ĐỨNG DẬY! TA ĐI NÀO!
(TỰ THUẬT CỦA ĐGH GIOAN PHAOLÔ II)
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II
Hương Vĩnh chuyển ngữ
CHƯƠNG I: ƠN
GỌI
“Không phải anh em đã chọn Thầy,
nhưng chính Thầy đã chọn anh em.”
(Gio 15, 16)
1.- Nguồn gốc
ơn gọi
Tôi truy cập suối nguồn ơn gọi
của tôi, một ơn gọi phập phồng trào dâng lên tại đó – tại căn phòng ở kinh
thành Giê-ru-sa-lem. Tôi cảm tạ ơn Chúa, bởi vì trong Đại Năm Thánh 2000, tôi
đã được cầu nguyện chính ở trong “căn
phòng rộng rãi trên lầu” đó (Mc 14, 15), nơi mà xưa kia đã diễn
ra bữa tiệc ly.
Ngay bây giờ đây, bằng ý tưởng,
tôi cũng trở về với ngày thứ năm đáng ghi nhớ đó, khi Chúa Kitô “vẫn yêu thương những người thuộc về mình
cho đến cùng” (Gio 13, 1), đã thiết lập hàng tư tế của
giao ước mới.
Tôi thấy Ngài cũng cúi xuống
trước mỗi một người trong chúng ta là những kẻ kế vị các thánh tông đồ để rửa
chân chúng ta. Và tôi nghe những lời nầy như thể được ngỏ vớì tôi: “Anh em có hiểu việc Thầy mới làm cho anh
em không? Anh em gọi Thầy là ‘Thầy’, là ‘Chúa’, điều đó phải lắm, vì quả thật
Thầy là Thầy, là Chúa. Vậy, nếu Thầy là Chúa, là Thầy, mà còn rửa chân cho anh
em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau. Thầy đã nêu gương cho anh em, để
anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em.” (Gio 13,
12-15).
Cùng với các thánh tông đồ
Phê-rô, An-rê, Gia-cô-bê và Gioan, chúng ta hãy nghe thêm: “Chúa Cha đã yêu mến Thầy thế nào, Thầy
cũng yêu mến anh em như vậy. Anh em hãy ở lại trong tình thương của Thầy. Nếu
anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy,
như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Ngài.
Các điều ấy Thầy đã nói với anh em để anh em được hưởng
niềm vui của Thầy và niềm vui của anh em được nên trọn vẹn. Đây là điều răn của
Thầy: anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Không có tình
thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của
mình. Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy
truyền dạy.” (Gio
15, 9-14).
Phải chăng mầu nhiệm của đức
ái (mysterium caritatis) không bao gồm trong những lời nói đó sao?
Trong những lời mà Chúa Giêsu đã nói “vì
giờ nầy mà Con đã đến” (Gio
12, 27) chính là gốc rễ ơn gọi chúng ta trong Giáo Hội.
Từ những lời nói đó tuôn tràn
nhựa sống nuôi dưỡng ơn gọi – ơn gọi của các tông đồ và của những kẻ kế vị các
tông đồ cũng như ơn gọi của hết mọi người – bởi vì Chúa Con muốn trở thành bạn
hữu của mỗi người: chính vì tất cả mọi người mà Ngài đã trao ban mạng sống
mình.
Người ta tìm thấy trong những lời
nói đó tất cả những gì quan trọng nhất, quí báu nhất, linh thánh nhất: tình yêu
Chúa Cha và tình yêu Chúa Kitô đối với chúng ta, nỗi vui của Ngài và nỗi vui
của chúng ta, cũng như sự thân tình và lòng trung tín của chúng ta được chứng
tỏ qua sự hoàn thành những điều huấn dụ của Ngài. Những lời đó cũng chứa đựng
mục đích và ý hướng ơn gọi chúng ta: đó là “ra đi và sinh được hoa trái để hoa trái chúng ta tồn tại”
(Gio 15, 16).
