Tôn Phong 10 Chân phước lên
bậc Hiển Thánh
S |
áng nay, chúa nhật 15/05/2022, lúc 10giờ sáng tại Quảng trường Thánh Phêrô (Vatican), Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã chủ tế Thánh lễ tuyên phong cho mười vị chân phước của giáo hội Công giáo lên bậc hiển Thánh, trong đó có 3 vị là người Pháp : Marie Rivier, César de Bus và Charles de Foucauld.
Năm vị là người Ý: linh mục Luigi
Maria Palazzolo và Giustino Maria Russolillo, các nữ tu người Ý Maria Domenica
Mantovani và Maria di Gesù Santocanale và Maria Francesca Rubatto, người Ý gốc
Uruguay, người trở thành vị thánh đầu tiên của Uruguay.
Hai người khác là linh mục và nhà báo người Hà Lan Titus Brandsma, được biết đến với bài báo chống lại sự tuyên truyền của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế giới thứ hai, và Devasahayam (Lazare) Pillai (1712-1752), một người Hindu chuyển sang Công giáo, tử đạo, là giáo dân đầu tiên người Ấn Độ thành Thánh.
Xin được ghi lại chân dung của ba vị "Tân" Thánh của giáo hội Pháp này :
* * *
1. Marie
Rivier (1768-1838) : Đấng sáng lập Dòng nữ ‘‘Đức Mẹ Dâng Mình’’
Marie Rivier sinh ngày 19 tháng 12 năm 1768 tại một ngôi làng nhỏ Montpezat-sous-Bauzon. Khi vừa được 16 tháng tuổi, cô bé Marie Rivier đã bị ngã từ trên 1 chiếc giường tầng xuống, bị thương ở hông và cổ chân nên không thể đi lại được nữa. Mẹ cô là người rất ngoan đạo đã cầu nguyện với Đức Mẹ Nhân từ ở Montpezat-sous-Bauzon để mong cô được chữa khỏi, và điều này đã xảy ra 4 năm sau đó.
Mỗi buổi sáng, cô bé Marie Rivier
được dẫn đến dạo chơi trước tượng Đức Mẹ sầu bi, và tại đây cô đã thì thầm cầu
nguyện cùng Đức Mẹ trong vòng 4 năm. Cô Marinette (theo cách gọi của người
thân) hứa với Mẹ : ‘‘Nếu Mẹ chữa bệnh cho con, con sẽ đưa các trẻ về đây, dạy học
và khuyến khích họ yêu thương Mẹ nhiều hơn’’. Và theo cách suy diễn của một đứa
trẻ, Marie Rivier nói thêm : ‘‘Còn không, con sẽ giận Mẹ luôn’’.
Sau khi bình phục hoàn toàn, cô
đã ao ước thực hiện được lời hứa đó.
Lớn lên, với ước nguyện được phục
vụ tha nhân, Marie Rivier xin gia nhập vào dòng Đức Mẹ vùng Pradelles nơi cô
đang theo học Trung học. Tuy nhiên, vì vết thương xưa nên sự phát triển của cơ
thể cô vẫn bị tổn hại, chiều cao của cô chỉ dừng lại ở mức 1m32. Và chính vì điều
này, cộng thêm sức khoẻ không được tốt lắm nên cô đã bị từ chối vào nhà tập của
Dòng.
Sau trung học, ở tuổi mười tám,
Marie Rivier, quyết tâm với chí hướng từ nhỏ của mình, trở về mở một trường học
ở Montpezat-sous-Bauzon, nguyên quán mình. Cô luôn tin chắc rằng giáo dục Công
giáo là cách tốt nhất để truyền giáo cho những người trẻ và hữu hiệu hoá việc
hoà giải mọi người. Tại đây cô cũng chăm sóc lo cho các bà mẹ và những cô gái
trẻ bị bỏ rơi, không nghề nghiệp, điều khiển các cuộc họp khi không có linh mục.
Cách mạng Pháp bùng nổ và khủng bố
bách hại Đạo tràn lan, bất kỳ nghi thức tôn giáo nào cũng bị xỉa xói, nghi ngờ.
Trong khi tất cả các dòng tu bị đóng cửa hay ngừng hoạt động, ai lại có can đảm
đứng ra thành lập một trường học và dòng tu trong lúc này. Khi được hỏi ý kiến,
cha linh hướng, một người rất nổi bật trong giáo phận Viviers (Ardèche) bấy giờ
còn cho là lố bịch và liều lĩnh quá mức. Nhưng Marie Rivier, lúc đó chỉ mới 28
tuổi, đã đứng lên, kêu gọi được một số cộng sự và lập nên một trường dòng của
mình tại Thueyts.
Vào ngày 21 tháng 11 năm 1796,
ngày lễ Đức Mẹ Dâng Mình trong Đền thờ, Marie Rivier và bốn người bạn đồng hành
đầu tiên đã khấn trọn đời dâng mình cho Chúa. Năm năm sau, năm 1801, với sự chấp
thuận của Giám mục Vienna, Dòng các Nữ tu
‘‘Đức Mẹ Dâng Mình’’ ra đời và chỉ
vài năm sau, Dòng đã mở ra thêm được 46 trường dòng mới trên các giáo phận.
Đối với Mẹ bề trên Marie Rivier và nữ tu của dòng, việc giáo dục Công giáo cho những người trẻ đang và sẽ vẫn là ưu tiên hàng đầu. Tuy nhiên, việc giáo dục đức tin ngày nay cũng đã mở rộng ra cho người lớn. Những người nghèo vẫn được nhiều đặc ân hơn. Cô nhi viện đầu tiên mở cửa vào ngày 21 tháng 11 năm 1814. Và ngay cả khi các chị em sống trong cảnh nghèo khó, thì việc chào đón những người nghèo nhất vẫn là điều thiêng liêng, ưu tiên hàng đầu.
Đấng sáng lập dòng đã lạc quan và
có một cái nhìn xa hơn : “Một ngày nào đó, các nữ tu của dòng sẽ vượt qua luôn
biển cả”. Dự đoán này đã trở thành sự thật vào năm 1853 khi các Sơ của dòng vượt
biển Đại tây dương, đặt chân đến đất
Canada. Sau đó, vào năm 1873, cơ sở đầu tiên ở Hoa Kỳ được thành lập tại Glens
Falls, New York, Mỹ.
