LINH ĐẠO
TÌNH YÊU VỢ CHỒNG
“Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa,
Ăn ở theo đường lối của Người
Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng,
Bạn quả là lắm phúc nhiều may.
Hiền thê bạn trong cửa trong nhà
Khác nào cây nho đầy hoa trái;
Và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn,
xúm xít tại bàn ăn.
Đó chính là phúc lộc Chúa dành cho kẻ kính sợ Người.
Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc.
Ước chi trong suốt cả cuộc đời
Bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh,
được sống lâu bên đàn con cháu.
Nguyện chúc Israel vui hưởng thái bình!” (Tv 128,1-6).
ài ca này cho thấy bên trong ngôi nhà có người chồng và người
vợ đang ngồi tại bàn ăn, con cái quây quần bên họ như “những cây ô-liu mơn mởn”
(Tv 128,3), tức là tràn đầy sinh lực. Nếu cha mẹ như là nền móng của ngôi nhà,
thì con cái như là “những viên đá sống động” của gia đình1. Đó là nền tảng của gia đình, một bí quyết của hạnh phúc, một
linh đạo của tình yêu vợ chồng và của gia đình. Linh đạo này có gốc là Niềm Vui
Tình Yêu vợ chồng và có ngọn là Niềm Vui Tình Yêu gia đình. Sợi dây nối kết hai
niềm vui này là việc dạy bảo con cái của cha mẹ về và bằng tình yêu ; và việc học
tập của con cái về và bằng tình yêu, một tình yêu tinh khiết, hoàn hảo, an bình
và vui vẻ, được biểu lộ và nhận diện bằng niềm vui, niềm vui của tình yêu. Niềm vui của Tình yêu vợ chồng đã được biểu lộ một cách công
khai qua nghi thức hôn phối. Nghi thức này nhắc nhớ và đòi buộc hai bạn đời những
gì khi chính thức tuyên bố và nguyện hứa yêu nhau ? Những điều tuyên bố và nguyện
hứa yêu nhau nào ? Những lời tuyên bố và nguyện hứa yêu nhau đã tạo thành một
linh đạo tình yêu nào ? Ý thức rằng tình yêu là một phương pháp giáo dục con cái rất
hiệu năng và xác tín rằng tình yêu là một lý lẽ, là một cùng đích, thậm chí là một
bản chất của đời sống, mời bạn đọc nhìn lại nghi thức hôn phối, rồi phân tích để
nhận ra những đặc tính thiết yếu của tình yêu vợ chồng, trước khi đi đến một tổng
hợp trong « linh đạo tình yêu vợ chồng ». 1. Nghi thức Hôn Phối : Phần Bí Tích 2 Hai người làm chứng tiến lên hai bên "cô dâu chú rể"
(cùng đứng trước vị linh mục chủ sự). Linh mục chủ sự hỏi: - Anh chị thân mến, anh chị đưa nhau tới đây, để trước mặt
người đại diện Hội Thánh, cũng như toàn thể cộng đoàn, mối tình của anh chị được
công nhận và mặc lấy một giá trị thiêng liêng, được ơn trên làm cho trở nên cao
đẹp vững bền. Nhờ vậy, anh chị có thể vẹn nghĩa thủy chung và đảm nhận những
trách nhiệm khác của cuộc đời đôi bạn. Bởi đó, trước mặt Hội Thánh, tôi xin hỏi
anh chị: - Anh T và chị T, anh chị sắp kết hôn với nhau, anh chị có thật
sự tự do, hay là bị ép buộc? * Thưa thật sự tự do.
(cô dâu và chú rể lần lượt trả lời) - Một khi đã thành
hôn, anh chị có sẵn sàng yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời không? * Thưa sẵn sàng. (cô dâu và chú rể lần lượt trả
lời) (Có thể bỏ câu hỏi sau đây, nếu thấy không thích hợp, thí dụ:
trường hợp hai người đã quá tuổi). - Anh chị có sẵn sàng
âu yếm đón nhận con cái Chúa ban, và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và Hội
Thánh không? * Thưa sẵn sàng. (cô
dâu và chú rể lần lượt trả lời) Lời ưng thuận Chủ sự mời cô dâu chú rể nói lên sự ưng thuận: Anh chị đã ưng thuận kết hôn với nhau, thì giờ đây, trước mặt
Thiên Chúa và Hội Thánh, anh chị hãy cầm tay nhau và nói lên sự ưng thuận ấy. Cô dâu và chủ rể nắm tay phải của nhau. Chú rể nói: * Anh là T, nhận em T làm vợ, và hứa giữ lòng chung thủy với
em, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, để
yêu thương và tôn trọng em suốt đời anh. Cô dâu nói: * Em là T, nhận anh T làm chồng, và hứa giữ lòng chung thủy với
anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe,
để yêu thương và tôn trọng anh suốt đời em. Sau khi nghe đôi bên nói lên sự ưng thuận, chủ sự nói: Trước mặt Hội Thánh, anh chị vừa nói lên sự ưng thuận kết hôn
với nhau. Xin Chúa thương xác nhận lời ưng thuận ấy, và xin Người tuôn đổ hồng
phúc trên anh chị. Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly. * Thưa: Amen Qua nghi thức của Bí Tích Hôn Phối mà ta vừa xem qua trên
đây, đâu là những ý nghĩa căn bản có thể đưa ra một « Linh Đạo Tình Yêu Vợ Chồng
» ? Thưa có 3 ý nghĩa căn bản ; và rõ rệt đã được ĐGH Phanxicô liệt kê vào những
yếu tố nền tảng của « Linh Đạo Tình Yêu Vợ Chồng » mà Ngài vừa đề xuất trong
thông điệp Niềm Vui của Tình Yêu 3. 2. Tình yêu vợ chồng là
tình yêu nhận vị bình đẳng và tự do Tình yêu vợ chồng được công khai cử hành qua bí tích hôn nhân
là tình yêu giữa người nam và người nữ, cả hai đều là những nhân vị, hoàn toàn
bình đẳng. Nhân vị con người, theo giảng dậy của giáo hội trong hiến chế
mục vụ Vui Mừng và Hy Vọng, có cái gì khác với con vật. Đó là nó có trí khôn,
có lý tính, có nhân vị. Con người, nam hay nữ, đều đã được tạo dựng theo hình ảnh
của Chúa. Đó là lời kinh thánh “Và Thiên Chúa đã phán: "Ta hãy làm ra người
theo hình ảnh Ta, như họa ảnh của Ta. Chúng hãy trị trên cá biển và chim trời,
và trên súc vật và mọi loài mãnh thú và mọi thứ côn trùng nhung nhúc trên đất.
