C |
ách đây khoảng 1300 năm, các nhà thơ Trung
Quốc cũng trải qua mấy chiều tàn nắng nhạt, trong tiết thu đìu hiu, làm phai
tàn lá ngô đồng. Cảnh vật tương tự như mùa thu viễn xứ vào lúc này. Thời gian
tuy có chia lìa, đông tây cách biệt thăm thẳm. Nhưng mùa thu vẫn muôn thuở với
bấy nhiêu tâm sự mà các thi nhân gieo vần, nói hộ.
*
Bộ Toàn Đường Thi tập
hợp trên hai ngàn thi nhân, với gần năm chục ngàn bài thơ, là một công trình đồ
sộ. Trong số báo này, mùa thu Trung Quốc được gom lại trong vài trang giấy qua
ba thi hào thời Thịnh Đường (713-766): Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị. Như vậy
là bỏ qua được ba thời: Sơ Đường (618-713), Trung Đường (766-835) và Vãn Đường
(836-905). Thời Thịnh Đường tuy ngắn hơn ba thời Sơ, Trung, Mạt, nhưng lại dài
hơn bất cứ thời kỳ nào trong văn học Trung Quốc, có chiều dài “vạn
trượng": vượt thời gian; vượt tới hai lần không gian. Vì ngoài không gian
địa lý, thi ca Thịnh Đường lắng sâu tận cõi lòng.
Tiếp tục công việc gạn lọc, chúng tôi
giữ lại ba nhà thơ. Trong thi ca của mỗi thi nhân, xin bỏ qua hai khuynh hướng
“biên tái” và “xã hội.” Chỉ còn lại khuynh hướng “điền viên.” Và trong “điền
viên” xin giữ vầng trăng thu.
I – Mùa thu trong thơ
Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư Dị
Hàn Dũ có câu thơ :
Lý, Đỗ văn chương tại,
Quang diễm vạn trượng
trường.
(Văn chương Lý Bạch,
Đỗ Phủ còn,
Ánh sáng dài vạn
trượng.)
Thơ Lý Bạch tự nhiên, phóng khoáng. Thơ
Đỗ Phủ điêu luyện, gần gũi với nhân sinh. Bạch Cư Dị tiếp nối khuynh hướng hiện
thực, chủ trương:
Văn chương hợp vi thời
nhi trước,
Thi ca hợp vi sự nhi
tác.
(Văn chương vì thời
thế,
Làm thơ vì hiện thực.)
Các khuynh hướng vừa kể được thể hiện
qua thơ thu của ba thi hào thời Thịnh Đường: Lý Bạch, Đỗ Phủ và Bạch Cư
Dị.
1) Lý Bạch
(701-762):
Tiểu sử: Ông sinh đời Đường
Trung Tông (hơn Đỗ Phủ một giáp), mất đời Đường Đại Tông. Năm 25 tuổi, chu du
khắp chốn. 42 tuổi được tiến cử vào kinh đô (Trường An). 55 tuổi: giúp Lý Lân
chống An Lộc Sơn. Nhưng Túc Tông sợ em là Lý Lân thắng sẽ cướp ngôi, sai đại
quân tiêu diệt Lý Lân. Lý Lân bị giết. Lý Bạch bị đầy biệt xứ. Một năm trước
khi chết, ông theo Lý Quang dẹp loạn An Lộc Sơn. Giữa đường bị bệnh, mất năm 62
tuổi. Theo Ngụy Hạo, ông chết trong đầm nước. Theo Vương Đĩnh Bảo, Lý Bạch bận
áo gấm, nhẩy xuống sông Thái Thạch, ôm trăng mà chết.
Mùa thu trong thơ Lý Bạch: Khi sinh tiền, Lý
Bạch sáng tác hai chục ngàn bài thơ, nay còn lưu truyền 1800 bài (chưa tới
1/10). Trong kho tàng đồ sộ đó, các bài thơ viết về mùa thu chỉ như lá mùa thu.