Ngày nay, các Nữ tu của dòng Đức
Mẹ Dâng Mình phục vụ tại mười chín quốc gia trên thế giới. Nhà mẹ ở
Bourg-Saint-Andéol (Pháp), và nhà chung ở Castel Gandolfo gần Roma (Ý).
Mẹ Marie Rivier mất ngày 3 tháng
2 năm 1838, trực tiếp thành lập 149 trường
dòng và từ bàn tay mình, đã đón nhận hơn 350 nữ tu để tiếp nối công việc. Được
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II phong chân phước tại Rôma ngày 23 tháng 5
năm 1982.
Ngày 13 tháng 12 năm 2021, sau
khi có một phép lạ được công nhận. Phép màu được cho là nhờ sự chuyển cầu của
Marie Rivier diễn ra vào năm 2015 tại Philippines liên quan đến việc chữa lành
một đứa trẻ sơ sinh mắc phải chứng “hydrops phôi thai-bào thai tổng quát sớm
không có miễn dịch”
Nhờ đó, Giáo hội đã mở đường cho
việc phong thánh cho Ngài .
2. Cha César
de Bus (1544-1607) : Đấng sáng lập ‘‘Hội Các linh mục theo Học thuyết
Kitô’’
Xuất thân trong một gia đình quý tộc La Mã mà bố là Jean-Baptiste de Bus, thị trưởng của Thành phố và mẹ là Anne de la Marche, nên từ nhỏ Cesar đã được giao cho một gia sư dạy dỗ riêng. Lớn lên, anh theo học ngành nhân văn ở Cavaillon và với các cha Dòng Tên ở Avignon. Mặc dù tuổi còn trẻ, anh đã được nhận vào ‘‘Hội Anh em của những người đền tội da màu’’, và anh trở thành chủ tịch sau đó.
Năm 1563, anh gia nhập quân đội hoàng gia, để bảo vệ đạo Công giáo mà anh quan niệm cuộc chiến này như một cuộc Thập tự chinh. Thất vọng trước sự thờ ơ của những người lính Công giáo với đức tin, anh đã cố gắng làm gương thông qua cuộc sống của mình.
Năm 1565, anh trai là Alexandre, trưởng đội cận vệ của vua Pháp Charles IX, đã mời anh vào triều và phong cho anh một chức vụ cao. Sự giàu có, danh dự và cuộc sống phóng khoáng dần dần khiến anh ta không còn lòng sùng đạo.
Thất vọng với triều đình vì những điều hứa được trao những trách nhiệm nổi bật hơn mà anh không bao giờ nhận được, anh rời bỏ kinh thành vào năm 1570 và chuyển đến Avignon, nơi anh sống một cuộc sống ngày càng trụy lạc hơn.
Năm 1573, cha và anh trai qua đời cách nhau vài tháng. Sự kiện này khiến anh suy nghĩ và lo lắng, nên anh trở về sống ở Cavaillon. Tại đây, anh thường xuyên gặp một cô bạn Antoinette Reveillarde, để nói chuyện và trao đổi về đức tin Công giáo. Một buổi tối năm 1574, Antoinette Reveillarde đuổi anh ra khỏi nhà và nói : “Bạn không có quyền chế nhạo Chúa. Chúa đã gọi bạn mà bạn không biết lắng nghe. Chúa tiếp tục tìm kiếm bạn mà bạn vẫn luôn trốn tránh chạy trốn’’. Trên đường về nhà, César de Bus bị vấp ngã và bất tỉnh, trong cơn mơ màng, anh nghe tiếng Chúa nói : '' César, con định đóng đinh ta nữa sao ? '' và khi tỉnh dậy, như thánh Phaolô, cha quyết định sống hoàn toàn cho Chúa.
César bắt đầu trở lại cuộc sống Kitô hữu từ đây. Năm 1575, anh quyết định tuyên khấn, dâng hết mọi tài sản cho giáo hội và đi phục vụ những người nghèo. Năm 1578, bắt đầu gia nhập chủng viện, chuẩn bị cho thiên chức linh mục.
César de Bus được thụ phong linh mục năm 1582, trở thành cha xứ của Nhà thờ Saint-Véran, cùng lúc trở thành một giáo lý viên say mê giảng dạy “chân lý, đường lên trời”, cống hiến hết mình cho sứ mệnh dạy giáo lý cho những người trẻ và người nghèo và ngài cũng đã dành rất nhiều thời gian ngồi tòa giải tội.
Thời gian này, cha cũng nghiên cứu cuộc đời của Thánh Charles Borromeo, qua đời không lâu trước đó (1584), nên quyết định chọn Thánh Charles Borromeo làm gương sống cho mình.
Nhận thấy sự hiểu biết về tôn giáo ở vùng nông thôn rất hạn hẹp, Cha César de Bus quyết định thành lập một hội gồm các linh mục sẽ dạy giáo lý cho các tầng lớp này. Cha César de Bus xin phép giám mục của mình để đi thuyết giảng ở những ngôi làng xa xôi nhất. Anh họ của cha, Jean-Baptiste Romillon, cũng là một linh mục, cùng đồng hành trong các chuyến đi này. Cả hai giảng dạy đến tận các vùng xa xôi hẻo lánh và thu nhận được một số môn đồ.
Ngày 29 tháng 9 năm 1592, cha César de Bus và năm người bạn đồng hành của mình đã thành lập Hiệp hội các linh mục theo Học thuyết giáo lý Công Giáo ở L'Isle-sur-la-Sorgue, và ảnh hưởng của Hội lan rất nhanh khắp vùng. Dưới sự lãnh đạo của cha, các lớp giáo lý bình dân được nhân lên ở các vùng nông thôn, để làm sống lại đức tin Công giáo nơi dân chúng. César de Bus viết những bài giáo lý nhỏ cho người dân. Các linh mục sẽ dạy những điều cơ bản để tạo dựng cuộc sống Kitô giáo cho trẻ em và những người nghèo nhất. Cha đã tham gia rất nhiều vào công cuộc đổi mới Công giáo ở miền nam nước Pháp, nhờ vào kết quả rút ra từ Công đồng Trent và gương của Thánh Charles Borromeo mà Ngài đã noi theo.