Và Thiên Chúa đã dựng nên người theo hình ảnh mình. Theo hình ảnh của Thiên
Chúa Người đã dựng nên nó. Là nam là nữ, Người đã dựng nên chúng. (Gn 1,
26-27). Vì con ngưới là nhân vị, có trí khôn, nên trong thái cử yêu
thương, nó không chỉ tuân theo những thúc đẩy của xác thịt hay những áp đặt của
văn hóa. Nhưng nơi con người còn có một cái gì khác nữa, mà ta gọi là tự do. Có
những hành động tự do, con người chọn lựa, quyết định, dấn thân, và tạo nên cá
vị của mình. Tình yêu hôn nhân do đó, là một tình yêu tự do, có suy nghĩ, có chọn
lựa, có quyết định, có dấn thân. Giống hình ảnh Chúa, con người không chỉ bình đẳng với nhau,
cũng không chỉ có trí khôn, có tự do, nhưng còn là một hữu thể liên hệ mà chỉ
được hoàn thiện khi có một hiện hữu hiệp thông. Tự do của con người là tự do
cho người khác, cho tha nhân. Sống không phải chỉ cho mình, vì mình, nhưng còn
là cho tha nhân. Mà sống cho tha nhân là hiệp thông với họ. Mà không có sự hiệp
thông nào chân thành, đích thực hơn là sự hiệp thông giữa những con người tự do
dấn thân cho nhau, tự do trao tặng cho nhau, dâng hiến cho nhau. Chính vì vậy
mà sự dâng hiến và sự hiệp thông, cùng với sự tự do, là biểu hiện bản chất nhân
vị của hữu thể con người. Tình yêu hôn nhân do đó, còn là tình yêu vị tha, hiệp
thông, chia sẻ, đối thoại. Tóm lại, có thân xác
và có tinh thần, tình yêu hôn nhân của con người có những thúc đẩy của thân
xác, những thèm muốn của tiềm thức và những bức xúc của xã hội ; Nhưng cũng có
suy nghĩ, chọn lựa, quyết định, tự do, dấn thân, chung thủy, hiệp thông và dâng
hiến. Tình yêu hôn nhân không là một định mệnh mà là một huyền nhiệm sâu thẳm
trong nhân vị con người, từ đó trào ra tự do và phát sinh tình yêu đích thực.
Đó là tình yêu hôn nhân, vợ chồng.
Tình yêu vợ chồng có một « Linh đạo của tình yêu tự do và độc
hữu » Trong thông điệp « Niềm vui của Tình yêu »4, mới
viết ngày 19.03.2016, ĐGH Phanxicô đã xác quyết rằng « Trong hôn nhân người ta
còn sống cảm thức hoàn toàn chỉ thuộc về một người duy nhất. Vợ chồng đảm nhận
thách đố này và ước nguyện cùng nhau sống cho đến mãn đời, và như thế họ phản
ánh lòng trung tín của Thiên Chúa. Xác quyết ấy, vốn định hình một lối sống, là
một “đòi hỏi thâm sâu của giao ước tình yêu vợ chồng”5, bởi lẽ “người
nào không nhất quyết yêu thương mãi mãi thì khó có thể yêu thật lòng dù chỉ một
ngày”6. Thế nhưng, điều đó có lẽ chẳng có ý nghĩa gì về mặt thiêng
liêng, nếu nó chỉ đơn thuần là vấn đề tuân giữ luật với thái độ cam chịu. Đây
là chuyện của con tim, nơi chỉ có Thiên Chúa nhìn thấu (cf. Mt 5,28). Mỗi sáng
khi thức dậy, chúng ta hãy lặp lại trước mặt Chúa quyết định trung tín này của
mình, cho dù có điều gì sẽ xảy ra trong ngày. Và mỗi người, khi đi ngủ, lại
mong đợi đến lúc thức dậy để tiếp tục cuộc phiêu lưu này, nhờ tín thác vào sự
giúp đỡ của Chúa. Như thế, giữa vợ chồng, người này đối với người kia sẽ là một
dấu chỉ và khí cụ của sự gần gũi của Chúa, Đấng không bao giờ để chúng ta đơn độc:
“Này đây, Thầy ở với anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28,20).