Như bài Đại thu tình. Sau đây là hai bài thơ thu: Thu tịch lữ hoài (Tối
mùa thu nhớ nhà) và Thu phố ca (Bài ca Thu phố). Trước hết
là Thu tịch lữ hoài, kèm theo bản dịch của Tản Đà:
Lương phong độ thu
hải,
Xuy ngã hương tứ phi.
Liên sơn khứ vô tế,
Lưu thủy hà thời qui.
Mục cực phù vân sắc,
Tâm đoạn minh nguyệt
huy.
Phương thảo yết nhu
diệm,
Bạch lộ thôi hàn y.
Mộng trường Ngân hán
lạc,
Giác bãi thiên tinh
hi.
Hàm bi tưởng cựu quốc,
Khấp hạ thùy năng huy?
Thơ dịch của Tản Đà:
Lạnh lùng gió vượt bể thu,
Hồn quê theo gió như
vù vù bay.
Chạy dài dãy núi liền
mây,
Nước trôi trôi mãi có
ngày về chăng?
Đám mây vút mắt xa
chừng,
Đứt tươm khúc ruột
dưới vừng trăng soi.
Cỏ thơm đẹp mướt thôi
rồi,
Áo may mặc rét giục
người móc sa!
Giấy mơ rơi giải Ngân
hà,
Sao thưa lác đác tỉnh
ra khắp trời.
Đoái thương nước cũ
ngậm ngùi,
Khóc thương giọt lệ
lau chùi đố ai?
*
Bài thơ thứ hai của Lý Bạch tên là Thu
phố ca, chỉ có bốn câu. Tôi mạo muội dịch thoát, nhưng vẫn giữ nguyên thể
tứ tuyệt. Tuyệt là dứt. Lý Bạch chọn hình thức thi ca này, phải chăng vì cuối
bài, nhà thơ vẽ ra mùa thu tuyệt lộ: Hà xứ đắc thu sương? (Còn
chỗ nào để lọt sương thu):
Bạch phát tam thiên
trượng,
Duyên sầu tự cá
trường.
Bất tri minh kính lý,
Hà xứ đắc thu sương?
*
Tóc trắng xõa ê chề,
Sầu đời dài lê thê.
Gương trong mà mù mịt,
Sương thu che lối về?
Trong hai bài thơ thu của Lý Bạch, hai
câu kết đều được đặt ở thể nghi vấn. Nghi vấn, với rất nhiều nghi ngại. Chúng
ta mến cả hai, có lẽ vì mái tóc đã phủ đầy sương thu. Trong câu mở đầu
bài Tương tiến tửu, Lý Bạch xót xa cho mùa thu nhân sinh:
Biết chăng ai! Sông Hoàng Hà ngọn nước
tại lưng trời, tuôn đến bể khôn vời lại được.
Biết chăng nữa! Đài gương mái tóc bạc, sớm như tơ mà tối đã như gương.
(Vô danh dịch)
Trong bài Thu tịch lữ hoài, Lý Bạch nhớ
nhà (lữ hoài). Như nỗi nhớ nhà của chúng ta. Trong câu kết, tác giả “ôm
mối sầu khi chạnh nhớ đến cố quốc” (Hàm bi tưởng cựu quốc).
Đó là cách nhìn mùa thu của trích
tiên (tiên đầy xuống trần). Thơ thu của Lý Bạch là thơ huyền
ngoại âm, vị ngoại vị (âm thanh ngoài dây tơ, mùi vị ngoài mùi vị).
Thu cảnh chỉ là cái cớ để nói về thu tâm. Khuynh hướng này có gì khác biệt với
Đỗ Phủ?