Cha César de Bus là một giáo lý viên gương mẫu, ngài biết quan tâm đến một sự dạy dỗ về đức tin Công giáo được điều chỉnh cho phù hợp với tư duy những người được giảng dạy. Và bởi vì ngài không tách giáo huấn này khỏi sự cầu nguyện, khỏi đời sống bí tích và khỏi sự dấn thân vào đời sống Kitô hữu. Ngài sử dụng ngôn ngữ đơn giản như các bài hát, bài thơ và mô tả các cảnh trong Phúc âm qua hình ảnh mà ngài đã tự vẽ ra. Giáo hội nhìn nhận nơi ngài là một giáo lý viên kiểu mẫu, tiên phong trong cách giảng dạy, ngài nói : Mọi thứ trong chúng ta phải được giáo huấn và hành vi của chúng ta phải làm cho chúng ta trở thành một giáo lý viên sống động ...
Giáo hội đã tiếp tục công việc truyền giáo và dạy giáo lý qua nhiều thế kỷ bất chấp mọi trở ngại. Đặc sủng của nó là thực thi giáo lý Kitô giáo trong cuộc sống cộng đoàn, nghĩa là việc công bố Lời Chúa qua việc dạy giáo lý phải dễ tiếp cận, dễ hiểu và gần gũi với đời sống của từng vùng mà giáo lý đó đang hướng tới.
Năm 1594, Cha César de Bus bị mù nên ngài từ bỏ chức vụ bề trên của mình, nhưng vẫn tiếp tục giải tội và rao giảng mặc dù sức khỏe ngày càng giảm sút.
Cha César de Bus mất vào ngày 15 tháng 4 năm 1607, được chôn cất ở Avignon, thi hài sau đó được chuyển đến Roma, và đặt trong nhà thờ Santa Maria ở Monticelli.
Tìm hiểu về các đức tính
Hồ sơ để được phong chân phước
cho César de Bus bắt đầu vào ngày 18 tháng 1 năm 1686. Sau khi được đệ trình
lên Văn phòng Tòa thánh, cuộc điều tra kinh điển chứng minh sự thánh thiện của
cuộc đời ngài kết thúc vào ngày 8 tháng 12 năm 1821, khi Đức Giáo Hoàng Pius
VII tuyên bố ngài là bậc đáng kính.
Công nhận một điều kỳ diệu
Năm 1911, một nông dân Ý bị bệnh
tim hô hấp phải nhập viện. Anh được chẩn đoán mắc một khối u không thể chữa khỏi.
Người thân của ông đã cầu cứu đến Cha César de Bus, và vào ngày 5 tháng 4 năm
1911, khối u bỗng nhiên hoàn toàn biến mất.
Các điều tra y tế không thể đưa ra những giải thích khoa học biện minh cho việc khỏi bệnh đột ngột và toàn diện này. Vào ngày 4 tháng 10 năm 1974, Đức Giáo Hoàng Paul VI đã công nhận phép lạ qua lời cầu bầu cùng Cha César de Bus là xác thực và ký sắc lệnh phong chân phước cho ngài.
Cha César de Bus được Đức Giáo
Hoàng Phaolô VI phong chân phước long trọng vào ngày 27 tháng 4 năm 1975 tại
Vương cung thánh đường Thánh Phêrô.
Phép lạ thứ hai để được phong lên bậc Hiển Thánh
Năm 2016, một thanh niên ở
Salerno phải nhập viện vì xuất huyết não. Hậu quả được cho là sẽ rất nguy hiểm.
Các cha thuộc hiệp hội các linh mục Học thuyết Kitô dâng lời cầu nguyện cùng
Cha César de Bus. Vài ngày sau, bệnh nhân khỏi đột ngột và khỏi hẳn, không để lại
di chứng.
Ngày 26 tháng 5 năm 2020, Đức
Thánh Cha Phanxicô đã công nhận phép lạ đích thực là nhờ sự chuyển cầu của chân
phước César de Bus, và đã ký sắc lệnh phong thánh cho ngài. Ngài đã được Đức
Thánh Cha Phanxicô long trọng tuyên phong hiển thánh hôm nay ngày 15 tháng 5
năm 2022 tại Roma.
3. Cha Charles de Foucauld (1858-1916)
Bài
viết của thầy Ptvv Phạm Bá Nha
http://giaoxuvnparis.org/chi-tiet/thanh-charles-de-foucauld-1858-1916-ptvv-pham-ba-nha.html
T |
ừ nhiều năm, người ta mong đợi Giáo Hội phong thánh cho Cha Charles de Foucauld. Tin vui đã đến. Ngày 13.11. 2005, Cha được phong Chân Phước, và 15.5 2022, Giáo Hội tôn vinh Ngài lên Hiển Thánh một vị ẩn tu thánh thiện, chết như vị tử đạo, có tinh thần truyền giáo mạnh mẽ, rao giảng Tin Mừng bằng đời sống khó nghèo. Bước theo Thánh mới của Giáo Hội, các anh chị dòng Tiểu Đệ và Tiểu Muội đang lăn xả để tuyên chứng đức tin giữa mọi tầng lớp dân nghèo. Đúng như tôn chỉ của Dòng : Chúa Kitô Là Tình Yêu (Jésus est Caritas).
I. Người thiếu niên nơi quê ngoại (1858-1876).
Charles de Foucauld sinh ngày 15.9.1858, tại Strasbourg, Pháp. Thân phụ là Édouard de Foucauld làm kiểm lâm. Thân mẫu là Élisabeth Beaudet de Morlet, nội trợ. Trong cùng một năm 1864, ông bà thân sinh của Charles đều qua đời. Anh em Charles và Marie mồ côi cha mẹ. Người cô và ông ngoại nhận hai cháu nuôi về chăm sóc, ở Saverne. Những ngày vui bên nhà bà cô, để lại ấn tượng tốt về đời sống gia đình Công Giáo đạo hạnh và kiểu mẫu. Năm 1869, ông ngoại về hưu, nên gia đình di chuyển, sinh sống ở Nancy, Alsace. Ngày 18.4.1872, Charles được xưng tội, rước lễ lần đầu và chịu phép Thêm Sức, ở Nancy. Charles đi học trường tiểu học Công Giáo Saint-Arbogast và học tiếp lên trung học Strasbourg. Ở trường cậu là học sinh lanh lợi, thông minh, ngoan, nhưng sức khỏe yếu nên đôi khi vắng mặt. Ngày 12.8.1874, Charles đậu Tú tài phần nhất, hạng bình thứ (assez bien).
