Duy-Ân Đoàn Quốc Khánh
ĐI TÌM MÙA XUÂN DÂN TỘC
Pháo
vang một tiếng đưa năm cũ,
Vẫn dáng đào xưa
cợt gió đông . *
L |
ại một mùa xuân nữa trải dài trên quê hương. Trăm
hoa đã kết, muôn loài thịnh đạt. Xuân đi
xuân lại, nhưng sao chúng ta không cảm thấy
xuân cằn cỗi già nua. Xuân về hoa
vẫn nở bấy nhiêu (xuân lai hoàn phát cựu thời hoa),vẫn tiếng oanh dìu dặt trên cành
rộn ràng bước chân người phiêu lãng
(xuân phong ngữ lưu oanh). Xuân đến khi mà khí DƯƠNG đã giăng xuống đất người, khi mà khí ÂM đã vươn tới tận
trời cao. Chữ ĐỒNG nào kết tình Đất với Trời, lòng ta với thiên
nhiên trong mùa xuân, trong ngày tam nguyên trọng đại này :
sáng đầu năm, sáng đầu tháng, sáng đầu
ngày.Trong vài trang giấy ngắn gọn, chúng ta thử nhìn về huyền sử Lạc Việt, tìm hiẻu nguyên do và ý
nghĩa niềm mơ ước sống trong những mùa
xuân ĐẾ ĐẠO của tiền nhân.
ÂM DƯƠNG TƯƠNG XUNG TƯƠNG
KHẮC.
Lịch
sử Lạc Việt khởi đầu bằng
một mối tình thơ mộng giữa đôi
trai tài gái sắc. Mối tình giăng kết
trong mùa xuân khai sáng dân tộc, khi
con người còn sống dưới sự êm đềm của trăng sao, sống trong vòng tay ôm của núi sông
đồng ruộng. Chàng là Lạc Long (giòng giống Rồng, siêu vật, biểu tượng của yếu tố Dương), nàng là Âu Cơ (giòng giống Tiên, siêu nhân,
biểu tượng của yếu
tố Âm). Nguyên nhân nào đã nối kết hai đứa
con của núi đồi và của biển xanh, chân
phúc nào đã xe duyên họ trong mối tình đằm
thắm đó ? Nhưng chữ THỦY CHUNG
không gắn liền với giòng đời của họ. Âu Cơ em hỡi ! Em là giòng Tiên,
ta là giống Rồng, từ bản chất vốn dĩ khác biệt
vô ngần, làm sao chúng ta có thể
gắn bó suốt đời cùng nhau ? Vết thương tình yêu không thể nào hàn gắn :
Chàng dẫn 50 con (Kinh) trở về biển xanh bao la. Nàng, khoé mắt đẫm lệ, đưa 50 con còn lại trở về cõi núi đồi bát ngát (Thượng). Xuân Thái
Hòa cớ sao ghi đậm ngăn cách. Lạc Long quân chàng hỡi ! Tình ta từ
nay chỉ còn là ô vuông kỷ niệm. Âm Dương nghịch tiến không thể qui hội trên đỉnh bình an (1).
Cũng
một mùa xuân trong thời đại Hùng Vương. Mỵ Nương công chúa như một đóa vừa
tầm tay với cho khách tao nhân. Kim Tinh, Thủy Tinh, hai vị
thần cai quản hai vùng trời khác biệt, cùng đến xin cầu hôn. Nhưng Kim Tinh (yếu tố Dương) chiếm thượng phong, đã đưa
giai nhân trở về núi cao, t ạ c chữ ĐỒNG đến trăm năm. Ôm hận tình yêu,
Thủy Tinh (yếu tố Âm) đã mất bình tĩnh tới độ
quên quảng đại sinh dân, đang an cư lạc nghiệp trong thời Đế đạo của Hùng Vương.
Âm lực dâng tràn,
tôm tép cũng quyết ăn thua đủ với binh lực
của Dương thần Kim Tinh. Kết cục ‘Cá chép không thể vượt vũ môn để hóa rồng ‘ khi mà núi đồi cũng vươn cao dường như bất tận. Âm Dương đồng tiến
song song, nhưng không bao giờ giao hội.