Rốt cuộc, tình yêu là sợi dây nối
kết tất cả: nối kết một cách thực thể Ba Ngôi Thiên Chúa và cũng nối kết, trên
một bình diện hoàn toàn khác biệt, những con người với nhau và vô số ơn gọi
khác nhau của họ nữa. Chúng ta đã trao phó đời sống chúng ta cho Chúa Kitô là
Đấng đã yêu thương chúng ta trước tiên và, trong tư cách là Đấng Mục Tử nhân
hậu, Ngài đã hiến tế đời Ngài vì chúng ta.
Các tông đồ Chúa Kitô đã nghe
những lời nói đó và đã đem áp dụng cho chính mình, chân nhận trong những lời
nói đó một lời mời gọi có tính cách cá nhân. Cũng thế, cả chúng ta nữa là những
người kế vị – những mục tử của Giáo Hội Chúa Kitô – chúng ta không thể không tự
cảm thấy mình là những người đầu tiên cam kết đáp lại tình yêu đó, trong sự
trung tín, sự thực thi những giới răn và hằng ngày trao ban đời mình cho những
bạn hữu của Chúa.
“Mục tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên.” (Gio 10, 11). Trong bài giảng của tôi
hôm 16 tháng 10 năm 2003 tại quảng trường Thánh Phêrô, nhân dịp kỷ niệm 25 năm
triều đại giáo hoàng của tôi, tôi đã đề cập đến vấn đề đó:
“Khi Chúa Giêsu nói những lời đó, các tông đồ không biết Ngài nói về
chính mình Ngài. Ngay cả Thánh Gioan là tông đồ được thương mến cũng không biết
nữa. Thánh Gioan chỉ biết điều đó ở trên đồi Can-vê, dưới chân thánh giá, khi
thấy Chúa Giêsu dâng hiến một cách thầm lặng mạng sống mình cho ‘đoàn chiên của
Ngài’.
Khi đến lượt Thánh Gioan và những tông đồ khác phải đảm
nhận cũng chính sứ vụ đó, lúc bấy giờ họ nhớ lại những lời nói của Ngài. Họ
nhận ra rằng, chỉ vì Chúa Giêsu đã đoan chắc chính Ngài đã hành động qua sự
trung gian của họ, họ mới có thể chu toàn sứ vụ cho đến hoàn tất.”
“Không phải anh em đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn anh em và
cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái, và hoa trái của anh em tồn
tại” (Gio 15,
16). Không phải anh em, nhưng chính Thầy! Chúa Kitô nói như thế. Đó là nền tảng
của hiệu năng sứ vụ mục tử của giám mục.
2.- Ơn gọi
Đó là vào năm 1958. Với một nhóm
người say mê chèo xuồng, tôi đã ở trên chuyến xe lửa đi đến Olsztyn. (Olsztyn
là trung tâm văn hoá và du lịch – thủ phủ miền Mazurie, ở về hướng
đông nam Ba-lan). Chúng tôi bắt đầu kỳ nghỉ hè theo chương trình của chúng tôi
kể từ năm 1953.
Chúng tôi trải qua một phần thời
gian ở vùng rừng núi mà phần lớn ở tại Bieszczady. (Bieszczady là
công viên quốc gia ở phía đông nam Ba-lan, sát biên giới Ukraine và Slovaquie).
Phần khác thời gian, chúng tôi sử dụng ở những vũng hồ thuộc miền Mazurie. (Mazurie
ở miền đông bắc Ba-lan, được mệng danh là “vùng ngàn hồ”).