2) Đỗ Phủ
(712-770):
Tiểu sử: Quê quán tỉnh Hà
Nam, Đỗ Phủ xuất thân từ một gia đình quan lại nên nhiều dịp đi đây đó. Ông lận
đận trên đường khoa bảng. Tới lúc được một chức quan nhỏ thì có loạn An Lộc
Sơn. Ông có lần can gián vua nên bị thất sủng. Đỗ Phủ từ quan, dắt díu vợ con
chạy loạn. Những năm cuối đời, ông trôi giạt quanh hồ Động Đình, nghèo đói và
bệnh tật. Lý Bạch chết chìm dưới sông. Còn Đỗ Phủ qua đời trên chiếc thuyền
nan, bồng bềnh trên sóng nước. Bên Pháp, vào năm 1190, vua Philippe Auguste đề
tặng kinh thành Paris châm ngôn: Fluctuat nec mergitur (Sóng
gió làm con tầu chòng chành nhưng không chìm). Sóng gió của thi nhận là ”...
tiếng sóng ở trong lòng.” Nên Lý Bạch, Đỗ Phủ chia nhau hai động từ của kinh
thành Ánh sáng: L'un a été battu par les flots (fluctuat). L'autre a
sombré dans l'eau (mergitur). Chỉ vì thi nhân “không” không (nec)
chìm (phủ định tới hai lần) nên hình hài mới chung thân ngụp lặn. Nhờ vậy, văn
học mới có thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ: Lý, Đỗ văn chương tại(Hàn
Dũ).
Thơ thu của Đỗ Phủ: Trong văn học
nước nhà, Nguyễn Khuyến là tác giả ba bàiThu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh.
(Trình tự rất hợp lý: thi nhân câu cá trước tiên, tiếp đó là tửu nhập, sau cùng
mới gieo vần. Như vậy, làm thơ thường là chặng cuối đường tổng hợp,
sau khi thi nhân đã thực hiện hai phân tích: 1) Đối cảnh (Thu
điếu); 2) Đối tâm (Thu ẩm). Ở đây, Yên Đổ (Thu) điếu trước
để có cá ngon mà ẩm, mà vịnh. Cộng lại vẫn là ba,
giống như là Tam Nguyên).
Đỗ Phủ làm tám bài Thu hứng (Thu
hứng bát thủ). Từ kỳ nhất tới kỳ bát, theo thể thất ngôn bát
cú. Nếu chép ra đây cả tám bài, vị chi là 8x8 = 64, e quá dài. Vì vậy, chỉ chọn
hai kỳ (bát thủ tuyển nhị): tứ và thất.
Kỳ tứ giống tình cảnh quê nhà: dinh thự
có chủ mới, áo mũ người cai trị cũng khác trước. Vì vậy, tôi mạo muội “tái
sinh” bài thơ. “Tái sinh,” vì bản tiếng Việt bỏ bớt địa danh Trung Quốc (Trường
An). “Cuộc cờ” (dịch kỳ) trong nguyên bản đổi lại thành Bàn
Cờ. Hai phần luận và kết cũng thay đổi cho thích hợp:
Văn đạo Trường An tự
dịch kỳ,
Bách niên thế sự bất
thăng bi.
Công hầu đệ trạch giai
tân chủ,
Văn vũ y quan dị tích
thì.
Trực bắc quan san kim
cổ chấn,
Chinh tây xa mã vũ thư
trì.
Ngư long tịch mịch thu
giang lãnh,
Cố quốc bình cư hữu sở
ti (tư).
*
Quê ta có phố Bàn Cờ,
Từ lâu đổi chủ treo cờ
Vàng Sao.
Dinh cơ biệt thự ra
vào,
Toàn là cán bộ lao xao
nửa mùa.
Áo quần khác hẳn thời
xưa,
Tuy thôi chinh chiến
mà chưa tòng thời.
Lòng dân ly tán không
ngơi,
Mùa thu lại đến chơi
vơi là sầu.
Bờ sông vắng lặng đêm
thâu,
Chạnh lòng tiếc nuối
hàng cau quê nhà.
Trong Thu hứng bát thủ, kỳ
thất là bức tranh tương phản: đối diện với trời thu bao la bát ngát là một ngư
ông nhỏ bé, cô đơn:
Ao thu lạnh lẽo nước
trong veo,
Một chiếc thuyền câu
bé tẻo teo.
(Nguyễn Khuyến)
Có gì là lạ? Ao thu là
cõi người ta mịt mù hơi thu (Thu). Chiếc thuyền câu bé tẻo teolà
trái tim ta (Tâm), nổi trôi trên huyết quản chằng chịt. Nên vương Sầu chỉ
là: nhân > quả (principe de causalité). Nếu chiết tự: Thu +
Tâm = Sầu.