Và Công chúa Mỵ Nương, má hồng đẫm nước mắt, khóc than cho tình mình gây
cảnh tang thương : ‘Phụ Vương ơi !Phong Châu ‘(thơ Nguyễn nhược Pháp).
ÂM DƯƠNG TƯƠNG SINH TƯƠNG
HÔI.
Hoàng tử Lang Liêu mồ côi cả cha lẫn mẹ đứng trước
một thách đố khôn lường. Nhưng mất Mẹ , ta vẫn
còn Đất Mẹ (Âm) ; lìa Cha,
ta vẫn còn Trời Cha (Dương). Trời Cha Đất
Mẹ nuôi dưỡng và triển sinh vạn loài.
Lang Liêu ! Ta cảm thông nỗi lòng của
Hoàng tử, ngậm ngùi trước tương lai mù tối.
Nhưng Hoàng tử hãy thâm tín rằng :
Trời Cha Đất Mẹ không phụ chân hiếu tử.
Hoàng tử hãy làm hai thứ bánh :
bánh dày hình tròn, biểu tượng cho Dương, cho tình Cha, tình Cha diệu vợi (Trời),bánh
chưng hình vuông, tượng trưng cho Âm,
cho lòng Mẹ, lòng Mẹ muôn trùng (Đất). Và ngày tam nguyên, Hoàng tử hãy dâng hai thứ bánh biểu tượng cho sự giao hòa của Trời Cha Đất Mẹ này lên Phụ hoàng. Âm vuông Dương
tròn của Đất Trời (chữ Hòa) giao kết với chữ
HIẾU đặc thù của dòng Lạc Việt,
thì không gì ý nghĩa cho bằng. Và rồi…Lang
Liêu lên ngôi báu, tiếp tục thời Đế đạo của triều đại Hùng Vương.
MINH TRIẾT QUI TÀNG DỊCH.
Thời
đại Hùng Vương nhan nhản những huyền
sử như thế đó. Nhiều người
trong chúng ta đã lạnh lùng lên án ( ?). Tuy nhiên, khi huyền sử
trở thành một thứ LINH NGỮ để diễn
đạt thực tại cao vời, thì khi đó xin đừng dừng lại nơi huyền sử để phê
phán tiền nhân. Tiền sử ƠN CỨU ĐÔ (11
đoạn đầu của sách Sáng Thế) cũng đầy
màu sắc huyền thoại : huyền
thoại tạo dựng của người Babylone trong thi khúc Enouma Elish, huyền thoại
Enki và Ninhoursag về địa đàng trong tôn giáo người Sumer, người anh hùng Gilgamesh đi tìm trái trường
sinh bất tử, quyền lực sáng tạo do lời phán của các thần linh trong tôn giáo người
Sumer, Anh hùng ca Atra –Hasis với lụt Hồng
Thủy…và còn nhiều huyền sử na ná như vậy nữa. Tuy
nhiên, Thánh ký không dừng bước nơi huyền thọai
để diễn đạt
tiền sử ƠN CỨU ĐÔ. Các vị chỉ mượn
văn chương vùng Cận Đông để trình bày
chân lý Độc Thần Giáo (Một Chúa) và màu nhiệm sự ác trong công trình tạo dựng mà thôi. Ngày nay,
các ngành khoa học nhân văn cũng chú tâm
đặc biệt tới huyền thoại và coi đó là một
ngôn ngữ của tiềm thức, của toàn thể,
khi mà lý trí và ngôn ngữ thông thường thúc thủ.
Tổ
tiên Lạc Việt ta, để diễn đạt tính cách cao vời của nên văn minh nông nghiệp, một
nền văn minh mà trong đó yếu tố văn hóa được quan niệm như
hồn dân tộc, phát triển mạnh hơn nền văn
minh du mục và bá đạo của Tàu,
hay nói văn vẻ hơn : nền văn minh của
Đế đạo, trong đó con người đối xử với nhau bằng tín nghĩa – đã dùng những huyền thoại (như chúng tôi đã trình bày khái lược
một vài huyền thoại tiêu biểu) -
để diễn đạt nền văn minh QUI TÀNG DỊCH (mọi việc đều
qui về đất, lấy quẻ KHÔN làm khởi điểm), vì khi đó tổ tiên ta đã sống định cư, biết trồng tỉa. Nét
đặc thù của nền văn minh này là chữ TRUNG. Chữ TRUNG có tính
cách linh động và uyển chuyển, tùy theo thực trạng biến đổi của KHÔNG và THỜI mà hành động, dùng thăng bằng của nội tâm để
hướng dẫn sự thăng bằng của thế sự nhân tâm, và như thế nhiên hậu sẽ có an hòa.
