LỘI NGƯỢC DÒNG - NÍU LẤY BẢN SẮC
Quý
Vị và Các Bạn thân mến,
Xin được giới thiệu 2 tác
phẩm Công Giáo thuộc thể loại Đàn Ca Tài Tử dưới đây của nghệ sĩ Trúc Tiên. Trước khi thưởng thức, tưởng chúng ta cũng
nên tìm hiểu đôi chút về thể loại này.
ĐÀN CA TÀI TỬ
Đàn Ca Tài Tử đã có từ lâu,
khoảng cuối thế kỷ XIX, là tinh hoa của âm nhạc ngũ cung và văn học dân gian,
phát xuất từ giới quý tộc Kinh Đô Huế, được xem là nhạc lễ Nhã Nhạc Cung Đình
Huế thời vua chúa.
Sau những biến loạn thời Nhà
Nguyễn, vua Hàm Nghi đã ra chiếu Cần Vương,
một số nhạc quan và nhạc công của triều đình xuôi nam lánh nạn và
sinh sống, trong đó có nghề dạy nhạc.
Hằng ngày đối diện qua các sinh
hoạt của người Miền Nam, nhất là ảnh hưởng
đến giọng nói của thổ dân vùng miền này, vốn đã có kiến thức và kinh
nghiệm sáng tác cũng như trình
tấu, các nhạc quan nói trên đã cải biến từ Nhã Nhạc Cung Đình thành những giai
điệu thích ứng với người dân cũng như chất giọng địa phương, rồi khoác lên một
tên gọi mới cho thể loại : "Nhạc Tài Tử". Quả thật, đây là loại hình
diễn tấu dân gian đặc trưng của vùng Nam Bộ, vì thể loại này rất thích hợp cho
mọi giới lúc bấy giờ, từ giới quý tộc (nam thanh nữ tú) đến giới bình dân (nông
thôn dân giả)... mà họ thường
hát ca sau những giờ lao động hay những dịp trẩy hội…
Nhạc Tài Tử dần dà cải danh thành
"Đàn Ca Tài Tử", vì thể loại này không lâu sau đó có luôn ca hát kèm
theo tiếng nhạc cụ, nghĩa là có "đàn" có "ca". Có 4 loại
đàn thường diễn tấu thể loại này gồm :
đàn cò, đàn kìm, đàn tranh và đàn bầu (gọi là Tứ Tuyệt) Sau
này bổ sung thêm còn có đàn guitar ô phím lõm (còn gọi việt tây cầm). Còn chữ
"Tài Tử" xin đừng hiểu lầm là "không chuyên nghiệp",
"nghiệp dư" (amateur) – "tài
tử" theo nghĩa không chuyên nghiệp chỉ mới xuất hiện vào khoảng đầu thế kỷ
XX – mà tài tử ở đây ý muốn nói là : "tài" = tài
nghệ, tài giỏi, tài năng,… và "tử" = con trai (ám chỉ người) ; "tài tử" = người có tài.
Để trở thành vai trò một nghệ sĩ
gồm soạn giả, ca sĩ và nhạc công trong ý nghĩa xác thực nhất của từ này, họ
phải học và thực hành, cũng như
quá trình trải nghiệm.
Như hương thơm và nét đẹp gợi cảm của loại hoa mộc lan (magnolia) hoặc cô gái
xuân thì, Đàn Ca Tài Tử được khắp mọi giới ưa chuộng rồi
lan tỏa khắp miền nam nước ta lúc bấy giờ như đã đề cập ở trên.
Vào đầu thế kỷ XX, Đàn Ca
Tài Tử càng lớn mạnh hơn
bao giờ và chính lúc này, nghệ sĩ cũng như khán thính giả tiếp nhận kiến thức
và nghệ thuật mới về trình tấu, nên từ Đàn Ca Tài Tử đã thêm
thắt các kỹ năng và nhạc cụ… để sáng tạo bộ môn Cải Lương, rồi Tân Cổ Giao
Duyên (1930)… Nói rõ hơn, bộ môn Cải
Lương sau này bắt nguồn từ thể loại Đàn Ca Tài Tử mà ra, và tất cả lại phát
xuất từ Nhã Nhạc Cung Đình Huế – đó là điều đáng ca ngợi vì con
người luôn có óc sáng tạo chứ không
chịu dậm chân tại chỗ nhất là trong nghệ thuật nói chung, âm nhạc nói riêng.