II. Mất Đức Tin, nhập ngũ xây dựng sự nghiệp (1876-1881).
Từ 1874-1876, về Paris, Charles vào học nội trú trường các cha Dòng Tên. Tháng 8.1875, Charles đậu Tú tài phần hai, xuất sắc điểm sử địa, và rất rành rẽ về Algérie. Theo thời khóa biểu của trường, phải dậy từ 4g30, xem lễ, ca hát, đọc kinh, kỷ luật khắt khe, ăn uống sơ xài, không được ra ngoài. Trong trường, người học trò này khép kín và nhạy cảm bắt đầu trống vắng, và để lấp đầy, cậu bắt đầu làm quen với sách vở nhảm nhí. Hậu quả là vào năm thứ nhất triết học, đức tin anh bị lung lay. Rồi dần dần xa Chúa, đến mất luôn đức tin. Anh xác nhận : ‘‘Con cứ xa Chúa và càng ngày càng xa. Sự sống của con bắt đầu trở nên sự chết. Trong 12 năm con sống trong trình trạng đó. Không chối mà không tin Chúa. Vì Ngài không có bằng chứng nào rõ rệt đối với con’’.
Từ đây người thiếu niên trẻ tuổi bị khủng hoảng tinh thần làm anh mất đức tin, nên lao mình vào cuộc ăn chơi trác táng. Không còn lối nào khác, ngày 30.10.1876, Charles thi đậu nhập trường sỹ quan Saint Cyr, mới 18 tuổi. Đối với Anh là quá may, xếp hạng 82 / 112 sinh viên được chọn. Năm 20 tuổi, đang học năm thứ hai trường sỹ quan Saint Cyr, thì ông ngoại qua đời (1878). Anh càng chới với. Biến cố này ảnh hưởng rất mạnh người cháu tài ba.
III. Mạo hiểm ở Algérie và Maroc (1882-1885).
Năm 22 tuổi, năm 1876, Charles tốt nghiệp sỹ quan Saint Cyr, với cấp bậc thiếu úy, và được gửi đi làm việc tại Saumur, Algérie, năm 1882. Năm 1883, Anh mạo hiểm phiêu lưu qua Maroc. Anh muốn chinh phục Maroc, nhưng anh đã bị Maroc chinh phục. Tại Maroc, Anh nhờ người hướng dẫn là Mardochée Abi Serour, sinh viên nghèo. (Charles de Foucauld, JJ Antier. tr. 58-81). Ở đây, qua chứng từ những người Hồi Giáo, Anh thức tỉnh và tự hỏi: ‘‘Thiên Chúa có thực hiện hữu hay không ? Anh viết : Nhìn nơi họ một đức tin sống động cùng sự liên lỷ kết hợp với Chúa, tôi cảm thấy một cái gì cao cả chân thật hơn các bận tâm trần thế. Hồi Giáo đã đánh động mạnh, sâu xa nơi tôi. Cử chỉ thờ Chúa đó tiếp tục thâm nhập sâu xa hơn nơi Anh, làm cho Anh hăng hái tìm kiếm vị Thiên Chúa tối cao của họ : Tôi tự ép mình học hỏi về đạo đó cùng Thánh Kinh. Nhờ ơn Chúa đánh động, đức tin trong thời thơ ấu được củng cố và canh tân dần dần lại nơi tôi. Ngoài ra, Anh còn thán phục tinh thần huynh đệ của họ. Do đó, Anh muốn trở nên một người anh em của họ.’’ (GXVN. 28.11.1986, tr. 9)
IV. Trở lại Paris, Người con nay trở về (1886-1888).
Sau khi phiêu bạt giang hồ, năm 1886, trở lại Paris, gia đình không hất hủi, lại đón tiếp Anh rất tử tế và thân mật. Anh có dịp tiếp xúc với nhiều người, thông minh, đạo đức và sống sâu xa tinh thần Kitô giáo. Anh tự hỏi : ‘‘có lẽ đạo này không phi lý như mình nghĩ’’. Có gì thúc đẩy, anh hay đến các nhà thờ. Mặc dầu chưa tin gì, nhưng tại đây anh cảm thấy thoải mái. Từng giờ trong nhà thờ, anh thường nhắc lại lời cầu nguyện : ‘‘Lạy Chúa, nếu Chúa có thật, xin cho con biết Chúa’’. Một ý kiến nảy sinh. Phải tìm hiểu biết về tôn giáo này. Giờ đây cần tìm đến linh mục, xin chỉ dẫn. Sáng 29.10.1886, Charles đến nhà thờ St Augustin, Paris tìm gặp linh mục Henri Huvelin (1838-1910), Giáo sư Cao Đẳng Sư Phạm. Cha đang ngồi tòa giải tội. Sau đối dáp, vị linh mục âu yếm nhìn người thanh niên trụy lạc và nói : Này anh, anh lầm rồi. Còn một trở ngại làm anh không tin, là tâm hồn phải trong sạch. Thôi, hãy quì xuống và khiêm nhượng thú nhận tội lỗi trước mặt Chúa, rồi anh sẽ tin. Chàng thanh niên xua tay phản đối. Do dự, một lúc sau, và cuối cùng anh quì gối, xưng tội và ăn năn sám hối. Ngay sau đó, cha giải tội đã cho anh rước Mình Thánh Chúa luôn. Người thanh niên Charles đã tin và trở nên người thánh thiện. Ngày nay, tại nhà thờ St Augustin, quận 5, bên trái, người ta còn để hình ảnh kỷ niệm nơi chính Charles xưng tội và được ơn hoán cải. Từ đây, Anh được linh mục Huvelin tận tình nâng đỡ và hướng dẫn. Anh Charles de Foucauld đã đổi mới hoàn toàn cuộc đời và sống cho bác ái.