Chữ TRUNG này ẩn tàng trong chữ DỊCH. Dịch là biến đổi, trao đổi, hoán chuyển, nhờ hai yếu
tố Âm Dương đối đãi và tiềm phục
trong vạn vật. Hai yếu tố tương quan, tương đối, tương sinh tương khắc
này chi phối mọi sinh hoạt của thiên
nhiên và con người - trở thành cương lĩnh
cho văn minh Á đông hàng ngàn năm nay. Một áp dụng nho nhỏ : Chẳng hạn nhờ hai yếu tố
quan thiết này mà đất trời giao hòa trong tiết xuân, lòng người an thái nhìn cảnh
trăm hoa đua nở - khi mà lũy tre
xanh với tiếng chày giã gạo
dưới đêm trăng tiết hạ, cây cối và đồng lúa chín vàng – khi mà đất trời thanh thoát trong cảnh thu êm dịu - khi mà muôn vật nằm xuống nghỉ ngơi ,
ôm ấp sinh lực trong lòng đất để chuyển thành động lực cho ngày mai. Xuân sinh, Hạ trưởng, Thu thu, Đông
tàn. Xuân Hạ dưỡng Dương, Thu Đông dưỡng
Âm. Tiền nhân ta quả thật hữu lý để xác
quyết như thế. Chu trình lịch sử cũng vậy : đó không phải là quan điểm lịch sử đường thẳng (linéaire) của Tây phương, nhưng là một đường
tròn xoáy trôn ốc(cycli- que) – hoàn vô đoan – mà các điểm trên đó là nhân và quả cho nhau, do đó có thể giải thích
được các cảnh thịnh suy, hưng vong. Sự xuống dốc của lịch sử chỉ là sự bắt đầu và đi lên tới Thái Dương.Nhưng
trong Thái Dương (+++) cực thịnh - đã bao hàm Thiếu Âm (-) mầm suy đồi, và trong Thái Âm (---) cực suy,
cũng đã có mầm Thiếu Dương (+) lấy đà đi lên. Chính trong viễn tượng
này mà lịch sử Quê Hương
ta , với những cảnh hưng phế, với những năm chinh chiến miên trường…mới
có thể tìm thấy một Ý NGHĨA.
ĐI TÌM MÙA XUÂN ĐẾ ĐẠO .
Triết
Trung Hoa giải thích sự biến chuyển của
lịch sử bằng một truyền thống cai trị ĐẾ, VƯƠNG,BÁ.Ở thời ĐẾ, người ta lấy tín
nghĩa mà trị dân, vì dân chúng sống tự nhiên, ngay thật. Sang thời VƯƠNG,họ phải dùng tới công lý và pháp chế. Vào thời BÁ thì chỉ còn là đàn áp khống chế, bởi lẽ quân , thần , dân đã trở
thành bất lương và điên đảo. HOÀ
thế nào khi người dân không thể sống
thoải mái, yên vui, AN làm sao khi đi đâu cũng thấy lọc lừa, cạm bẫy.