KHÁC BIỆT GIỮA ĐÀN CA TÀI TỬ VÀ
CẢI LƯƠNG
Quả thật, nếu không chú ý và
không biết rõ nguồn gốc, chúng ta thường
nhầm lẫn 2 thể loại này và thường gọi chung là Cải Lương.
Hãy đi tìm sự khác biệt giữa Đàn
Ca Tài Tử và Cải Lương :
Đàn Ca Tài Tử vốn được xem là thú
vui tao nhã cho mọi giới mọi lứa tuổi mỗi khi có dịp gặp nhau. Nhưng không vì thế mà thể loại này thiếu đi quy định sáng tác và
trình tấu theo khuôn khổ của nó. Nghĩa là nó có bài bản và không thể tùy tiện
hay lẫn lộn với các thể loại khác.
Sự khác biệt giữa hai thể loại
này là Đàn Ca Tài Tử có thể diễn xuất phóng túng cá nhân nhiều hơn, hoặc phóng tác các tích truyện, các tác phẩm phổ thông lúc bấy giờ
nhưng phải dựa theo khung bài bản cố định, trong khi Cải Lương biểu diễn phải
có tuồng, có vai, và có sự chỉ đạo/đạo diễn trong khuôn khổ và thường thì diễn
ra trên sân khấu.
Một điều hết sức quan trọng theo
truyền thống của thể loại Đàn Ca Tài Tử chính gốc tiêu biểu cho 4 làn điệu tạo
những cảm xúc và sắc thái khác nhau, gồm hơi Nam (3 bài bản chính) diễn tả sự thanh thoát, an bình… ;
hơi Bắc (6 bài) diễn tả sự trong
sáng, vui tươi… ; hơi Oán (4 bài) diễn tả nỗi buồn, sầu não,
chia ly… ; và hơi Lễ còn gọi
là Hạ (7 bài) mang tính lễ nghi, có tính trang
trọng, uy nghi… Tất cả được gọi chung là 20 bài bản tổ. Nhưng do hội nhập vào Cải Lương, nên đàn ca tài tử thường bị lẫn lộn và nhiều
khi khó nhận diện. Do đó, sự phân biệt 2 bộ môn này thường mang tính lý luận
hơn là phân tích.
Sau gần hai thế kỷ ra đời của Đàn
Ca Tài Tử, năm 1918, với tính sáng tạo, nhạc sĩ Cao Văn Lầu (còn gọi Sáu Lầu)
cho ra đời bài Dạ Cổ Hoài Lang. Có người hỏi "Dạ Cổ
Hoài Lang" nghĩa là gì ? Đây là tiếng Hán được tác giả và giới
nghệ sĩ xác định ý nghĩa theo tiếng Ta là"Nghe tiếng trống đêm nhớ
chồng".
Mới đầu bài này chỉ có 20 câu
nhịp 2. Với tinh thần sáng tạo, cải tiến dần : năm 1924 tăng lên nhịp 4, sau đó
tăng lên nhịp 8, nhịp 16… ; để đến nay, sau một thế kỷ (1918-2018), bài Dạ
Cổ Hoài Lang đã có nhịp 36, được gọi chung là bài Vọng Cổ hay và đầy
đủ nhất để ngự trị trong làng Cải Lương.
Như vậy, và để xác định, Đàn Ca Tài Tử đã có trước thể loại Cải Lương ít nhất cả một thế kỷ. Một điều cũng nên chú ý trong
thời gian 1,000 năm đô hộ giặc Tàu, với bản chất tham lam trong máu, họ muốn
cai trị thế giới, muốn xóa sổ mọi văn hóa và lịch sử của các quốc gia mà họ xâm
chiếm, rồi Hán hóa nền văn minh và văn hóa những quốc gia đó mà hôm nay chúng
ta và cả thế giới đã thấy rõ mưu
toan côn đồ đó. Thế nên mới có các thể loại Hát Bội, Hồ Quảng xâm nhập văn hóa
người Việt Nam để xóa sổ hay đồng hóa loại Đàn Ca Tài Tử của dân tộc ta.