Sẽ đến một lúc mà tình yêu vợ chồng đạt tới đỉnh cao của sự tự
do và trở thành một không gian độc lập lành mạnh: khi đó người này khám phá ra
người kia không thuộc về riêng mình, mà có một chủ nhân quan trọng hơn rất nhiều,
đó là Chúa duy nhất của người ấy. Không ai có thể tham vọng chiếm được nơi thầm
kín riêng tư và bí mật nhất của người mình yêu và chỉ có Chúa mới là trung tâm
điểm của cuộc sống người ấy. Đồng thời, nguyên tắc duy thực luận thiêng liêng
yêu cầu người này đừng đòi người kia phải hoàn toàn thỏa mãn các nhu cầu của
mình. Hành trình tâm linh của mỗi người – như Dietrich Bonhoeffer đã diễn tả rất
hay – cần giúp mình đạt được sự “vỡ mộng” nào đó liên quan tới người kia7,
để ngừng kì vọng từ người kia một điều gì đó vốn chỉ thuộc về tình yêu Thiên
Chúa mà thôi. Điều này đòi hỏi một sự tự hủy nội tâm. Không gian riêng mà mỗi
người dành cho tương quan cá vị với Thiên Chúa không chỉ giúp chữa lành các
thương tích của đời sống chung, mà còn giúp người ấy tìm ra ý nghĩa cuộc đời
mình trong tình yêu của Thiên Chúa. Chúng ta cần khẩn cầu sự trợ giúp của Chúa
Thánh Thần mỗi ngày để có thể đạt được sự tự do nội tâm này ».
3. Tình yêu vợ chồng là
tình yêu giao ước Sự hiệp thông tào khang hôn nhân nối kết hai người nam và nữ
lại với nhau, vừa khác nhau, vừa bình đẳng với nhau. Sự nối kết này không tạo
thành một hợp chất làm biến mất những cá tính riêng của mỗi người. Nhưng là một
giao ước, mà vì tình yêu, vợ và chồng, mỗi người vẫn phát triển và xác định
nhân cách của mình. Là một giao ước, tình yêu hôn nhân vợ chồng bao hàm những
chọn lựa và từ bỏ, hầu cùng thực hiện tốt hơn mà sống vì và cho bạn mình và
cùng xây dựng một lứa đôi, một nhà, một gia đình. Giao ước hôn nhân, theo mạc khải của thánh kinh, không phải
là một giao ước suông mà người ta có thể hủy bỏ khi không được thỏa mãn. Giao ước
hôn nhân lấy nguồn và lấy mẫu từ sự nối kết giữa Đức Kytô và Giáo Hội, là một
giao ước mới, trong đó, cả hai vợ chồng đều là những người ký kết và chứng tá.
Lới thưa « Tôi bằng lòng » mà hai người vợ chồng đã hứa với nhau trong ngày cưới
là giống như lời « Xin vâng ý Cha » mà Chúa Kytô đã nói với Giáo Hội, một lời
xin vâng cương quyết và không thể thay đổi. Qua Chúa Kytô, hiện ra tính chất của tình yêu mà hai vợ chồng
công giáo phải vác trên vai. Chúng ta nhấn mạnh đến chữ vác trên vai, phải chịu
đựng lẫn nhau. Nói như vậy để chúng ta thấy rõ hơn cố gắng hằng ngày mà chúng
ta cần có và ơn Chúa mà ta cần được để đương đầu với những ảo tưởng, nghịch cảnh
của cuộc sống.
Cuộc sống hằng ngày cho ta nghe và thấy những cạm bẫy của
tình yêu, ích kỷ, vụ lợi, cãi cọ, bất đồng, ly thân, ly dị. Trước những cảnh
này, ta mới thấy giáo huấn của Giáo hội đòi tình yêu hôn nhân phải một vợ một
chồng và bất khả ly, là một tin mừng. Giáo hội vạch cho thấy tình yêu là có thể,
một tình yêu chung thủy suốt đời, một giao ước làm đôi bên thỏa lòng vì mỗi bên
đều trước nhất tìm làm vừa lòng bạn mình hơn là cho mình. Chúng ta không chối rằng
con đường tình yêu là con đường có nhiều đòi hỏi, có nhiều khó khăn. Nhưng biết
rằng có thể có tình yêu chung thủy và bền vững, há đó chẳng phải là một tin mừng
sao ? Tình yêu vợ chồng đi theo một linh đạo « Hiệp thông siêu
nhiên và Họp nhau cùng cầu nguyện trong ánh sáng Phục sinh8. Chúng ta vẫn thường nói Thiên Chúa cư ngụ trong tâm hồn những
ai sống trong ơn sủng của Ngài. Ngày nay chúng ta cũng có thể nói Chúa Ba Ngôi
hiện diện trong đền thờ của mối hiệp thông hôn nhân. Như Thiên Chúa ở trong những
lời tán tụng của dân Ngài (cf. Tv 22,4) thế nào, thì Ngài cũng sống thâm sâu trong
tình yêu vợ chồng đang tôn vinh Ngài thế ấy.
Sự hiện diện của Chúa trong gia đình là sự hiện diện thực tế
và cụ thể, cùng với mọi khổ đau, chiến đấu, niềm vui và những cố gắng hằng ngày
của nó. Khi sống trong gia đình, chúng ta không thể mang một bộ mặt nạ vì khó
mà giả vờ hay nói dối. Nếu như tình yêu linh hoạt sự chân thực ấy, thì đúng là
Chúa đang ngự trị ở đó, bằng niềm vui và sự bình an của Người. Linh đạo tình
yêu gia đình được cấu thành từ hàng ngàn cử chỉ thực tế và cụ thể. Trong tình
hiệp thông được xây dựng từ bao nhiêu là dâng hiến và gặp gỡ, Thiên Chúa có chỗ
ngự trị của Ngài. Sự dâng hiến cho nhau đó kết hợp “những giá trị nhân văn và
thần linh”9, vì nó là sự tròn đầy của tình yêu Thiên Chúa. Cuối
cùng, linh đạo hôn nhân là một linh đạo của mối dây ràng buộc, trong đó tình
yêu Thiên Chúa cư ngụ.