Xét
theo cách phân chia chu kỳ lịch sử này,
thi quê hương chúng ta hiện đang sống trong thời đại gỉa tạo, áp
bức, phân hóa cùng tột của BÁ trị. Ta có
làm mất ý nghĩa chữ HÒA của tiền nhân, xa vời văn minh THÁI HÒA của Âm Dương, của Trung Dung, của Qui Tàng Dịch mà tổ
tiên ta đã gửi gấm trong Huyền sử. Tuy
nhiên, trong chiều sâu của nền minh triết này mà chúng ta tin rằng : lịch sử Quê Hương đang ngoi từ
sa đọa và thiếu thốn, từ những đổ vỡ và điêu tàn của thời Bá trị kim thủy hiện đại, đang vượt
khỏi phân ly và ngăn cách của những mối
tình ‘LONG - CƠ ‘ ngày nay, để tiến tới
khuôn thước của VƯƠNG trị, đạt tới tín nghĩa của ĐẾ đạo. Dưới sự trìu mến của
Trời Cha, trong tình đậm đà của Đất Mẹ,
trong chữ HIẾU độc sáng của những Lang
Liêu mai sau..Và tất nhiên,Chúng ta vẫn cần đến
một thiên nhiên NGƯỜI để cùng gặp
gỡ nhau nơi đất mẹ, để sống trung thực, thuần
lương và an vui trong cộng đồng dân tộc và quốc tế bao quanh.Chính quyền sẽ lấy dân làm
trọng (Dân vi qúy), duy trì và phát triển
những quyền lợi căn bản và tự quyết
của dân sinh, hòa nhập với đà tiến sinh động của thế giới ngày nay.
Núi
Tản Viên (2) vẫn còn đó, sừng sững như
chí hùng của Quê Hương trước bày hổ sói
Trung Cộng nhưng cũng hiền dịu như vòng tay ôm của người Mẹ Việt thương đàn
con vô bến hạn, như niềm ước mơ thái hòa
của sinh dân. Trong ý hướng đó, Tản
Viên là hình ảnh của mùa xuân Đế đạo
trong lòng dân tộc.
Một
ngày cuối năm Thân
Duy-Ân Đoàn Quốc Khánh.
_______________________
Chú
thích :
*nguyên
tác hai câu thơ :
-Pháo
vang một tiếng đưa năm cũ / Bộc trúc nhất
thanh trừ cựu lạp (không rõ tác giả ?)
-Vẫn
dáng đào xưa cợt gió Đông/ Đào hoa y cựu tiếu
Đông phong (thơ Thôi Hộ). Thi bá
Nguyễn Du
dịch
hay hơn : Hoa đào năm ngoái còn cười
gió Đông.
(1)Quốc mẫu Âu Cơ sinh một
trăm trứng chỉ là một cách nói của triết Việt, cũng như khi chúng ta nói trăm bệnh,trăm hoa,trăm họ…chỉ có nghĩa là
nhiều. Lĩnh Nam hồi đó có tục đa thê.
Con cái sinh ra đều gọi chính cung Hoàng
hậu
Âu Cơ là Mẹ. Chắc hẳn Quốc Tổ Lạc Long còn có nhiều phi tần, mỹ nữ, tuy
nhiên Sử không nói rõ Quốc mẫu Âu Cơ có bao nhiêu con. Còn 100 con là chỉ 100 bộ
tộc (tức Bách Việt), tất cả là con của Quốc tổ Lạc Long &Quốc mẫu Âu Cơ.
(2) Tản là phân tán, tượng trưng cho
Âm. Viên là kết hợp, tượng trưng cho Dương. Tản Viên hàm ngụ triết lý Thái Hòa.
Bài viết khác
Âm Nhạc Công Giáo trong Văn Hóa Việt Nam - Gs Lê Đình Thông
Vidéo : NGÀY VĂN HÓA THƯ VIỆN GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS - Chúa Nhật 07/04/2024
Thư mời Ngày Văn Hóa Thư Viện Giáo Xứ VN Paris 07-04-2024
The Chosen : Đấng được chọn - Công Bình
Rogations, nghi thức Cầu Mùa đang được hồi sinh tại giáo xứ Moissac - Công Bình
Chúc Thọ & Chúc Thêm - Cung Chi
Vâng Phục Qua Giấc Mơ - Anê Thùy Dung
Nhìn và Ngắm - Nguyễn Đăng Quế
Mùa Chay 2023 : Mùa Cháy – Mùa Chạy – Mùa Chảy - Lm Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Đức Thánh Cha Phanxicô và chuyến công du đầu năm 2023 - Công Bình
Chuyện Yếu Đuối - Trầm Thiên Thu
Suối nước chữa lành - Sr. Maria Thúy Nga, FMA
Đôi lời tri ân độc giả Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris - Giang Minh Đức
Vè Tết Quý Mão - Anna Trương Thị Lâm Sang