Cũng có thể là mục đích và chủ trương thay đổi chữ Quốc Ngữrất quái đản của phó tiến sĩ nào đó cách đây không lâu. Có phải đây là sự sáng tạo
hay là âm mưu đen tối Hán
hóa ?!?
TIẾNG HÁT NÍU KÉO BẢN SẮC VỌNG TỪ
MIỀN XA
Tôi có dịp quen biết nghệ sĩ Trúc
Tiên sau khi khám phá chất giọng đa dạng diễn xuất thể loại Đàn Ca Tài Tử này.
Mỗi khi thưởng thức, tôi cảm thấy lòng
mình chùng xuống với nỗi buồn xen lẫn niềm vui rất khó diễn tả. Có lẽ chúng ta
đã có kinh nghiệm nghe qua giọng hát của ca sĩ Hoàng Oanh, giọng ca rất hay và
ngọt ngào đã khiến ta vương vấn hoài
cái nỗi buồn man mác. Giọng ca của Trúc Tiên cũng thế. Điểm đặc biệt nổi bật
nơi người nghệ sĩ tài hoa này là luôn "bơi ngược dòng".
Vì trong khi chúng ta đang hướng tới những công nghệ tối tân trước mặt, những
thể loại âm thanh mới loáng thoáng bên tai thì Trúc Tiên lại dẫn dắt người nghe lui về quá khứ.
Tôi vốn là một người luôn trân quý những
thể loại âm nhạc và nghệ thuật tạo nên bản sắc của Dân Tộc, chính điều này làm
tôi chú ý và ra công tìm hiểu người
nghệ sĩ cổ nhạc hiếm hoi hiện đang định cư tại Paris sau khi nghe qua những tác
phẩm của cô ấy.
Ngược dòng ở đây không có nghĩa là người nghệ sĩ này thụt lùi về thời sơ khai "ăn lông ở lỗ", mà là sự
níu kéo, gìn giữ, duy trì và phát huy những cái đẹp trong nghệ
thuật và âm nhạc mà cha ông đã để lại. Có lẽ chúng ta đang dần quên đi những
giá trị nghệ thuật của nhân gian, trong khi người ngoại quốc lại trân quý vô
vàn. Chính vì thế, những điệu Đàn Ca Tài Tử đã được Unesco công
nhận là gia tài phi vật thể của nhân loại (năm 2014).
Tôi nhận được 2 bài về thể loại
này, điều đặc biệt là lời ca chính là tâm tình của một tín hữu ngoan đạo. Người
nghệ sĩ thì luôn săn tìm chất liệu để dựng tác phẩm ; chất liệu đó có thể là
một câu chuyện, một cuộc tình, hay những thăng trầm, buồn vui của cuộc đời…,
hay đôi khi là hư cấu. Trong khi đó Trúc Tiên
không tìm đâu xa, mà chính trong Phúc Âm qua dụ ngôn Đứa
Con Hoang Đàng, cũng có thể gọi dụ ngônNgười Cha Nhân Hậu để
đưa vào thể loại Đàn Ca Tài Tử, hay tâm tình đạo đức của một tín
đồ ngoan đạo : tôn thờ Thiên Chúa, kính yêu Đức Mẹ và Giáo Hội.
LUYẾN TIẾC VÀ XÓT XA
Tôi có đặt câu hỏi liên quan đến
thể loại âm nhạc cổ xưa này và xin lắng nghe tâm sự của người nghệ sĩ sau đây :
« Thưa anh, thường thì cái gì nghe quen thì thích. Cả gần
trăm năm nay có ai hát những điệu này nữa đâu mà có người thích (…) Thương là thương gia tài của ông bà mình để
lại không còn người giữ gìn ; vì
lẽ không biết từ đâu mà sau này nảy sinh quan niệm "hát những điệu này là
quê mùa, là lỗi thời, lạc hậu…", nên bây giờ Đàn Ca Tài Tử bất đắc dĩ trở
thành thể loại… kén người
nghe.»