Sống tốt đẹp tình hiệp thông gia đình là một hành trình đích
thực để nên thánh trong đời sống hằng ngày và để được lớn lên trong kinh nghiệm
thần bí, một phương thế để kết hợp thâm sâu với Thiên Chúa. Quả thật những đòi
hỏi của đời sống huynh đệ và cộng đoàn trong gia đình là một cơ hội để người ta
không ngừng mở lòng ra hơn nữa, và nhờ đó có thể gặp gỡ Chúa ngày càng trọn vẹn
hơn. Lời Chúa nói với chúng ta rằng “ai ghét anh em mình thì ở trong bóng tối,
và kẻ ấy bước đi trong bóng tối” (1 Ga 2,11); người ấy “ở lại trong sự chết” (1
Ga 3,14) và “không biết Thiên Chúa” (1 Ga 4,8). Vị tiền nhiệm của tôi, Đức
Bênêđictô XVI, đã nói rằng “nhắm mắt trước tha nhân cũng sẽ làm ta đui mù trước
Thiên Chúa”10, và tình yêu xét cho cùng là ánh sáng duy nhất “luôn
luôn soi chiếu một thế giới tối tăm”11. Chỉ cần chúng ta “yêu thương
nhau, thì Thiên Chúa ở trong chúng ta và tình yêu của Ngài sẽ nên hoàn hảo nơi
chúng ta” (1 Ga 4,12). Vì “nhân vị đã sẵn có một chiều kích xã hội trong cấu
trúc tự nhiên của nó”12, và “biểu hiệu đầu tiên và nguyên thủy của
chiều kích xã hội ấy của nhân vị là đôi vợ chồng và gia đình”13, nên
linh đạo nhập thể trong mối hiệp thông gia đình. Vì thế, những ai có niềm khao
khát tâm linh sâu xa không nên nghĩ rằng gia đình tách biệt sự khát khao tâm
linh khỏi đời sống trưởng thành trong Thánh Thần, nhưng hãy xem đó như một lối
đường mà Chúa đang dùng để dẫn mình tới những tầm cao của sự nhiệm hiệp.
Nếu gia đình luôn qui hướng về Đức Kitô, Người sẽ hiệp nhất
và soi sáng toàn thể đời sống của gia đình. Những khổ đau và những vấn đề của
gia đình trải nghiệm trong sự thông hiệp với Thập Giá của Chúa, và được Người
ôm lấy sẽ giúp gia đình chịu đựng được những thời khắc tồi tệ. Trong những ngày
giờ cay đắng của gia đình, việc kết hợp với Đức Giêsu bị bỏ rơi có thể giúp
tránh được sự đổ vỡ. Các gia đình dần dần, “đạt đến sự thánh thiện của mình qua
đời sống hôn nhân, bằng ân sủng của Thánh Thần và bằng việc tham dự vào mầu nhiệm
thập giá Đức Kitô, nhờ đó những khó khăn và đau khổ chuyển hóa thành một hiến lễ
tình yêu”14. Mặt khác, những khoảnh khắc của niềm vui, thư giãn hay
những dịp lễ mừng, và ngay cả tình dục cũng được xem như một sự tham dự vào sự
viên mãn của Đấng Phục Sinh. Bằng những cử chỉ khác nhau trong đời sống hằng
ngày, các đôi vợ chồng tạo nên một “không gian đối thần, trong đó họ có thể cảm
nghiệm sự hiện diện bí nhiệm của Chúa phục sinh”15.
Cầu nguyện trong gia đình là một phương thế ưu việt để diễn tả
và củng cố đức tin phục sinh16. Gia đình có thể dành vài phút mỗi
ngày để qui tụ với nhau trước Thiên Chúa hằng sống, nói với Ngài những về những
lo lắng bận tâm, cầu xin với Ngài cho những nhu cầu của gia đình, cho một ai đó
đang gặp khó khăn, xin Ngài trợ giúp ta biết sống yêu thương, tạ ơn Ngài về cuộc
sống và về bao ơn lành khác, cầu xin Đức Trinh Nữ che chở chúng ta dưới tà áo Mẹ.
Với những lời đơn sơ như thế, giờ cầu nguyện này có thể đem lại điều tốt lành lớn
lao cho gia đình. Những diễn tả khác nhau của lòng đạo đức bình dân là một kho
tàng linh đạo cho nhiều gia đình. Hành trình cầu nguyện chung của gia đình đạt
tới đỉnh điểm trong việc tham dự Thánh lễ, nhất là trong khung cảnh ngày nghỉ lễ
Chúa Nhật. Đức Giêsu gõ cửa các gia đình chia sẻ với họ bữa tiệc Thánh Thể (cf.
Kh 3,20). Ở đó, vợ chồng luôn luôn có thể kí kết lại giao ước Vượt Qua vốn là
giao ước đã kết hợp họ và phản ảnh Giao ước mà Thiên Chúa đã kí kết với nhân loại
trên thập giá17. Thánh Thể là bí tích của Giao Ước Mới, trong đó
công trình cứu chuộc của Đức Kitô được thực hiện (cf. Lc 22,20). Như thế mối
liên kết sâu xa giữa đời sống hôn nhân và Thánh Thể càng trở nên càng rõ nét
hơn18. Lương thực Thánh Thể là sức mạnh và động lực cần thiết cho
đôi vợ chồng để sống hôn ước mỗi ngày như một “Hội thánh tại gia”19. 4. Tình yêu vợ chồng là
tình yêu con người toàn diện Hiến Chế Mục Vụ Vui Mừng và Hy Vọng (49, 1) xác định rằng «
Tình yêu hôn nhân vợ chồng bao gồm hạnh phúc của con người toàn diện., có xác,
có hồn ; với những khía cạnh : sinh lý
cơ thể, cảm xúc tình cảm, suy tính lý trí, cương quyết ý chí, tâm tình con tim;
và những chiều hướng thời gian và xã hội. Trước nhất ở lãnh vực các khía cạnh, mà khía cạnh đầu tiên là
sinh lý cơ thể. Tình yêu hôn nhân vơ chồng là tình yêu duy nhất bao gồm khía cạnh
tính dục. Giáo Hội chấp nhận và dậy rằng khía cạnh tình dục sẽ đạt đầy giá trị
nhân bản và luân lý nếu nó được hội nhập theo một cam kết tình yêu. Nó là một sự
dâng hiến hỗ tương mà đôi vợ chồng ban tặng cho nhau. Nói là hội nhập, vì tình
yêu vợ chồng có bao gồm tình dục. Nhưng tình dục suông thì không phải là tình
yêu vợ chồng. Hội nhập còn hàm ý hội nhập, tốt hay xấu, vào liên hệ giữu người
với người.