Sau đây là nguyên tác của Đỗ Phủ:
Côn minh trì thủy Hán
thời công,
Vũ đế tinh kỳ tại nhãn
trung.
Chức nữ cơ ti hư dạ
nguyệt,
Thạch kình lân giáp
động thu phong.
Ba phiêu cô mễ trầm
vân hắc,
Lộ lãnh liên phòng
trụy phấn hồng.
Quan tái cực thiên duy
điều đạo,
Giang hồ mãn địa nhất
ngư ông.
Kỳ thất không khác gì
tâm sự của chúng ta. Vì vậy, tôi mạn phép “chuyển hóa” bài Đường thi qua thể
lục bát:
Ao tù làm nhớ biển
Đông,
Mắt sầu chạnh nhớ võ
công một thời.
Trăng khuya khung cửi
chơi vơi,
Trời thu lộng gió biển
khơi lạnh lùng.
Bờ lau mà tưởng ngàn
trùng,
Sương thu chùi sạch
phấn hồng cánh sen.
Lối xưa mờ mịt cài
then,
Sông hồ bát ngát
thuyền men giữa dòng.
Lúc sinh thời, có lần Đỗ Phủ nhủ lòng:
Thơ chưa làm kinh động lòng người thì chết chưa yên (Ngữ bất kinh nhân, tử
bất hưu). Khi đọc bát thủ, Kim Thánh Thán có lời bình: Thương
tâm thấu tới xương. Ngâm nga tám bài Thu hứng, lòng chợt là lau
sậy lao xao. Từ lâu, cuộc sống đã hóa thân thành cây sậy Pascal. Nhưng sậy
Pascal vẫn trôi dạt về phương Đông, cận kề với lau lách của Bạch Cư Dị:
Tầm Dương giang đầu dạ
tống khách,
Phong diệp địch hoa
thu sắt sắt.
Phan Huy Vịnh dịch là :
Bến Tầm Dương canh
khuya đưa khách,
Quạnh hơi thu lau lách
đìu hiu.
Hơi thu, với tiếng đàn tỳ bà buồn não
nuột đã thấm vào thơ thu của Bạch Cư Dị.
3) Bạch Cư Dị
(772-846):
Tiểu sử: Bảy mươi lăm năm
nhân sinh của họ Bạch là ba phần tư thế kỷ giặc giã, từ giặc An Lộc Sơn tới
giặc Sử Tư Minh. Ông là con vị quan nhỏ, thuở nhỏ túng thiếu. Năm 28 tuổi đậu
tiến sĩ. Tính tình bộc trực, ông bị biếm làm tư mã Giang Châu, nơi có bến Tầm
Dương. Bến Tầm Dương đã mở ra bến bờ mới trong thi ca Bạch Cư Dị. Ông để lại
cho hậu thế gần ba ngàn bài thơ, trong đó có nhiều bài viết về mùa thu.
Thơ thu của Bạch Cư Dị: Thơ thu của Bạch Cư
Dị nhiều hơn Lý Bạch, Đỗ Phủ, tự nhiên, giản dị giống như tên ông (Cư Dị). Hơi
thu trong thơ ông bay rất xa, đậu lại trong hồn thơ Tản Đà. Trong hai năm
1937-38, Tản Đà (1889-1939) dịch 75 bài thơ chữ Hán, đăng trên báo Ngày Nay.
Nhưng chỉ có 58 bài là Đường thi. Trong số có 38 bài của Bạch Cư Dị, chứng tỏ
có mối giao hòa, “đồng thanh tương ứng” giữa Bạch Cư Dị và Tản Đà. Tản Đà dịch
nhiều thơ họ Bạch, nhất là những bài viết về mùa thu. Nào là Thu trùng,
Tảo thu độc dạ, Thu mộ giao cư hoài, Thu giang tống khách, Thu san, Trung thu
nguyệt v.v...
