thì cũng sẽ giới hạn trong một phạm vi nào đó của chuyên
môn, trong xã giao, giao dịch hay trong đời sống thường nhật. Nhưng đối vị với
vị giáo sư này thì lại khác. Ông ta đã vượt xa điều tôi tưởng. Hai
mươi lăm bài thơ của thánh
nhân mà ông ta đã dịch lại
cũng đủ để chứng minh điều tôi muốn nói. Tôi nghĩ vị giáo sư này không những là
một nhà thơ lỗi lạc mà còn là một nhà Ngôn Ngữ Học uyên thâm.
Có lẽ bạn và
tôi không thể phủ nhận cách chuyển ngữ và dịch thuật lại, rồi diễn tả cũng
chính bằng những vần thơ và tài tình chuyển qua thành các bài thơ Tiếng Việt Nam với các vần điệu, với các thanh âm bằng
trắc để hoàn thành trọn vẹn từ các thể loại thơ lục bát, song thất lục bát, thơ
đường, thơ tự do qua cách gieo vần thật phong phú và khéo léo, chứa đựng đầy đủ
ngữ nghĩa với văn phong lôi cuốn... Nhà dịch thơ này còn lý luận, phân tích những từ của Hán Việt, rồi chọn
và áp dụng vào những vần thơ
nói trên. Thí dụ chữ "xiển dương" trong bài thơ Magnifica. Đây là văn
từ ghép của Hán Tự mà vị giáo sư này đã dịch thuật lại để dùng từ này áp dụng cho thích hợp với cái khung cảnh,
ngữ cảnh cũng như các chủ ngữ trong
bài thơ Magnificat.
Trước đây, từ ngữ
này đã có một số người đã
dùng, trong đó còn có cả nhà thơ,
và nhạc sĩ màmột
vị nào đóđã dùng
từ này để đặt tên cho một bài hát với tựa đề: "Mẹ Triển Dương" với câu hát đầu: "Mẹ triển dương trên núi Li Ba Nô..."
Theo Hán Ngữ thì chữ
"xiển" nghĩa là "mở ra" chữ "dương" cũng có nghĩa là "rộng, lớn, bao
la..." Như vậy: xiển dương
có nghĩa là mở ra bao la, trong đại...
"Đấng Toàn Năng đã
làm cho tôi bao điều trọng đại..." (Một trong đoạn kinh thánh của Thánh
Luca 1, 47-55). Vậy theo ý nghĩa; tôi nghĩ chữ "xiển dương" mới đúng
và chính xác như vị giáo sư này đã dùng đến.
Văn chương Tiếng
Việt Nam rất phong phú với nhiều nét đặt thù lôi cuốn, có lẽ là nhờ âm điệu vì
có các thanh âm năm dấu sáu giọng, nên tiếng Việt Nam "dễ thương" đến thế !
Lần đầu tiên khi đến Việt Nam và nghe Người Việt Nam nói chuyện, các nhà ngoại quốc đã quả quyết và nói rằng: "Người Việt Nam nói chuyện như hát vậy".
Phải lắm, vì
mỗi tiếng được phát ra là có âm điệu lên xuống bởi các thang âm của mỗi chữ
mang các dấu: huyền, sắc, nặng, hỏi, ngã. Cũng thế, tiếng Việt Nam là một ngôn ngữ đơn âm và nếu dùng đơn
phương hay lẻ loi một từ thì
sẽ rất nghèo nàn. Vì thế mới có các chữ được ghép lại qua sáng kiến của các học
giả, nhất là các cụ xưa để cho tiếng
Việt Nam thêm phần phong phú.
Những thế hệ đi
trước đã ảnh hưởng rất nhiều đến chữ Nho và khi các cụ ghép lạithường
là tiếng Nôm, tiếng Hán đi đôi. Thí dụ: dân-chủ, độc- lập, thế-lực,
chính-quyền, tà-quyền, v.v... Cũng thế, thiết tưởng hôm nay chúng ta gọi tên nước Việt Nam mà thiếu đi một trong hai chữ
cũng là điều thiếu xót quan trọng
(!).
Tôi chân tình
và rất cảm phục cách chuyển ngữ rồi dệt lại và cuối cùng làm cho ra những vần
thơ kiệt tác một cách trôi chảy mà
bạn đang cầm trên tay. Tôi không có cơ hội đọc các bài thơ nguyên thủy của
ngài, mà dẫu có đọc cũng không thể hiểu được vì có thể ngài viết bằng chính ngôn ngữ của ngài. Tuy
nhiên, sau khi đọc các bài thơ đã được dịch lại, tôi đã cúi đầu để tạ ơn Chúa vì đã thấy
và cảm nhận cách dịch thơ rất
tài tình và tuyệt vời của
Giáo sư Lê Đình Thông. Tôi nghĩ vị giáo sư này góp một bàn tay rất quan trọng để cho chúng ta hiểu thêm một góc cạnh trong đời sống văn
chương của ngài, nhất là chắp
cánh cho các bài thơ của thánh nhân đến với chúng ta có thêm hương sắc của văn học Việt Nam.