Nhưng con người còn có cảm xúc của tình cảm. Cảm xúc của tình
yêu thì muôn mặt : khám phá, dò dẫm, thẹn thùng, ngất ngây, đam mê, điêu đứng,
đau khổ. Nhưng mặt nào thì tình yêu cũng là hạnh phúc. Đo đó để được hạnh phúc
phải có tình yêu. Tình yêu đã trở thành thần thánh của thời đại này. Chỉ cưới
khi yêu. Và khi không yêu nữa thì phải ly thân, ly dị ! Công Đồng Vatican II đã xác định rõ rằng : Hôn nhân là một hiệp
thông thân mật cho suốt đời và trong tình yêu. Bởi vậy, vợ chồng cần lưu tâm
làm sao cải tiến liên tục và suốt đời liên lạc tình yêu và hiệp thông tình yêu
để làm đẹp lòng bạn mình hơn, ngay từ trong những việc nhỏ, những dáng cử và
ngôn từ hằng ngày.
Dưới khía cạnh lý trí và ý chí, ngày nay ít người còn cưới vợ
gả chồng vì tính toán lời lỗ của lý trí nữa. Nhưng nhiều người lại dùng lý trí
để tính toán thử nghiệm hay huỷ bỏ. Cam kết suốt đời thực là khó. Bởi vậy, muốn
chắc có được hay không, nên sống thử trước. Thực ra tình yêu vơ chồng không phải
là việc thử, việc có được hay không. Nhưng tình yêu vợ chồng là một quyết định
chung của vợ chồng để xây dựng một nối kết, một gia đình, để cùng nhau đương đầu
với những khó khăn có thể xuất hiện trên đường đời. Tình yêu vợ chồng là một ý
muốn làm tốt cho bạn mình, làm vừa lòng bạn mình. Nghĩa là chia vui, sẻ buồn, sống
với, sống cùng, chấp nhận bạn như bạn là, chứ không phải như mình muốn bạn là,
không chèn ép, hiếp đáp, lấn át, nhưng tiếp tay, hỗ trợ, lắng nghe, nâng đỡ,
không làm phiền lòng, cũng không dạy luân lý. Cưới là nhận một bạn đời. Để làm
được những điều trên, ta cần phải vận dụng đến thông minh cụa lý trí và sức mạnh
của ý chí. Mà nét độc đáo nhất là chữ nhẫn, chữ tha thứ, chữ nhịn nhục, và cả
vâng lời làm theo ý bạn nữa. Khía cạnh sau nữa là tâm tình của con tim. Trong túp lều
tranh, hai trái tim vàng. Hai trái tim vàng là hai trái tim đập nhịp tôn trọng
nhau và tìm hiểu, khám phá nhau thêm mỗi ngày, để thấy những sâu thẳm của con
tim bạn mình, mà tôn trọng và quý mến hơn, hầu yêu thương hơn. Còn về hai chiều hướng quan trọng trong tình yêu vợ chồng,
thì ai cũng biết rằng đó là chiều hướng thời gian và chiều hướng xã hội, là
tình yêu chung một đời và mở ra với xã hội. Chiều hướng thời gian, trong tình yêu vợ chồng, đi về hai hướng
quá khứ và tương lai. Bạn ta là vợ hay chồng, hôm nay ta biết và yêu đã có một
quá khứ. Cưới bạn là nhận quá khứ của bạn. Để cùng nhau viết ra một lịch sử
chung, xây dựng một cuộc đời chung. Làm vợ làm chồng với nhau không phải là ngừng
lại một chỗ, một thời, một nơi, nhưng là cùng nhau tiến về tương lai, tìm ra đường
đi những khi mịt mù. Cưới nhau là tay đan tay trong tình yêu để tìm hiểu nhau mỗi
ngày mà cùng xây dựng, cùng phục vụ và bổ khuyết cho nhau, chứ không phải ngồi
đó mà chờ đợi được phục vụ hoặc soi bói tìm cái xấu để chỉ trích. Tình yêu vợ
chồng không phải là hướng về những hối tiếc quá khứ, nhưng là một tình yêu tích
cực mở ra về tương lai. Mà cái tương lai vui mừng nhất là sinh con. Sinh con là
tiếp nối đời sống, là sống một « kinh nghiệm làm người ». Vui mừng nhưng bận rộn
hơn nhiều, khó khăn hơn nhiều. Nhưng qua việc sinh con và dậy con, tình yêu hôn
nhân đã biến vợ chồng thành những người tiếp tay với tình yêu tạo dựng của
Thiên Chúa. Chiều hướng xã hội là mạng lưới liên hệ xã hội. Khi yêu mà
chưa ai biết, ta yêu một mình. Nhưng tình yêu chín mùi dần, ta dần dà khám phá
ra gia dình, anh em, bố mẹ, họ hàng,… rồi bạn bè, đồng nghiệp,…của bạn. Rồi
ngày cưới, ta sẻ gia nhập vào gia đình của bạn. Sự gia nhập này không phải không
có khó khăn. Không thể bắt buộc vợ chồng đi đâu cũng phải có nhau. Đời sống xã
hội của mỗi người có những lúc người bạn không thể dự cùng được. Không có một
luật chung nào. Vợ chồng phải tự tìm ra cách dung hòa quân bình cho đời sống