Đó là chưa kể nhiều bài, tuy đầu đề
không dính dáng gì đến mùa thu, nhưng chất liệu vẫn là thu sầu. Bài Văn
dạ châm có câu:
Thùy gia tư phụ thu
đảo bạch.
Tản Đà dịch là:
Nhà ai cô gái nhớ
chồng,
Đêm thu đập lụa lạnh
lùng gió trăng.
Bài Họa Đỗ lục sự đề hồng diệp có
mấy chữ: đề hồng diệp (Khi mùa thu tới, lá cây phong sắc đỏ).
Bài Trường hận ca có câu Thu vũ ngô đồng diệp lạc thì. Tản Đà dịch
là: Thu khi mưa rụng lá ngô đồng. (Dị bản: Thu kia mưa rụng lá
ngô đồng). Bài Tì bà hành có câu: Phong diệp địch hoa
thu sắt sắt. Phan Huy Vịnh dịch là: Quạnh hơi lau lách đìu hiu
v.v.
Sau đây là hai bài thơ thu của Bạch Cư
Dị, kèm theo bản dịch của Tản Đà. Bài thứ nhất là Thu trùng (Tiếng
trùng mùa thu):
Thiết thiết ám song
hạ,
Yêu yêu thâm thảo lý.
Thu thiên tư phụ tâm,
Vũ dạ sầu nhân nhĩ.
Bản dịch của Tản Đà:
Tiếng đâu dưới vách
kêu ran,
Lại trong đám cỏ nghe
càng nỉ non.
Trời thu gái nhớ chồng
son,
Mưa dầm đêm vắng ai
buồn lắng tai.
Thu sầu, vì người cô phụ
tưởng nhớ hình ảnh kẻ chinh phu (LưuTrọng Lư). Xin chép thêm
bài Thu mộ giao cư thư hoài (Cuối thu, ở miền quê viết tả lòng
mình), tác giả tự sự mối sầu thu:
Giao cư nhân sự thiểu,
Trú ngọa đối lâm man.
Cùng hạng yếm đa vũ,
Bần gia sầu tảo hàn.
Cát y thu vị hoán,
Thư quyển bịnh nhưng
khan.
Nhược vấn sinh nhai
kế,
Tiền khê nhất điếu
can.
Thơ dịch của Tản Đà:
Ở quê, thưa việc ít
người,
Giữa trưa nằm khểnh
ngắm coi núi đèo.
Ngõ sâu ngán nỗi mưa
nhiều,
Lạnh lùng chi sớm cảnh
nghèo thêm lo.
Áo lương còn mặc mùa
thu,
Ốm đau sách vẫn đôi
pho chẳng rời.
Lấy chi qua sống ngày
trời,
Một cần câu để bên
ngòi ngồi câu.
Cả hai bài thơ thu của họ Bạch đều viết
theo thể ngũ ngôn. Bài đầu: tứ tuyệt, bài sau: bát cú. Hai bài thơ thu của Lý
Bạch (Thu tịch lữ hoài và Thu phố ca) cũng làm theo thể
ngũ ngôn. Thu tịch lữ hoài làm theo lối thơ cổ phong (12 câu).
Bài Thu phố ca: tứ tuyệt. Tiếng thu của Lưu Trọng
Lư tuy là thơ mới, nhưng vẫn là năm chữ. Sự trùng hợp này sẽ được trình bầy
trong phần II: Cảm nhận Đường thi.
II – Cảm nhận Đường
thi
Trong Hương Xưa, nhạc sĩ
Cung Tiến có dòng nhạc nói về Đường thi. Trong Thi nhân Việt Nam,
Hoài Thanh cho rằng: Thanh thế thơ Đường ở nước ta xưa nay bao giờ cũng
lớn. Tôi xin thêm: nhất là thơ viết về mùa thu. Trong tâm hồn người Việt có
dáng dấp mùa thu. Nhưng thu tâm được che dấu bằng nụ cười. Vì vậy, Nguyễn Văn
Vĩnh mới viết: An Nam ta có một thói lạ là gì cũng cười. Theo ý
chúng tôi, chân dung người Việt: bên ngoài hàm tiếu bên trong thu sầu. Nguyễn
Văn Vĩnh chỉ nói hiện tượng (phénomène) mà bỏ quên ẩn tượng (noumène). Ta tiếp
nhận thơ Đường viết về mùa thu chính vì mối ẩn tượng đó, được thể hiện qua Thu
ca, Thu sắc và Thu học.