Mục đích chúng tôi nhắm tới là
dòng sông Lyna. (Lyna là một con sông ở giữa Ba-Lan và Nga-sô
[Kaliningrad]). Chính vì thế mà chúng tôi đi trên chuyến tàu đến Olsztyn, vào
dịp tháng bảy. Ngỏ lời với người có nhiệm vụ ‘đô đốc’, nếu tôi nhớ không nhầm,
lúc bấy giờ là Zdzislaw Heydel, tôi nói như sau: “Zdzislaw ạ, chỉ ít lâu nữa tôi phải rời xuồng, bởi vì Đức Giáo Chủ muốn
gặp tôi nên tôi phải trình diện ngài.”
Sau khi Đức Hồng Y August
Hlond qua đời vào năm 1948, lúc đó Đức Hồng Y Stefan Wyszynski là
giáo chủ.
‘Đô đốc’ trả lời: “Được rồi, con sẽ lo liệu.”
Và như vậy, tới ngày đó, tôi đã
rời nhóm để đến nhà ga xe lửa gần nhất là Olsztynek. (Olsztynek là
một thị trấn nhỏ ở về phía tây nam Olsztyn).
Vì biết mình phải trình diện Đức
Hồng Y Giáo Chủ, khi vượt qua sông Lyna, tôi đã tiên liệu và để lại nơi những
người mà tôi quen biết tại Varsovie, chiếc áo dòng mặc trong những ngày lễ. Quả
thật, khó mà đến với Đức Giáo Chủ với chiếc áo dòng tôi mang theo trong những
cuộc thám hiểm bằng xuồng. Trong những cuộc thám hiểm như thế, tôi luôn mang
theo một chiếc áo dòng và những áo lễ để cử hành Thánh Lễ.
Vì vậy trước hết tôi bơi xuồng
trên sông, rồi chuyển sang một chiếc xe vận tải chở những bao bột mì cho tới
Olsztynek. Chiếc xe lửa đi Varsovie khởi hành trễ giữa đêm khuya. Vì vậy tôi đã
mang theo một chiếc áo ấm bằng lông, vì nghĩ rằng sẽ ngủ đôi chút ở nhà ga
trong khi chờ đợi chuyến tàu. Tôi đã xin một người gần đó đánh thức tôi dậy.
Nhưng điều đó không cần thiết, bởi vì tôi không thể chợp mắt được.
Tại Varsovie, tôi trình diện ở
tòa tổng giám mục, đường Miodowa, theo giờ giấc đã ấn định. Tôi nhận thấy tại
tòa tổng giám mục có ba linh mục khác cũng được triệu tập cùng với tôi.
Đó là cha Wilhelm Pluta ở
Silésie. (Silésie là một vùng ở phía tây nam Ba-lan và là đối tượng
tranh chấp trong nhiều thế kỷ ở giữa người Ba-lan và người Đức, nhưng cuối cùng
thuộc về Ba-lan sau Đệ Nhị Thế Chiến). Cha là cha xứ Bochnia thuộc giáo
phận Tarnow. (Tarnow ở vùng Carpates là một trong những thành phố cổ
kính của Ba-lan, cách Cracovie độ 80 cây số).
Hai cha xứ kia là Michael
Blecharczyk và Jozef Drzazga ở Lublin.
Vào lúc đó, tôi không nhận ra sự
trùng hợp. Chỉ về sau tôi mới hiểu rằng chúng tôi đã được triệu tập cũng vì một
nguyên nhân giống nhau.
Khi đi vào trong văn phòng Đức
Giáo Chủ là Đức Hồng Y Stefan Wyszynski, tôi mới vỡ lẽ ra là Đức Thánh Cha đã
bổ nhiệm tôi làm giám mục phụ tá cho Đức Tổng Giám Mục Cracovie. Vì chưng, vào
tháng hai cũng năm đó (1958) Đức Cha Stanislaw Rospond đã qua đời. Trong
nhiều năm, ngài là giám mục phụ tá Cracovie vào thời điểm mà Đức Tổng Giám Mục
tổng giáo phận là Đức Hồng Y hoàng tử Adam Sapieha.