gia đình. Nhưng không chỉ có mạng lưới gia đình. Vì gia đình chỉ là một thành
phần của xã hội. Tình yêu gia đình khi đạt mức trưởng thành sẽ khám phá ra mạng
lưới xã hội, bao phủ chung quanh gia đình : xã hội tôn giáo, xã hội hành chánh,
xã hội nghề nghiệp, xã hội làng xóm,…Nội việc cử hành lễ nghi hôn nhân, ta đã
thấy mạng lưới xã hội tôn giáo, là cha sở, là giáo hội, là các giáo dân khác, …
và mạng lưới hành chánh với đại diện xã, làng, hội, nhóm,…Một đôi tân hôn, một
gia đình dù muốn dù không đều là thành phần của xã hội to nhỏ, Và phải mở ra với
xã hội và thế giới bao quanh nó thì mới hội nhập và phát triển bền vững được. Sống
cho vợ chồng mình, con cái mình, gia đình mình. Nhưng không quên xã hội và giáo
hội, theo dõi những biến chuyển để thích ứng, những nhu cầu để đáp ứng và những
thời cơ để hội nhập. Vậy, tình yêu vợ chồng của một con người toàn diện là gì ? Nó
là một dâng hiến về thân xác, một hiệp thông về tình cảm, một tha thứ chịu đựng
theo lý trí, một hòa thuận theo ý chí và một tâm tình kính yêu của con tim. Theo
dòng thời gian, nó chấp nhận quá khứ của bạn đời, để cùng xây dựng một cuộc đời
chung và mở ra với tương lai qua sự sinh sản con cái và giáo dục chúng. Nhập
vào mạng lưới xã hội, trước nhất nó nhập vào mạng lưới gia đình của bạn đời và
nhập vào mạng lưới Giáo Hội và Xã hội bao quanh, để thích ứng, đáp ứng và phát
triển. Tình yêu vợ chồng đi theo một linh đạo « chăm sóc, an ủi,
khích lệ và mở ra» 20. “Các đôi vợ chồng Kitô
hữu là những cộng tác viên của ân sủng và là những chứng nhân đức tin cho nhau,
cho con cái và cho các thành viên khác trong gia đình”21. Thiên Chúa
mời gọi họ thông truyền và chăm sóc sự sống. Đó là lí do tại sao gia đình “bao
giờ cũng là ‘bệnh viện’ gần nhất”22. Chúng ta hãy chăm sóc nhau,
nâng đỡ nhau và khích lệ nhau, đồng thời hãy sống tất cả những điều này như
thành phần linh đạo gia đình của chúng ta. Đời sống của vợ chồng là một sự
thông dự vào công trình sáng tạo của Thiên Chúa, và mỗi người – đối với người
kia – là một sự gợi ý thường xuyên từ Chúa Thánh Thần. Tình yêu của Thiên Chúa
được diễn tả “qua những ngôn từ sống động và cụ thể nhờ đó hai người nam và người
nữ diễn tả tình yêu phu phụ của mình”23. Như thế hai người phản ánh
cho nhau tình yêu thần linh, tình yêu có sức an ủi bằng lời nói, ánh nhìn, bằng
sự giúp đỡ, vuốt ve, một vòng tay ôm ấp. Do đó, “ý muốn xây dựng một gia đình
là can đảm tham gia vào giấc mơ của Thiên Chúa, dám ước mơ với Ngài, dám xây dựng
với Ngài, dám nhập cuộc chơi với Ngài trong lịch sử này, để xây dựng một thế giới
trong đó không ai cảm thấy cô đơn”24.
Toàn bộ đời sống gia đình là một “mục vụ” với lòng thương
xót. Mỗi chúng ta, bằng sự chăm sóc, đều khắc họa vào cuộc đời của người khác :
“Thư giới thiệu chúng tôi chính là anh em, thư ấy được viết trong tâm hồn chúng
tôi […] không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống”
(2 Cr 3,2-3). Mỗi chúng ta là một “ngư phủ chài lưới người” (Lc 5,10), nhân
danh Đức Giêsu thả lưới (cf. Lc 5,5) kéo những người khác, hay là một nông dân
canh tác mảnh đất tươi tốt đó là những người thân, bằng việc khích lệ những gì
tốt nhất trong họ. Sự phong nhiêu của đời sống hôn nhân bao hàm việc thăng tiến
người khác, vì “yêu ai là mong đợi nơi người ấy một cái gì đó bất định mà cũng
bất ngờ; đồng thời một cách nào đó, tạo điều kiện cho họ đáp lại sự mong đợi
này”25. Đây là một cách thờ phượng Thiên Chúa, vì Ngài đã gieo rất
nhiều điều tốt lành nơi người khác với hi vọng chúng ta sẽ làm cho nó triển nở.
Chiêm ngắm từng người thân trong gia đình bằng đôi mắt của Thiên
Chúa và nhận ra Đức Kitô nơi họ là một kinh nghiệm tâm linh sâu xa. Điều này
đòi hỏi một sự sẵn sàng đáp ứng cách vô cầu giúp ta quí trọng phẩm giá của họ.