1. Thu Ca
Những bài vịnh thu hay đều viết theo thể
ngũ ngôn. Bài thơ mới được coi là hay nhất viết về mùa thu của Lưu Trọng Lư
cũng theo lối thơ năm chữ. Il pleut dans mon coeur của
Verlaine là một trong những bài thơ giầu nhạc điệu trong thi ca Pháp là thơ sáu
chân (hexamètre). Thể thơ ngũ ngôn đầy nhạc tính, có lẽ vì trùng hợp với cung
điệu ngũ âm của quốc nhạc: Cung, Thương, Giốc, Trủy, Vũ.
Cung thương làu bậc ngũ
âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ
cầm một trương.
(Nguyễn Du, Kiều)
Ta thử lập luận theo tam đoạn luận để
thiết lập mối tương quan giữa mùa thu và thơ ngũ ngôn:
- Tiền đề: Mùa thu là
mùa đầy nhạc điệu.
- Trung đề: Các bài thơ
ngũ ngôn mùa thu giầu nhạc tính của Lý Bạch, Bạch Cư Dị thời xưa, bài thơ thu
năm chữ của Lưu Trọng Lư chứng tỏ thơ ngũ ngôn có nhiều thanh âm.
- Kết luận: Vì vậy,
nhiều bài thơ thu được viết theo thể ngũ ngôn.
Mặt khác, không thể tách thơ thu ra khỏi
nhạc thu. Trong âm nhạc Việt Nam, nhiều bài thơ thu đã được phổ nhạc.
2. Thu Sắc
Một năm có hai mùa màu sắc phong phú:
mùa xuân và mùa thu. Màu sắc mùa xuân là của đất trời nên tươi thắm: màu vàng
của hoa mai, hoa cúc rộn ràng; màu hồng của hoa đào reo vui. Còn màu sắc mùa
thu nhuốm màu nhân sinh: màu vàng (lá ngô đồng), màu đỏ (lá cây phong) mùa thu
gợi sầu, ghi dấu năm tháng tàn phai hay gợi lại chân trời cũ mờ khuất:
Màu thời gian không
xanh,
Màu thời gian tím
ngắt.
Đoàn Phú Tứ
Một năm có bốn mùa. Hai kỳ xuân thu biểu
hiện nhân sinh. Mùa xuân hướng tới tương lai. Mùa thu hồi tưởng quá khứ. Hiện
tại chỉ là sự níu kéo vụng về giữa hiện tại và quá khứ. Vì vậy, ngôn ngữ thi ca
mùa thu mới có cố hương, cố nhân, cố quận v.v.
3. Thu Thủy
Cảnh đẹp mùa thu là tấm gương soi vóc
dáng giai nhân. Chân dung người đàn bà đẹp thuở xưa bao giờ cũng có làn sóng
mùa thu (thu ba), nước mùa thu (thu thủy). Sóng nước mùa thu rung động nhẹ
nhàng, vương sầu. Người đàn bà thuở xưa giống như chiếc lá mùa thu, không biết
trôi giạt chốn nào. Sự bất định và nỗi sầu bao giờ cũng có chung định
mệnh:
Em chỉ là người em gái
thôi,
Người em sầu mộng của
muôn đời.
Tình em như tuyết
giăng đầu núi,
Vằng vặc muôn thu nét
tuyệt vời.
Lưu Trọng Lư
Yêu người, thi nhân càng thêm mến cảnh,
nặng lòng với mùa thu. Trong Vang Bóng Một Thời, Nguyễn Tuân kể chuyện người
xưa thắp bạch lạp, đọc Đường thi in thạch bản. Ngọn bạch lạp đó chỉ làm tăng
lên nỗi cô đơn và hiu quạnh của Đường thi viết về mùa thu.