V. Cuộc sống ẩn tu, truyền giáo trong sa mạc (1888-1916)
Sau khi được hoán cải, Anh Charles đã thực sự đi tìm đời sống ẩn tu khổ hạnh, qua các nơi : Tìm Chúa qua Thánh tích ở Jérusalem, Bethlem, Nazareth (1888-1890). Thực tập như thầy khổ tu Xitô (1890-1896). Về Roma một năm (1896-1897). Âm thầm làm vườn cho Dòng Clarisses (1897-1900) (Charles de Foucauld, JJ Antier. tr. 139-156)
Ngày 7.10.1900, Anh đến Dom Martin, vào Notre-Dame-des-Neiges cấm phòng và chuẩn bị nhận các chức thánh. Ngày 23.3.1901, Anh nhận chức Phó tế và thụ phong linh mục, tại giáo phận Viviers, ngày 09.06.1901, tại Dòng Lazariste. (SSđ. tr. 157-163). Giống như Chúa Giêsu, Cha Charles có những năm ẩn tu và những năm công khai truyền giáo và kết thúc bằng hy sinh mạng sống. Sau khi lãnh chức Linh mục, Cha Charles khởi sự truyền giáo, đầy gian lao và nguy hiểm : Đầu tiên là ở Benis Abbès (1900-1902). Làm quen và thực sự sống giữa sa mạc Sahara (1903-1904). Đến Tamanrasset nguy hiểm hơn (1905). Xây tịch liêu ở Touareg, chiêu mộ tu sinh (1905-1908). Thân một mình (1908-1909). Cô đơn ở Asekrem (1911-1924). Bị hăm dọa từ miền Đông (1915-1916)
Ngày 10.9.1901, Cha xin qua sống trong sa mạc miền khô cằn Bénis-Abbès, tại Algérie. Đến Alger Cha tạm trú tại nhà các Cha Dòng Áo Trắng ít lâu. Với tư cách là cựu sỹ quan, Cha nhờ một số sỹ quan Pháp giúp đỡ, Cha xây dựng cơ sở đầu tiên, với diện tích đất 9 mẫu. Đời sống trong sa mạc, được Cha viết lại cho một đan sỹ : Phải bước vào sa mạc và dừng lại để lãnh nhận ơn thánh. Tại đây chúng ta có thể loại bỏ tất cả những gì không thuộc về Ngài. Tâm hồn chúng ta cần có bầu khí thinh lặng và tĩnh mịch, cần quên đi tạo vật để Thiên Chúa có thể thiết lập vương quốc Ngài, và vun trồng nơi chúng ta đời sống nội tâm thân mật với Ngài. Tâm hồn chúng ta có thể đàm đạo chuyện vãn với Ngài trong đức Tin, đức Cậy và đức Mến. Nội tâm chúng ta càng được thao luyện bao nhiêu, sau này càng mang lại hoa trái bấy nhiêu. (Chúa là Tình Yêu. tr.41).
Ngày 27.5.1903, qua trung gian của hai cha Dòng Áo Trắng khám phá ra khu mới đông người ở. Ngã ba giữa Algérie, Maroc và Sahara. Cha Charles đến làm quen rồi sinh sống với họ. Đây là nơi quân đội Pháp thường qua lại. Họ sống có qui củ thành làng và chỉ biết có trời, không biết gì về Thiên Chúa.
Sau đó, ngày 11.8.1905, Cha chuyển qua sa mạc Tamanrasset. Bắt đầu từ miền hoang vu nóng bỏng cát trắng. Cha may mắn gặp bạn cũ học ở Saint-Cyr là tướng Lyautey, người đạo đức rất tốt. Cha bắt đầu bị bệnh, mệt mỏi và cô đơn. Cha bị người ta gán ghép cho là ‘‘thầy phù thủy’’ và tìm cách hãm hại. Đã có lần Cha bị thương dọc đường. Ông đề nghị cho lính hộ tống Cha đi đó đây. Nhưng Cha từ chối, thích đi một mình. Tại đây, thiếu tá Laperrine đã giúp Cha dựng nhà tường đất, mái lá. Đặc biệt Cha có Paul Embarek, giáo lý viên đắc lực và tận tâm giúp phụng vụ. Anh là người nô lệ đen, đã được Cha chuộc từ Soudan về. Ngoài ra, Cha cũng gặp bác sỹ Béraud, chăm sóc sức khỏe. Riêng ĐC Guérin Giám Mục Sahara, người đã nâng đỡ tinh thần và khuyên nhủ Cha Charles trong lúc cô đơn. (Charles de Foucauld. JJ Aantier, tr. 206-227).
Những ngày tại sa mạc, Cha say mê tìm đến với những người du mục sống trong hoang địa, làm quen, học tiếng của họ. Cha đã dịch Phúc Âm ra tiếng Ả Rập. Ban ngày cha giúp đỡ họ những công việc cần và chiều tối một mình về nhà suy gẫm. Cha không thuyết phục họ theo Đạo, nhưng cố nêu cao đời sống tông đồ bác ái. Chính nơi đây, lòng nhiệt thành của Cha Chúa đã đón nhận như của lễ hy sinh.
VI. Như Của lễ hy sinh vào cuối đời
Ngày 1.12.1916, khi trời vừa tối, khoảng 40 người đến vây quanh khu Tamarasset, sa mạc Sahara, nơi Cha Charles de Foucauld mới đến cư ngụ được 5 tháng. Họ là những người Touareges ở Ajjer, nổi lên chống lại người Pháp. Họ có nhiệm vụ bắt cóc ‘‘thầy bùa ngải’’ mà họ nhắm và gán ghép vào Cha Charles, đã sinh sống ở vùng này hơn 10 năm. Họ nghĩ rằng phải giết hoặc bắt làm con tin người Âu Châu này, vì Cha có ảnh hưởng nhiều đến các thủ lãnh bản xứ. Đó là ý định của nhóm nhỏ thuộc nhóm ‘‘thánh chiến’’ của Hội tôn giáo của Senoussiya ở Fezzan, miền Lybie.
Những người Touareges bất bạo động, đã dùng khoảng 30 khẩu súng, của quân đội Pháp để lại cho dân làng, có nhiệm vụ tự vệ. Nhóm Touareges bắt ép đem theo vợ chồng Paul Embarek, đã quen lối sinh sống của Cha làm chỉ điểm, đến gõ cửa nhà Cha.