Người ta chỉ có thể hiện diện trọn vẹn với một người nếu biết hiến thân không
vì một lí do nào và quên đi mọi chuyện xảy ra xung quanh. Như thế người được
yêu thương là người xứng đáng được quan tâm đầy đủ. Đức Giêsu là mẫu gương về
điều này, bởi vì khi bất cứ người nào đến nói chuyện với Người, Người đều chăm
chú nhìn và đem lòng yêu thương (cf. Mc 10,21). Không ai cảm thấy bị mất hút
khi hiện diện cùng Người, vì những lời nói và cử chỉ của Người thể hiện trong
câu hỏi này: “Bạn muốn tôi làm gì cho bạn?” (Mc 10,51). Đây là điều chúng ta
kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày của gia đình. Trong đó chúng ta được nhắc
nhở rằng mỗi người sống bên ta đều xứng đáng được ta lưu tâm cách tận tình, vì
họ có phẩm giá vô hạn vì là đối tượng của tình yêu vô biên của Chúa Cha. Từ đó
sẽ nảy sinh sự dịu dàng vốn có thể “khơi lên trong lòng người khác niềm vui cảm
thấy mình được yêu thương. Sự dịu dàng được diễn tả một cách đặc biệt trong việc
quan tâm cách tinh tế trước những hạn chế của người khác, nhất là khi chúng hiển
lộ rõ ràng”26.
Được Chúa Thánh Thần thúc đẩy, gia đình không chỉ đón nhận sự
sống bằng cách sinh sản trong phạm vi gia đình, nhưng còn mở ra, đi ra khỏi
chính mình để tuôn ban những thiện ích của mình cho người khác và để quan tâm
chăm sóc họ và tìm kiếm hạnh phúc cho họ. Sự cởi mở này được thể hiện đặc biệt
nơi lòng hiếu khách27, như Lời Chúa khơi gợi và khích lệ: “Anh em đừng
quên tỏ lòng hiếu khách, vì nhờ vậy, có những người đã được tiếp đón các thiên
thần mà không biết” (Dt 13,2). Một khi gia đình rộng mở đón tiếp và đi đến gặp
gỡ những người khác, nhất là người nghèo và người bị bỏ rơi, thì đó là “biểu hiệu,
chứng từ và là sự tham dự vào thiên chức làm mẹ của Hội thánh”28.
Bác ái xã hội, một phản ảnh về Thiên Chúa Ba Ngôi, trong thực tế là điều hiệp
nhất ý nghĩa thiêng liêng của gia đình và sứ mạng ra khỏi chính mình, vì nó làm
cho lời rao giảng tiên khởi (kerygma) hiện diện với tất cả những đòi hỏi mang
tính cộng đồng. Gia đình sống linh đạo đặc thù của mình nhờ, cùng lúc, vừa là một
Hội thánh tại gia, vừa là một tế bào sống động để biến đổi thế giới29.
Đọc lại « Nghi thức Hôn Phối, phần nghi thức Bí Tích », chúng
ta đã nhận ra 3 lời công bố và 1 lời nguyện hứa quan trọng mà mỗi người đã công
khai nói ra trước sự chứng giám của gia đình, họ hàng và bạn bè đôi bên để công
khai tình yêu vợ chồng của mình. 1. Lời công bố thật
sự tự do kết hôn 2. Lời công bố sẵn
sàng yêu thương và tôn trọng nhau suốt đời 3. Lời công bố sẵn
sàng âu yếm đón nhận con cái Chúa ban, và giáo dục chúng theo luật Chúa Kitô và
Hội Thánh 4. Lời nguyện hứa
: Anh là T, nhận em T làm vợ, và hứa giữ lòng chung thủy với em, khi thịnh vượng
cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn
trọng em suốt đời anh. 5. Lời nguyện hứa
: Em là T, nhận anh T làm chồng, và hứa giữ lòng chung thủy với anh, khi thịnh
vượng cũng như lúc gian nan, khi ốm đau cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương
và tôn trọng anh suốt đời em. Những lời công bố và nguyện hứa này rõ rệt chứa đựng một số
những đặc tính thiết yếu của tình yêu vợ chồng : 1. Một tình yêu
nhân vị, bình đẳng và tự do 2. Một tình yêu
giao ước 3. Một tình yêu
con người toàn diện Gom góp và tổng hợp những tính chất thiết yếu này của tình
yêu vợ chồng lại, rồi tóm kết thành những nguyên tắc ứng xử sống hằng ngày
trong đời sống cụ thể, là thiết kế được một linh đạo công giáo hôm nay về tình
yêu vợ chồng. Linh đạo này, theo Đức Giáo Hoàng đương kim Phanxicô30,
gồm những nguyên tắc chính yếu sau đây : 1. Một linh đạo của
tình yêu tự do và độc hữu31. 2. Một linh đạo của
tình yêu hợp thông siêu nhiên, và họp nhau cùng cầu nguyện trong ánh sáng phục
sinh 32. 3. Một linh đạo của
tình yêu chăm sóc, an ủi khích lệ và mở ra33. Giữa bài ca dao bình dân việt nam và bài thánh vịnh 128, 1-6
; giữa « Một quan niệm binh dân cổ truyền việt nam về tình yêu vợ chồng » và «
Một linh đạo công giáo hôm nay về tình yêu vợ chồng », có những khác biệt về
ngôn ngữ, về hình ảnh, về cách diễn đạt. Nhưng về nội dung rõ rệt có những điểm
chung, đồng thuận căn bản và nền tảng.