4. Thu Học
Tôi xin tạo từ mới (néologisme): Thu
học, để nối cõi sau (aval) của dòng thơ thu về với nguồn cội, khởi đi từ Đường
thi. Ngày xưa có thu, có học, nhưng chưa có thu học, vì niên học gắn liền với
nông lịch. Từ khi có tân học, năm nào mùa thu cũng dẫn ta tới trường. Vì vậy,
những người nặng nợ với đèn sách đều chung tình với mùa thu. Ai mà quên đuợc
mấy dòng văn xuôi của Edmondo De Amicis (1846-1908), Hà Mai Anh dịch sang tiếng
Việt, mở đầu cuốn Tâm Hồn Cao Thượng (Cuore: Grand Coeur, 1886): Hôm
nay là ngày khai trường. Mấy tháng hè đã thoáng qua như giấc mộng. Sáng nay, mẹ
tôi đưa tôi vào trường Baretti để ghi tên lên lớp ba.
Thanh Tịnh (1911, Huế-1988) có đoạn văn
xuôi rất hay viết về ngày khai trường, thuở nhỏ học thuộc lòng nên nhớ mãi
:
"Hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài
đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức
những kỷ niệm hoang mang của buổi tựu trường.
Tôi quên thế nào được những cảm giác
trong sáng ấy nẩy nở trong lòng tôi như mấy cành hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời
quang đãng.
Những ý tưởng ấy tôi chưa lần nào ghi
trên giấy, vì hồi ấy tôi chưa biết ghi và ngày nay tôi không nhớ hết. Nhưng mỗi
lần thấy mấy em nhỏ rụt rè núp dưới nón mẹ lần đầu tiên đi đến trường, lòng tôi
lại tưng bừng rộn rã.
Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương
thu và đầy gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài
và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại nhiều lần, nhưng lần này tôi tự nhiên
thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đang có sự
thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học.” (Thanh Tịnh, Quê Mẹ 1941).
Vần thơ tựu trường xem ra ngây thơ, chất
phác giống như sách vở học trò:
Hôm nay ngày khai
trường,
Ngoài phố vui như hội.
Tiếng guốc giầy inh
ỏi,
Rộn rã trên vỉa đường.
Trong các thế hệ tân học, suốt từ năm
lên sáu tới khoảng tam thập nhi lập, một phần tuổi đời là tuổi học đường. Vì
vậy, thu học càng làm ta nặng tình với mùa thu, thơ thu và xa hơn nữa là thơ
Đường.
*
Năm nay, vào mùa thu, khi lá ngô đồng
rơi rụng khắp đường phố Paris, những câu thơ Đường dẫn ta quay về chân trời cũ.
Chân trời đó có thể rất xa. Nhưng cũng thể rất gần, ở ngay trong tâm ta. Trái
tim đó đang rung động khi nghe lại mấy vần thơ thu đông tây, kim cổ.
Bài viết khác
Âm Nhạc Công Giáo trong Văn Hóa Việt Nam - Gs Lê Đình Thông
Vidéo : NGÀY VĂN HÓA THƯ VIỆN GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS - Chúa Nhật 07/04/2024
Thư mời Ngày Văn Hóa Thư Viện Giáo Xứ VN Paris 07-04-2024
The Chosen : Đấng được chọn - Công Bình
Rogations, nghi thức Cầu Mùa đang được hồi sinh tại giáo xứ Moissac - Công Bình
Chúc Thọ & Chúc Thêm - Cung Chi
Vâng Phục Qua Giấc Mơ - Anê Thùy Dung
Nhìn và Ngắm - Nguyễn Đăng Quế
Mùa Chay 2023 : Mùa Cháy – Mùa Chạy – Mùa Chảy - Lm Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Đức Thánh Cha Phanxicô và chuyến công du đầu năm 2023 - Công Bình
Chuyện Yếu Đuối - Trầm Thiên Thu
Suối nước chữa lành - Sr. Maria Thúy Nga, FMA
Đôi lời tri ân độc giả Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris - Giang Minh Đức
Vè Tết Quý Mão - Anna Trương Thị Lâm Sang