Hôm ấy, cha Charles một mình sống trong tịch liêu. Như thường lệ, anh Lazaoui ben Aâmdour, người thường dân Ả Rập phát thơ, từ chiều hôm trước, đến trao cho Cha 8 lá thơ, rồi nhận thơ mới của Cha đi gửi. Các thơ Cha nhận có : ba thơ của chị họ Marie, một của anh rể Raymond de Blic, hai của Laperrine, hai của Masssignon và một của Saint-Léger. Ngay sáng đó, Cha đã trả lời đầy đủ cho từng người (thơ chưa gửi đi). Đang khi Cha Charles đợi người đem thơ về, thường vào chiều.
Ba người đến trước cửa tịch liêu, đứng sẵn ngoài cửa là : El Madani, Mohammed agg Akda d’Iherir và Elghlem agg Afekou ở Ayt Loayen. El Madani gõ cửa. Cha ra mở và khi Cha mới thò một tay ra ngoài cửa. Lập tức Madani nắm, kéo tay Cha. Cha rị lại. Lập tức, hai người kia xông vào và kéo Cha ra ngoài. Họ trói hai tay Cha lại phía sau lưng, bắt quì xuống và chất vấn. Cha vẫn thinh lặng. Rồi họ để Cha cho cậu bé Sermi ag Tora, 15 tuổi canh giữ Cha. Còn họ vào trong lục soát đồ đạc...
Bỗng có báo động hô lên. Những người Ả Rập cỡi lạc đà ào ào tới. Thế là có tiếng súng nổ vang lên. Không biết họ có bao nhiêu? Cha có cựa quạy để cởi trói không ? Vì sợ Cha trốn chạy, cậu Sermi chỉ để miệng súng vào dưới tai trái của Cha, như để hăm dọa. Trong lúc hốt hoảng súng nổ, viên đạn đâm thâu mắt trái của Cha và đầu đạn cắm vào tường. Cha nằm sóng sượt trên mặt đất. Máu chảy lai láng, Cha chết không kịp nói. Cậu Sermi cùng đồng bọn bỏ chạy. Sau chốc lát vụ nổ súng của nhóm Touareges, nhóm lính Ả Rập bạn Cha mới tới. Sáng hôm sau, người ta thấy người mang thơ cũng bị giết. Thi hài Cha được chôn cất vội vàng sơ sài trong một rãnh bờ cát gần nhà. Từ 1929, ngôi mộ của Cha đặt ở El Goléa, giữa đồng cát trống. (Frère Charles de Foucauld, tr.38). Cha Charles de Foucauld qua đời giữa cuộc thế chiến và đầy bạo loạn. Cha bị sát hại tại Hoggar, miền nóng bỏng của sa mạc Tamanrasset. Như một vị tử đạo. (Fêtes et Saisons. No. 386, Juin Juillet. 1984, tr. 4; La Mort de Charles de Fioucauld, tr. 102-104, 137-142, 172-181). Ba tuần sau khi Cha qua đời, người ta tìm thấy Chén và Mình Thánh Chúa chôn vùi dưới cát nơi Cha bị giết. (GXVN, số 28. 11-1986. tr. 8).(La Mort de Charles de Foucauld, tr. 160. Chúa là Tình Yêu. tr. 73). 15 năm trước khi từ trần, Cha đã viết : Hãy sống ngày hôm nay như tôi phải tử đạo chiều nay (Vivre aujourd’hui comme si je devais mourir ce soir. Martyr.).
Phép lạ nhờ lời cầu bầu của thánh nhân :
Trưa 4.3.2003, ĐHY Dionigi Tettamanzu, TGM Milan, bắc Ý đã chủ sự nghi thức kết thúc tiến trình điều tra cấp giáo phận về một phép lạ nhờ lời cầu bầu của cha Charles de Foucauld. Tham dự có bà Giovanna, 46 tuổi, sinh quán tại Desio, gần Milan, bà bị ung thư xương và vú, được khỏi một cách kỳ lạ, năm 1984. (TTĐM. Số 304, 4-2003. tr.53). Ngày 20.12.2004, ĐHY Von Galen, công bố công nhận phép lạ trên và loan báo sẽ phong chân phước cho Cha Charles de Foucauld vào trong năm 2005.
VII. Thành lập Dòng của Cha Charles de Foucauld
Sau cái chết của Cha Charles de Foucauld (1916), tưởng là những hy sinh cao cả và cuộc đời đạo đức thánh thiện của Ngài sẽ đi vào quên lãng. Nhưng Ngài như hạt giống đã chôn vùi chờ ngày trổ sinh hoa trái. Quả thật, Cha Charles de Foucauld là người cha của các dòng Tiểu Muội cho Nữ và Tiểu Đệ cho Nam, một dòng hoạt động và phát triển mạnh trên thế giới. Năm 1933, Ngành Nam do Cha René Voillaume thành lập. Còn ngành Nữ do Chị Magdeleine lập năm 1939. Toàn thế giới có 1.324 Tiểu Muội và 1.286 Tiểu Đệ.
Người khởi sự và lập Dòng
Cha Charles de Foucauld muốn thiết lập Dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu, nhưng không ai chịu theo. Mãi đến năm 1933, sau 17 năm Cha qua đời mới có người khởi sự đứng ra lập Dòng cho Nam, và năm 1939 Dòng cho Nữ :
A. Ngành Nam, Tiểu Đệ, do Cha René Voillaume, người Pháp, lập năm 1933. Cùng với 5 linh mục thuộc giáo phận Paris, các Cha lập một nhà đầu tiên ở El Abiod sidi Cheikh, Algérie. Dòng có hai loại : linh mục và tu sỹ.
Ban đầu, mới có nhóm nhỏ gồm linh mục, tu sỹ và giáo dân tụ họp trao đổi tư tưởng của Cha Charles de Foucauld, như tưởng niệm. Năm 1917, nhóm này do sinh viên Louis Masaignon đứng đầu, hoạt động như ‘‘hiệp hội’’, được phép của Tòa Thánh. Trong đó có đại chủng sinh chủng viện Issy-les-Moulineaux là René Voillaume, sau làm linh mục. Được phép của bề trên, René đem chia sẻ và phổ biến cho các bạn khác trong chủng viện.