Hãy nghe nghệ sĩ Trúc Tiên ngậm
ngùi chia xẻ tiếp :
« Khi về Miền Tây, đôi lúc bùi
ngùi nghe các nghệ sĩ đàn hát cho du khách thưởng thức, nhưng lại không nguyên vẹn và biến thể. Ngay cả cái tên Đàn Ca
Tài Tử cũng tàn lụi dần, còn mấy ai biết là gì, may
lắm thì có người ngộ là vọng
cổ (!) Ở các Câu Lạc Bộ thì gọi "Cải Lương Đàn Ca Tài Tử" hay tệ hơn nữa là "Cải Lương Tài Tử" (!)
Chính họ cũng không còn biết ranh giới giữa hai thể nhạc
…»
CÂU CHUYÊN PHÚC ÂM
Tôi gửi lời khen ngợi đến nghệ sĩ
Trúc Tiên vì đã có tâm, có tầm, cũng như
sáng kiến đưa Lời Chúa vào thể loại âm nhạc Đàn Ca Tài Tử, điều mà
từ trước tới nay chưa ai nghĩ tới huống chi là thực hiện.
Ngoài bài Đứa Con Hoang
Đàng, còn có bài Xin Mẹ Nhận Con. Đây là tâm tình và ý nghĩa
cho những ai đang khao khát tình Mẹ. Hãy cùng lắng nghe chia xẻ nguồn cảm hứng
thánh thiện của Trúc Tiên khi sáng tác ca khúc này :
« Trúc Tiên viết lời bài Xin Mẹ Nhận Con nhân một lần về lại Mỹ Tho. Trước cổng nhà thờ Chánh Toà, Trúc Tiên thấy đứa bé gái lem luốc lối chừng
10-12 tuổi đang e dè ngó vào nhà thờ lúc hành lễ. Trời mưa lâm râm mà
thấy em đầu trần đã ướt sũng, Trúc
Tiên mới hỏi tại sao em không vào nhà thờ đi lễ như mọi người và cũng để đụt
mưa, thì em nói là em không có đạo nên không dám vô. Trúc
Tiên ngạc nhiên vì vừa rồi, rõ ràng vừa rồi Trúc Tiên nghe em đọc kinh
Kính Mừng cơ ? Trúc Tiên mới nắm tay em kéo vào nhà thờ và nói "Mẹ thương hết mọi người em ạ !". Chỉ thế thôi nhưng không hiểu sao hôm
đó Trúc Tiên vui lắm và thương cảm tràn ngập để viết lời bài hát này, và như
thế mỗi khi nghĩ đến Mẹ Maria.»
Vâng, vì mỗi khi ta làm được một
việc thiện, việc bác ái hay giúp đỡ một ai, thì lòng mình thấy thanh thản lạ
lùng ! Tôi không bỏ lỡ cơ
hội để tìm hiểu thêm "thân thế và sự nghiệp" cũng như sự đóng góp việc phục vụ Nhà Chúa không mệt mỏi của người nữ nghệ sĩ.
TRÒ CHUYỆN ĐÔI ĐIỀU…
Tôi gọi Trúc Tiên là "Nghệ
Sĩ" là đúng và có nguyên do chứ không phải tùy tiện và theo thiển kiến cá
nhân.
Ngoài vai trò Ca Sĩ và Soạn
Giả thể loại Đàn Ca Tài Tử như đã trình
bày, cô còn là một Họa Sĩ có nhiều bức tranh giá trị. Tranh
của cô đã được triển lãm, bày bán gây quỹ từ thiện tại Paris và rất được trầm
trồ, ưa chuộng. Các ban tổ chức các hội đoàn Pháp cũng như Việt Nam thường tìm đến xin tranh của cô để bán đấu giá mỗi khi có dịp
quyên góp cho việc bác ái.
Không những lấy nguồn cảm hứng từ
Phúc Âm cho Đàn Ca Tài Tử, cô còn phổ cả vọng cổ vào thơ như bài Chút Duyên Thừa (tập thơThương Ngàn Thương)
của thi sĩ Cung Chi tức linh mục Giu-se Đinh Đồng Thượng Sách. Những nhạc sĩ đã từng
phổ nhạc lên thi phẩm đều biết. Khi phổ nếu giữ trọn vẹn lời bài thơ, không thay đổi, thêm bớt thì khó dường nào ! Càng khó hơn khi âm hưởng đã có sẵn như vọng cổ, thế mà Trúc Tiên đã thực hiện được điều này
một cách toàn vẹn.