Đợi đến khi Đức Giáo Chủ nói hết
quyết định của Tòa Thánh, tôi trả lời: “Thưa
Đức Hồng Y, con còn trẻ quá: con chỉ mới 38 tuổi!”
Nhưng Đức Giáo Chủ đáp: “Đó là một nhược điểm mà cha sẽ tự giải kết
mau chóng! Tôi xin cha đừng cưỡng lại ý muốn của Đức Thánh Cha.”
Lúc bấy giờ tôi chỉ thưa một
tiếng: “Con xin chấp nhận.”
Đức Giáo Chủ kết thúc: “Vậy chúng ta đi ăn trưa.”
Đức Hồng Y Stefan Wyszynski đã
mời tất cả bốn chúng tôi ăn trưa. Do đó tôi được biết cha xứ Wilhelm Pluta
được bổ nhiệm giám mục ở Gorzow Wielkopolski lúc bấy giờ là giám hạt tông tòa
lớn nhất ở Ba-lan, bao gồm Szczecin và Kolobrzeg, nghĩa là một trong những giáo
phận kỳ cựu nhất, vì chưng Kolobrzeg được thiết lập năm 1000 cùng lúc với tổng
giáo phận Gniezno mà Kolobrzeg trực thuộc, ngoài ra còn có Cracovie và Wroclaw
cũng trực thuộc nữa. (Wroclaw là thành phố đứng thứ tư xét về mặt dân
số, ở vùng Hạ-Silésie, trên sông Odra, cách Cracovie 270 cây số và cách
Varsovie 300 cây số).
Cha xứ Jósef Drzazga được
bổ nhiệm giám mục phụ tá Lublin (về sau ngài được đổi sang Olsztyn) và cha xứ Michal
Blecharzyk ở Tarnów cũng là giám mục phụ tá nữa.
Sau cuộc yết kiến đó – xem ra rất
quan trọng đối với cuộc đời tôi – tôi nhận ra rằng tôi không thể ngay lập tức
trở lại với bạn bè của tôi cũng như với chiếc xuồng của tôi. Trước hết tôi phải
đi Cracovie để thông báo với Đức Tổng Giám Mục của tôi là Đức Cha Eugeniusz
Baziak.
Trong lúc chờ đợi chuyến tàu đêm
sẽ đưa tôi đi Cracovie, tôi đã cầu nguyện hằng giờ trong nguyện đường các nữ tu
dòng Ursuline ở đường Wislana, Varsovie.
Đức Cha Eugeniusz Baziak là tổng
giám mục Lvov theo nghi lễ La-tinh, đã chia sẻ định mệnh của hết những người
được gọi là di dân: ngài đã phải rời bỏ Lvov. (Lvov là thành phố của
Ba-lan được thành lập năm 1256 bởi các hoàng tử hạt Halicz, nhưng bị sáp nhập
vào Liên Bang Sô-viết và trở thành tây đô của Ukraine vào năm 1945).
Lúc bấy giờ ngài định cư ở Lubaczow,
một phần nhỏ nhoi của giáo phận Lvov. (Lubaczow là một thành phố nhỏ bé
ở miền đông nam Ba-lan, gần biên giới Ukraine). Sau hiệp định Yalta, Lubaczow
sáp nhập trở lại với Cộng Hòa nhân dân Ba-lan.
Năm trước khi qua đời, hoàng tử
Adam Sapieha là tổng giám mục Cracovie, đã xin Đức Tổng Giám Mục Baziak bị bắt
buộc rời bỏ tổng giáo phận của mình, làm phụ tá cho ngài. Như vậy sứ vụ giám
mục của tôi đã liên kết theo thứ tự niên đại vào bản thân vị giáo sĩ bị nhiều
thử thách đó.