Châm ngôn và mục đích : Bắt chước và sống như Chúa Giêsu ở Nazareth
Chúa Giêsu sống ẩn dật tại Nazareth 30 năm. Một cuộc đời bình thường của mọi người, của người nghèo lẫn thợ thuyền. Đây là con đường vạch ra cho những ai muốn hiến dâng cho Thiên Chúa. Con đường dẫn đến Chúa Cha, đến Ơn Cứu Độ. Khi sống như người thợ ở Nazareth, một người nghèo giữa người nghèo, Chúa Giêsu bắt đầu công cuộc cứu rỗi của mình. Những gì Ngài giảng dạy trong 3 năm, thì Ngài sống, thực hiện trong 30 năm.
Đời sống của anh em Tiểu Đệ
Như Chúa Giêsu Nazareth, Anh Charles và các Tiểu Đệ được kêu gọi sống đời bình thường cho Thiên Chúa và cho hết mọi người, nhưng thiện cảm với những người bị bỏ rơi trong xã hội. Anh em đến với họ không để giảng dạy, nhưng để sống giữa họ, và chia sẻ thân phận với họ. Trở nên người anh em dịu hiền. Tự kiếm kế sinh nhai bên cạnh người lao động.
Anh em Tiểu Đệ sống thành cộng đoàn nhỏ là nhà Huynh Đệ. Một ngôi nhà nhỏ, đơn sơ như những nhà khác, trong hoàn cảnh đa dạng : với những người nông dân, thợ thuyền, bệnh tật, già yếu, hay bị bỏ rơi.
Quan trọng hơn, đời sống thiêng liêng của Tiểu Đệ phải sống chiêm niệm giữa đời và gắn bó với Chúa Giêsu Thánh Thể. (GHCGVN. Niên Giám 2004. ttr. 328-329). Nhà chính Tiểu Đệ ở Pháp : Congrégation des Petits Frères de Jésus, 22 rue Tapis Vert. Marseille. France (VNCG. Niên Giám 1964, tr.433).
B. Ngành Nữ, Tiểu Muội, do cô Elisabeth Hutin, người Pháp, sau làm bề trên tổng quyền mãn đời gọi là Magdeleine de Jésus (1898-1989), thành lập năm 1939.
Tinh thần và lịch sử, công trình lập Dòng chị Magdeleine viết : Chúa đã nắm tay tôi và tôi nhắm mắt bước đi theo Ngài...Trong cảnh bề ngoài hoàn toàn u tối và tất cả mọi phương tiện nhân sự đều vắng bóng. Nhưng với lòng tin cậy vô bờ bến vào sức toàn năng của Chúa Giêsu. Chính Ngài là Thầy những gì mà sức người không làm nổi.
Chúa đã chọn Chị và trao phó công việc : Ngài đã chuẩn bị tôi từ thời thơ ấu, và đã kêu gọi tôi theo Ngài, chắc chắn ngay khi tôi bước vào tuổi có trí khôn. Ngài đã gieo vào lòng tôi yêu mến Châu Phi, đồng thời cũng làm tôi yêu chuộng những người bé nhỏ nhất, nghèo nàn nhất và bị bỏ rơi nhất.
Chị Magdeleine đã lập Huynh Đoàn các Tiểu Muội Chúa Giêsu, ngày 8.9.1939, tại Touggourt, sa mạc Sahara, bên Algérie. Sau hai năm lập dòng, Chị kể lại cảm nghĩ ban đầu : Chúa theo đuổi tôi với câu nói này : ‘‘ngài đã gửi họ đi từng hai người một đến các phố làng mạc’’. Câu nói ấy là kỷ niệm tản mát của các Tông Đồ. Tôi thấy các Tiểu Muội ở khắp nơi cùng lúc, gieo rắc tình thương như một tia sáng thật nhỏ. Mặc dầu các chị đầy khuyết điểm, hèn kém. Tôi thấy chính mình đang làm lan rộng ngọn lửa Chúa ủy thác. Tôi chẳng có gì đẹp hoặc tốt, mà chỉ có ngọn đuốc đang cháy. Tôi phải mang nó đi khắp nơi. Nó sẽ khêu dậy và bừng sáng khi tỏa lan và truyền được sức sống.
Điểm nổi bật nơi con người Magdeleine là chất chứa tình yêu Chúa Kitiô nóng bỏng. Tinh yêu này thúc đẩy Chị không ngừng đi đến với những người nghèo khổ nhất, những người bị bỏ rơi ở khắp nơi. Qua họ, từ tình bạn, trao truyền tình yêu thương dịu hiền của Thiên Chúa (Sđd. tr 5). Nhà chính của Tiểu Muội ở Ý : via di Aque Salvie 2, Tre Fontaine. 00142. Roma. Italia.
VIII. 150 năm sau, như hạt giống cần mục nát.
Cha Charles de Foucauld như cây chính có hai nhánh là Cha René Voillaume và Chị Magdeleine. Từ gốc chính này, đã sinh hoa quả rờm rà tỏa bóng mát khắp nơi.
Gia đình thiêng liêng của Cha Charles de Foucauld có 11 Dòng : 6 nữ và 5 nam (Congrégations) và 10 hiệp hội (Associations) và 18 gia đình (Familles). Tờ báo chung là Jesus Caritas, phát hành 3 tháng một lần.
Các nhà Dòng của Cha Charles có mặt ở khắp nơi, như : Hong Kong, Iraq, Syrie, Afrique, Ukraine, BaLan, Áo, Mỹ Châu La Tinh, Pakistan, Ấ n Độ, Egypte, Maroc, Thụy Sỹ. Ý, Pháp : Aix en Provence, Marseille, Bagnolet, Rennes, Việt Nam.
Hiện có nhiều người trẻ Vìệt Nam, cả nam lẫn nữ đang tu và hoạt động trong Dòng này, ở ngay Việt Nam và ngoại quốc. Tại hải ngoại có 10 chị đang hoạt động tại Ý, Pháp, Úc, Giêrusalem
Tại Việt Nam có cả Tiểu Đệ và Tiểu Muội :
- Dòng Tiểu Muội có mặt tại Việt Nam từ 1953.