Văn hóa tình yêu vợ chồng là nơi hội tụ của lương tri bình dân cổ truyền
việt nam và linh đạo công giáo hôm nay : một tình yêu tào khang chung thủy, hoà
hợp, một tình yêu xây dựng gia đình bền vững và phong nhiêu đón nhận con cái và
giáo dục chúng. Việc giáo dục con cái phải là sự cộng tác thống nhất của cha
mẹ về đường hướng và nội dung giáo dục ; hướng về con người toàn diện, có nội
dung huấn luyện đạo đức cho chúng, truyền thông đức tin cho chúng ; có uốn nắn,
đào tạo, theo dõi, sửa phạt, thẩm lượng ; có kích hoạt, khuyến khích, bày vẽ,
chỉ dậy cách học tập. Nhưng trong việc giáo dục con cái ở gia đình, quan trọng nhất
là cha mẹ phải ý thức và thiết lập được một « Đời sống gia đình như một khung cảnh
giáo dục ». Đó là ý nghĩa của lời chia sẻ của ĐGH Phanxicô rằng : « Gia đình là
trường học đầu tiên dạy các giá trị nhân bản, nơi đây người ta học biết sử dụng
tự do một cách tốt đẹp. Có những xu hướng đã được hình thành chín chắn trong thời
thơ ấu bám rễ sâu trong con người và chúng vẫn còn tồn tại suốt cuộc đời, như một
cảm xúc thuận lợi đối với một giá trị, hoặc như một sự chối bỏ tự phát những lối
cư xử nhất định. Nhiều người hành động trong cả cuộc sống theo một cung cách nhất
định nào đó vì họ xem như vậy là đáng giá, cái cung cách hành động như đã thấm
sâu và trở thành con người của họ từ thời thơ ấu: “Tôi đã được dạy như thế”;
“Đó là những gì tôi đã học” » 34. Paris, ngày Lễ Các Thánh Tử Đạo Việt Nam 13.12.2016 Trần Văn Cảnh
__________________ [1] ĐGH Phanxicô ;
Tông huấn « Niềm vui của tình yêu » vừa được công bố ngày 19.03.2016, số 14 [2]
http://giaoxuvnparis.org/bai-viet/335-cu-hanh-bi-tich-h0n-ph0i.html [3] PHANXICÔ “Niềm vui của Tình Yêu” ngày 19/03/2016, số 314-325
[4] PHANXICÔ “Niềm vui của Tình Yêu” ngày 19/03/2016, số
319-320 [5] FC, 11: AAS 74 (1982), 93. [6] Gioan Phaolô II, Bài giảng trong Thánh Lễ với Các Gia
Đình, Cordoba, Argentina (8.4.1987), 4: Insegnamenti X/1 (1987), 1161-1162. [7] Cf. Dietrich Bonhoeffer, Gemeinsames Leben, Munich, 1973,
tr. 18. [8] Phanxicô ; Niềm vui của Tình Yêu, số 314-318 [9] GS, 49. [10] DCE, 16: AAS 98 (2006), 230. [11] Ibid., 250. [12] Gioan Phaolô II, Th. Christifideles Laici (30.12.1988),
40: AAS 81 (1989), 468. [13] Ibid. [14] RF 2015, 87. [15] Gioan Phaolô II, Th. Vita Consecrata (25.3.1996), 42:
AAS 88 (1996), 416. [16] CF. RF 2015, 87. [17] FC, 57: AAS 74 (1982), 150. [18] Chúng ta cũng không được quên rằng giao ước của Thiên
Chúa với dân Ngài được diễn tả như một sự đính hôn (Cf. Ed 16,8. 60; Is 62,5;
Hs 2,21-22), và giao ước mới cũng được trình bày như một hôn ước (Cf. Kh 19,7;
21,2; Ep 5,25). [19] CĐ Vatican II, HCh. Tín lí về Giáo hội Lumen Gentium,
11. [20] Phanxicô ; Niềm vui của Tình Yêu ; s ố 321-325 [21] CĐ Vatican II, Sl. Apostolicam Actuositatem về Tông đồ
Giáo dân, 11. [22] HG (10.6.2015): L’Osservatore Romano, 11.6.2015, tr. 8. [23] FC, 12: AAS 74 (1982), 93. [24] Diễn từ tại buổi Canh Thức Đại Hội Các Gia Đình,
Philadelphia (26.9.2015): L’Osservatore Romano, 28-29.9.2015, tr. 6. [25] Gabriel Marcel, Homo Viator: prolégomènes à une
métaphysique de l’espérance, Paris, 1944, tr. 66. Anh ngữ: Homo Viator. Dẫn nhập
vào một Siêu hình học về Hi Vọng, London, 1951, tr. 49. [26] RF 2015, 88. [27] Cf. FC, 44: AAS 74 (1982), 136. [28] Cf. Ibid., 49: AAS 74 (1982), 141. [29] Về những khía cạnh xã hội của gia đình, Cf. HĐTT VỀ CÔNG
LÝ VÀ HÒA BÌNH, Tóm lược Học Thuyết Xã hội của Giáo hội Công Giáo, 248-254. [30] PHANXICO, Niềm vui của tình yêu, chương IX, số 314-325 [31] Ibid, số 319-320 [32] Ibid, số 314-318 [33] Ibid, số 321-325 [34] Ibid, chương VII ; Củng cố việc giáo dục con cái, số 274 |
Bài viết khác
Âm Nhạc Công Giáo trong Văn Hóa Việt Nam - Gs Lê Đình Thông
Vidéo : NGÀY VĂN HÓA THƯ VIỆN GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS - Chúa Nhật 07/04/2024
Thư mời Ngày Văn Hóa Thư Viện Giáo Xứ VN Paris 07-04-2024
The Chosen : Đấng được chọn - Công Bình
Rogations, nghi thức Cầu Mùa đang được hồi sinh tại giáo xứ Moissac - Công Bình
Chúc Thọ & Chúc Thêm - Cung Chi
Vâng Phục Qua Giấc Mơ - Anê Thùy Dung
Nhìn và Ngắm - Nguyễn Đăng Quế
Mùa Chay 2023 : Mùa Cháy – Mùa Chạy – Mùa Chảy - Lm Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Đức Thánh Cha Phanxicô và chuyến công du đầu năm 2023 - Công Bình
Chuyện Yếu Đuối - Trầm Thiên Thu
Suối nước chữa lành - Sr. Maria Thúy Nga, FMA
Đôi lời tri ân độc giả Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris - Giang Minh Đức
Vè Tết Quý Mão - Anna Trương Thị Lâm Sang