Ngày hôm sau khi đến Cracovie,
tôi trình diện Đức Cha Eugeniusz Baziak ở số 3 đường Franciszkanska và
tôi đã trao cho ngài lá thư của Đức Hồng Y Giáo Chủ. Tôi còn nhớ lại như xảy ra
ngày hôm nay, khi Đức Tổng Giám Mục cầm tay tôi và dẫn tôi vào phòng khách mà ở
đó vài linh mục đang ngồi. Bấy giờ ngài nói lên:
“Habemus papam!” (“Chúng
ta đã có Đức Thánh Cha”).
Dưới ánh sáng của những biến cố
tiếp theo sau đó, người ta có thể nói được rằng đó là những lời nói có tính
cách tiên tri.
Tôi thổ lộ với Đức Tổng Giám Mục
là tôi ao ước được trở về Mazurie để gặp lại nhóm bạn hữu của tôi đang chèo
xuồng trên sông Lyna. Ngài trả lời: “Từ
nay, có lẽ điều đó không còn thích hợp nữa!”
Thay vì buồn bã bởi câu trả lời
đó, tôi đã vào nhà thờ dòng Phan-xi-cô và đi đàng thánh giá, suy ngắm những
chặng đàng được Jósef Mehơffer vẽ. Tôi tự ý vào nhà thờ đó để đi đàng thánh
giá, bởi vì tôi thích những chặng đàng vừa độc đáo vừa tân thời.
Kế đó, tôi trở lại nơi Đức Cha
Baziak, lặp lại lời cầu xin của tôi. Tôi thưa: “Thưa Đức Cha, con thấu hiểu nỗi ưu tư của Đức Cha, nhưng con cũng cứ
xin Đức Cha cho phép con trở lại Mazurie.”
Lần nầy ngài đáp: “Được, được, Đức Cha cứ đi. Ngài còn nói thêm
với một nụ cười: nhưng xin Đức Cha nhớ trở về cho kịp lễ tấn phong.”
Ngay đêm đó, tôi lấy xe lửa đi
Olsztyn. Tôi đã mang theo quyển sách của Hemingway là “Ngư Ông và Biển Cả”.
Tôi đã đọc hầu như suốt đêm, chỉ chập chờn đôi lúc. Tôi cảm thấy một tình cảm
là lạ hầu như đang xâm chiếm lấy mình tôi…
Khi đến Olsztyn, tôi gặp lại bạn
bè trong nhóm đã tới và đang chèo xuồng theo dòng sông Lyna. Vị ‘đề đốc’ đến
kiếm tôi ở nhà ga và nói: “Vậy là họ đã
chọn cha làm giám mục?”
Tôi trả lời đúng. Và anh ta nói
thêm: “Đúng thế…Trong thâm tâm con, con
đã tưởng tượng ra y như thế và con xin chúc mầng cha.”
Thật thế, trước đó ít lâu, khi cử
hành Thánh Lễ kỷ niệm 10 năm linh mục, anh ta đã cầu chúc tôi như thế. Ngày tôi
được bổ nhiệm giám mục, tôi làm linh mục chưa được 12 năm.
Tôi đã ngủ ít và khi đến nơi, tôi
đâm ra mệt. Tuy nhiên, trước khi đi nằm nghỉ, tôi đã đến nhà thờ dâng Thánh Lễ.
Nhà thờ được cha tuyên úy đại học làm quản nhiệm và lúc bấy giờ là cha Tokarczuk,
vị giám mục tương lai. Sau đó, tôi có thể đi ngủ được.
Khi thức dậy, tôi nhận thấy tin
bổ nhiệm tôi làm giám mục được loan truyền, bởi vì cha Tokarczuk đã gọi tôi
bằng những lời nầy: “Chà! vị tân giám
mục, xin chúc mừng!”
Tôi cười rồi đi gặp nhóm bạn bè.
Tôi kéo xuồng ra. Nhưng khi tôi bắt đầu chèo, một lần nữa, một cảm giác hơi lạ
xâm chiếm lấy tôi. Sự trùng hợp giữa những ngày tháng đã đập mạnh vào trí óc
tôi: ngày tôi được bổ nhiệm giám mục là 4 tháng 7 và chính đó là ngày thánh
hiến nhà thờ chính tòa Wawel.