Châm ngôn : Giêsu Tình Yêu. Đặc sủng : Chiêm niệm giữa đời theo tinh thần con trẻ của Tin Mừng. Hoạt động : sống đời thường như Chúa Giêsu Nazareth. Bổn mạng lễ Giáng Sinh 25-12. Địa chỉ liên lạc : 25/ 4 Phan Văn Hân, Q. Bình Thạnh. TP Hồ Chí Minh. Bề trên là Matta Emmanuelle Nguyễn thị Nguyệt Ánh. (GHCGVN Niên Giám. Tr. 374)
- Dòng Tiểu Đệ có mặt tại VN từ 1954, nhà đầu tiên ở Bàn Cờ, Sài gòn. Hiến pháp được Tòa Thánh phê chuẩn năm 1968. Châm ngôn và mục đích : Bắt chước Chúa Giêsu Nazareth. Bổn Mạng là lễ Giáng Sinh, 25-12. Hoạt động : Kiếm kế sinh nhai bằng lao động, đến và chia sẻ với những người nghèo. Địa chỉ liên lạc : 243/48 Tôn Thất Thuyết, Q 4, TP Hồ Chí Minh. (GHCGVN Niên Giám. Tr. 328). Việt Nam có ĐTGM Philipphê Nguyễn Kim Điền, nhập Dòng năm 1955.
Các chứng từ để kết luận
Xin chọn lời của hai Đức Giáo Hoàng nói về Cha Charles de Foucauld :
Thánh GH Phaolô VI đã viết trong thông điệp Populorum progressio (26-3-1967) : Cha Charles de Foucauld là vị truyền giáo bằng bác ái, là gương mẫu anh em sống đại đồng, luôn hướng dẫn mặt tu đức.
Thánh GH Gioan Phaolô II đã 5 lần (1980, 1983, 1984, 1991 và 1994) nói về con người và tinh thần của Cha Charles : Nhờ Cha Charles mà có đối thoại với người thổ dân du mục để dễ rao giảng Tin Mừng. Cha Charles xứng đáng là vị truyền giáo lớn như François d’Assisie, như Matteo Ricci. Trong thế kỷ chúng ta, có nhiều người biết đến đạo Chúa là nhờ Cha Charles, nêu gương đơn nghèo, kết hợp với Thiên Chúa, sống bác ái, huynh đệ, và yêu thương (4-1984). (Sđd. tr. 306)
Ngày nay, biết bao nhiêu người trẻ, tại nhiều nơi trên thế giới, không biết mệt mỏi theo gương Thánh Charles de Foucauld, làm tròn bổn phận với Chúa, với Giáo Hội và giữ đúng tinh thần trách nhiệm liên đới với anh em chung quanh.
Những dòng trên chưa khám phá được hết những hoạt động của người chứng nhân đạo Bác Ái, đạo Yêu Thương Thiên Chúa. Sống tinh thần Phục Sinh là cần phải canh tân và hòa giải. Thiết nghĩ không gì bằng đến với Chúa nhân từ trong tòa giải tội. Tại đây, Ngài sẽ rửa sạch tâm hồn và khoác lại cho chúng ta chiếc áo trắng ngày Phục Sinh. Chiếc áo này sẽ là bằng chứng tình yêu không hề phai giữa chúng ta với Ngài và sự liên kết bền chặt với anh em.
Công Bình
________________
Tài Liệu Tham Khảo
-Jean-Jacques ANTIER : Charles de Foucauld, PERRIN, Paris 2004
-https://fr.wikipedia.org/wiki/
-https://www.cath.ch/newsf/reconnaissance-dun-miracle-attribue-a-la-francaise-marie-rivier/
-https://www.famillechretienne.fr/
Có thể tham khào về tiến trình phong Thánh trong giáo hội ở đây :
Sự thánh thiện và tiến trình phong thánh trong Giáo hội | Học viện Đa Minh (catechesis.net)
Bài viết khác
ĐỨC TÂN GIÁM MỤC ĐA MINH NGUYỄN TUẤN ANH - Lê Đình Thông
Con Số Linh Mục được truyền chức tại Pháp năm 2024 và 4 Linh Mục Việt Nam - Công Bình
Đức Tổng Giám Mục Marek Zalewski làm Đại diện Toà Thánh Vatican thường trú tại Việt Nam - HĐGMVN
Thánh Đa Minh và 11 Thánh Tử Đạo Đa Minh Tây Ban Nha tại Việt Nam - Công Bình
Thánh Lễ Khai Mạc Thượng Hội Đồng Giám Mục - Lê Đình Thông
Một số Tín Hữu Người Việt Từ Paris tham dự Gặp Gỡ Địa Trung Hải - Lê Đình Thông
23/09/2023 : ĐTC Phanxicô Kết Lễ Tại Vélodrome Marseille - Lê Đình Thông
Mater Coeli ĐTC Phanxicô cử hành Thánh Lễ tại Steppe Arena (Oulan-Bator) - Lê Đình Thông
Hình Đại Hội Hành Hương Các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Lộ Đức 2023 - Ban Nhiếp ảnh
Vidéo : Đại Hội Hành Hương Các Cộng Đoàn Công Giáo Việt Nam tại Lộ Đức 2023 - Huy Quyên
Nữ Vương Tử Đạo Regina Martyrum - Lê Đinh Thông
ĐTC PHANXICÔ LẦN CHUỖI TẠI FATIMA - Lê Đinh Thông
Chúc Mừng Hai Tân Linh Mục Antôn Nguyễn Đại Lợi và Phêrô Hoàng Mạc Văn - Công Bình
Thánh Lễ Truyền chức của Tân Linh Mục Giuse Lê Quang Vinh SJ thứ bảy 06/05/2023 - Công Bình
Bổ Nhiệm Linh Mục Giuse Huỳnh Văn Sỹ làm Giám Mục Chính Toà Giáo Phận Nha Trang
Biên Bản Hội nghị thường niên kỳ I năm 2023 của Hội đồng Giám mục Việt Nam
Bổ Nhiệm Giám Mục Chính Toà Giáo phận Hà Tĩnh và Phát Diệm, Giám Mục Phó Giáo Phận Cần Thơ - HĐGMVN
Dòng Phan Sinh Thừa Sai Đức Mẹ : 90 Năm hiện diện tại Việt Nam - Lê Đình Thông