Được biết Trúc Tiên sang Pháp từ
năm mới 10 tuổi. Thế mà văn tài không chịu kém ai, cô có nhiều tùy bút, kí sự,
truyện ngắn… đăng trên các báo Việt Ngữ. Viết lời nhạc phẩm, viết văn… thì
gọi Văn Sĩ là đúng lắm.
Hãy nghe Trúc Tiên nhận định thế
này về mình :
« Trúc Tiên qua Pháp khi còn nhỏ
nên gần gũi với văn chương Pháp hơn. Đọc một quyển sách tiếng Pháp Trúc Tiên dễ
cảm nhận hơn, thấu đáo hơn – cũng giống như
tranh của Trúc Tiên mang mảng màu sắc Âu Tây hơn là Á Đông – nhiều khi đọc sách
tiếng Việt, có đoạn phải đọc tới đọc lui đôi ba bận để hiểu rõ từ
ngữ mà nắm bắt ý tưởng
của tác giả. Trúc Tiên cần học hỏi thêm nhiều nữa…»
Đọc lời những bài ca, những bài
viết bằng tiếng Việt của cô, những vở kịch cô dàn dựng và có khi thủ diễn, nếu
không biết trước, tôi không nghĩ cô ấy rời đất
mẹ từ thuở nhỏ như thế ! Cũng xin nói thêm : cô cũng viết cho các báo Pháp Ngữ
như Made in Fan, Euro Story Daily… và có khoảng thời gian làm hướng dẫn viên
cũng như góp phần soạn thảo chương trình cho viện bảo tàng
Louvre của Paris… Qua Pháp từ nhỏ, chịu khó học hành rồi đỗ đạt, thông thạo
tiếng Pháp là lẽ đương nhiên.
Những ai đã từng tham dự những chương trình văn nghệ Đàn Ca Tài Tử, hay ra mắt CD của Trúc
Tiên đều nghe và cảm nhận cô ấy trình bày về đề tài này, cũng như thấy cô linh hoạt, lưu loát trong vài trò MC - dẫn dắt các chương trình văn nghệ tạp lục của Giáo Xứ Việt Nam Paris và của
những hội đoàn khác tổ chức. Tươi
thắm, duyên dáng, hóm hỉnh linh động và mời gọi mỗi khi cô cầm microphone.
Lại gọi Trúc Tiên, người con gái nhỏ nhắn này là Thi Sĩ cũng không ngoa. Vì rằng
cô còn làm thơ nữa, ví dụ bài thơ Người
Đã Đến, qua dòng nhạc âm hưởng Thánh Ca của nhạc sĩ Vũ Hạ, gieo rắc lòng tin yêu bằng những
câu giản dị nhưng chân tình như : "Người đã đến gieo bình an cho
hạt nẩy mầm / Người đã đến
ban tình yêu dạt dào nồng thăm / Tình Yêu ấy như mùa xuân sum họp vui vầy… / … Tạ ơn Chúa đoái thương nhân loại / Cùng Hội
Thánh con tuyên xưng niềm tin yêu…"
Về khả năng làm thơ. Xin hãy đọc
thêm bài thơ Cắt Tóc của
Trúc Tiên để thấy sự diễn
đạt của người thi sĩ này :
Hôm
nay giận sợi tóc ngông
Đâm
ngang chĩa dọc, ở không bày trò
Sợi
dài sợ ngắn, nhỏ to
Nghênh
ngang dưới gáy giằng co trên đầu
Sợi
rỗng sợi đặc sợi sâu
Ghen
tuông ganh ghét vè câu ân tình
Sợi
đen sợi trắng nhục vinh
Cứng
hơn dây thép nhọn hình lưỡi lê
Sợi
cắt tình nghĩa phu thê
Sợi
tìm ảo vọng đam mê đui mù
Cắt
cho hết mấy sợi ngu
Ngày
mai trời sáng vi vu nhẹ đầu...