Với sự thông
thái và uyên bác, vị giáo sư này đã làm cho các bài thơ của
thánh nhân ý nghĩa hơn, hay và mượt mà hơn, tô điểm và mặc thêm bộ áo để các
bài thơ ấy tươi sáng, rực rỡ và duyên dáng hơn.
Người đời thường
nói "dịch" là "diệt". Nhưng với vị giáo sư này thì làm ngược
lại, nghĩa là cho nó sống động hơn, đầy cảm xúc hơn qua nghệ thuật văn chương
và thơ phú trời ban cho ông
ta. Chính vì lẽ đó, các bài thơ ấy đã
lôi cuốn trong tôi và tạo cho tôi nguồn cảm hứng lạ thường,
điều mà những người làm công việc của nghệ thuật và của âm nhạc rất
cần thiết và cần có để khai triển. Nguồn
cảm hứng ấy đã giúp tôi hoàn thành mười ca khúc phổ từ hai mươi lăm bài thơ kiệt
tác đó, và tôi sẽ lấy chủ đề "Lời Kinh nguyện" đặt tên cho cuốn CD gồm
10 ca khúc phổ thơ của Đức Thánh Giáo Hoàng này.
Một bài thơ hay
và ý vị, ắt phải hội đủ những yếu
tố cần thiết về bố cục, ý nghĩa, văn chương, cách gọt chữ, vần điệu, câu cú và
điệp từ như tôi đã nói ở trên, nhất là chiều sâu của bài thơ. Tạ ơn Chúa, Giáo sư Lê Đình Thông đã có và đã đạt được những điều đó.
Những thế hệ
trước đã có các nhà thơ công giáo để đời
như Hàn Mặc Tử. Lời thơ của vị này sâu thẳm, chúng ta có thể thấy máu và nước mắt
trong từng câu thơ qua sự đau đớn và hy sinh về thể xác,
nhưng cũng cho chúng ta
cảm nghiệm cái tinh thần luôn biết cậy trông và phó thác. Gần đây có nhà thơ Xuân Ly Băng với các nhà thơ tiếng tăm khác. Và hôm nay chúng ta có thêm
Giáo sư Lê Đình Thông, một nhà thơ và một người dịch thơ tuyệt vời.
Không phải là điều
tự nhiên sắp xếp ý định của
con người. Sự hiện diện hiếm có của vị giáo sư này trong những bài thơ của thánh nhân, tôi nghĩ là Thiên định. Như tôi đã nói ngay từ đầu và hay lập lại. Tôi đã nói gì ? Tôi
đã nói rằng: Tất cả những gì liên quan nơi thánh nhân là huyền nhiệm và cao cả và tôi tin tưởng
điều đó.Vì:
"Một sợi tóc trên đầu rơi xuống, cũng là thánh ý nhiệm mầu của Thiên
Chúa".
Trong sách Luận
Ngữ có câu mà Đức Khổng Tử khuyên chúng ta rằng: "Hãy lấy Đạo làm Hướng, lấy Đức làm Gốc, lấy Nhân làm Nơi Nương Tựa và lấy
Nghệ làm Niềm Vui"
Quả thật, Giáo
sư Lê Đình Thông còn làm
hơn thế, vì tất cả công việc mà ông đang thực hiện không những
chỉ để làm niềm vui cho riêng mình, mà còn lấy Nghệ Thuật để loan báo Tin Mừng
giữa thế giới hôm nay.
Văn Duy Tùng
-----------------------------------------------------------
Sau đây là một số bài hát trong cuốn CD Lời
Kinh Nguyện
Thơ: Thánh Gioan Phao Lô II
Chuyển ngữ: Lê Đình Thông
Phổ nhạc: Văn Duy Tùng
Với sự đóng góp của Nghệ sĩ Trúc Tiên qua các
diễn ảnh của những bài hát sau đây:
-Hoa Trắng :
- Mùa Lúa Mới :
- Kinh Hòa Bình :
- Magnificat :
- Theo Ngài :
- Bài Thánh Vịnh :
- Nhận Định :
- Lời Kinh Nguyện :
Bài viết khác
Âm Nhạc Công Giáo trong Văn Hóa Việt Nam - Gs Lê Đình Thông
Vidéo : NGÀY VĂN HÓA THƯ VIỆN GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS - Chúa Nhật 07/04/2024
Thư mời Ngày Văn Hóa Thư Viện Giáo Xứ VN Paris 07-04-2024
The Chosen : Đấng được chọn - Công Bình
Rogations, nghi thức Cầu Mùa đang được hồi sinh tại giáo xứ Moissac - Công Bình
Chúc Thọ & Chúc Thêm - Cung Chi
Vâng Phục Qua Giấc Mơ - Anê Thùy Dung
Nhìn và Ngắm - Nguyễn Đăng Quế
Mùa Chay 2023 : Mùa Cháy – Mùa Chạy – Mùa Chảy - Lm Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Đức Thánh Cha Phanxicô và chuyến công du đầu năm 2023 - Công Bình
Chuyện Yếu Đuối - Trầm Thiên Thu
Suối nước chữa lành - Sr. Maria Thúy Nga, FMA
Đôi lời tri ân độc giả Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris - Giang Minh Đức
Vè Tết Quý Mão - Anna Trương Thị Lâm Sang