Thế nên, thay vì gọi
Thi-Văn-Họa-Ca Sĩ thì đầy đủ nhưng dài quá, chúng ta không trân trọng và tưởng thưởng cho cô một tên gọi tóm gọn là "Nghệ Sĩ" thì gọi
gì bây giờ?
Nhưng khi tôi hỏi để xác định, thì cô khiêm tốn trả lời
bằng giọng rất hồn nhiên : « Gọi là ca sĩ Đàn Ca Tài Tử đi, vì Trúc
Tiên ao ước quảng bá, cổ
động bộ môn nghệ thuật này của cha ông để lại.»
Không dừng lại ý kiên định nhưng
thật lòng và khiêm tốn, cô ước
mong :
"Gọi gì cũng được, miễn là làm thơ, vẽ tranh, hay ca hát đi nữa thì mục đích chánh của Trúc
Tiên là làm sao giữ gìn văn hóa Việt Nam mình dù tha hương. Ví dụ như dạy tiếng Việt cho các em được sinh ra ở nước ngoài để các
em có thể nói chuyện hay viết thư cho ông bà mình,
dạy các em giáo lý bằng tiếng Việt và các bài Phúc Âm sẽ dễ nhớ hơn nếu các em biết hát nhất là hát những điệu nhạc cổ truyền của ông bà mình để
lại thì càng hay. Một điều hiển nhiên là thế hệ các bác các anh chị đã và sẽ để
lại cho chúng em rất nhiều những tác phẩm quý báu, nếu thế hệ chúng em sau này
không còn biết thưởng
thức và tiếp nối vun đắp “tài sản” các anh chị để lại thì tiếc
quá. Cũng như hiện tại Trúc
Tiên cố gắng “níu kéo” gia tài Đàn Ca Tài Tử mà Ông Cha mình để
lại, qua những bài Phúc âm".
HƯỚNG ĐẾN NGÀY MAI…
Tôi thầm nghĩ : những nhạc phẩm
Đàn Ca Tài Tử như bài Đứa Con Hoang Đàng, hay bài Xin Mẹ Nhận Con và
những bài khác nữa do Trúc Tiên viết hôm nay không những giúp gìn giữ
nét nhạc cổ mà còn là trau dồi tiếng mẹ đẻ và còn là nhận thức niềm tin Công
Giáo trong xã hội chao đảo hôm nay và trong thân phận ly hương của chúng ta.
Tôi cầu chúc Trúc Tiên – Nghệ Sĩ
tài hoa vất vả lội ngược dòng –
thêm nghị lực và niềm tin, cùng ý chí bền vững để không những gìn giữ, duy trì
mà còn phát huy thể loại Đàn Ca Tài Tử này.
Đính kèm dưới đây là link 2
bài hát Đứa
Con Hoang Đàng và Xin
Mẹ Nhận Con :
Đứa Con Hoang Đàng – Nam Ai – Trúc
Tiên par Vũ Hạ | Écoute gratuite sur SoundCloud
Trân
trọng,
Văn
Duy Tùng
Bài viết khác
Âm Nhạc Công Giáo trong Văn Hóa Việt Nam - Gs Lê Đình Thông
Vidéo : NGÀY VĂN HÓA THƯ VIỆN GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS - Chúa Nhật 07/04/2024
Thư mời Ngày Văn Hóa Thư Viện Giáo Xứ VN Paris 07-04-2024
The Chosen : Đấng được chọn - Công Bình
Rogations, nghi thức Cầu Mùa đang được hồi sinh tại giáo xứ Moissac - Công Bình
Chúc Thọ & Chúc Thêm - Cung Chi
Vâng Phục Qua Giấc Mơ - Anê Thùy Dung
Nhìn và Ngắm - Nguyễn Đăng Quế
Mùa Chay 2023 : Mùa Cháy – Mùa Chạy – Mùa Chảy - Lm Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Đức Thánh Cha Phanxicô và chuyến công du đầu năm 2023 - Công Bình
Chuyện Yếu Đuối - Trầm Thiên Thu
Suối nước chữa lành - Sr. Maria Thúy Nga, FMA
Đôi lời tri ân độc giả Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris - Giang Minh Đức
Vè Tết Quý Mão - Anna Trương Thị Lâm Sang