Tọa lạc trên đồi Wawel ở
Cracovie, nhà thờ chính tòa Wawel là một trong những tòa nhà kiến trúc theo
kiểu “gô-tic” đẹp nhất ở Âu châu được xây dựng giữa những năm 1320 và 1364.
Những nhà nguyện của nhà thờ chính tòa nầy đã che chở những ngôi mộ các vì vua
chúa và những vị thánh bổn mạng nước Ba-lan.
Đó là một ngày kỷ niệm luôn vang
động trong tâm trí tôi. Đối với tôi, sự trùng hợp đó xem ra muốn nói lên một
điều gì. Tôi thiết nghĩ có thể đó là lần cuối cùng tôi có thể chèo xuồng. Trong
thực tế, tôi phải nói thêm điều nầy là tôi còn có thể bơi xuồng trên những dòng
sông và những mặt hồ miền Mazurie. Thật thế, tôi có thể bơi xuồng như vậy cho đến
năm 1978.
3.- Kế vị các
tông đồ
Sau kỳ nghỉ hè, tôi trở lại
Cracovie. Lúc bấy giờ bắt đầu sửa soạn lễ tấn phong được ấn định vào ngày 28
tháng 9 là ngày lễ Thánh Venceslas, thánh bổn mạng nhà thờ chính tòa
Wawel. Sự cung hiến nhà thờ lịch sử đó cho Thánh Venceslas nhằm làm nổi bật
những tương quan cổ xưa của đất nước Ba-lan với xứ Bohême, bởi vì Thánh
Venceslas là một quận công của xứ Bohême đã tử vì đạo dưới tay anh mình. Do đó
Bohême tôn kính Ngài như thánh bổn mạng.
Cuộc tĩnh tâm trở nên một giai
đoạn chủ yếu trong việc chuẩn bị tôi được tấn phong giám mục. Tôi đã tĩnh tâm ở
Tyniec. (Tyniec là đan viện Biển Đức cách Cracovie 12 cây số về phía tây
nam, được xây cất trên một mũi nhô ra biển vào thế kỷ mười một.) Tôi thường hay
đến đan viện lịch sử đó.
Lần nầy tôi lưu lại ở đó với tính
cách đặc biệt lạ thường. Tôi sẽ trở thành giám mục và kể từ đây tôi đã được bổ
nhiệm. Nhưng còn khá nhiều thời gian trước khi được tấn phong, còn hơn hai
tháng nữa. Tôi phải tận dụng thời gian tĩnh tâm nầy cách tốt đẹp nhất.
Cuộc tĩnh tâm của tôi kéo dài sáu
ngày – sáu ngày chiêm niệm. Chúa ơi, nội dung thật phong phú và có chất lượng
biết bao! “Người kế vị các tông đồ” – chính đó là những chữ mà tôi đã
được nghe trong những ngày đó, trên đôi môi của một nhà vật lý học tôi quen
biết. Dĩ nhiên, những ai tin tưởng thì chấp nhận một tầm mức quan trọng đặc
biệt cho việc kế thừa tông đồ đó.
Tôi – một “người kế vị” – tôi đã
suy nghĩ đến các tông đồ của Chúa Kitô với rất nhiều khiêm tốn, nghĩ đến một sự
liên tục lâu dài của các giám mục, qua sự đặt tay lên đầu, đã truyền lại cho
những người kế vị các ngài được tham gia vào trọng trách tông đồ. Bây giờ đây
họ cũng trao lại cho tôi nữa. Tôi cảm thấy mình trên phương diện cá nhân được
liên kết với mỗi vị trong các đấng ấy.
Một số vị trong các đấng, trong
dây xích kế tục, đã đi trước chúng ta. Và chúng ta là những giám mục ngày nay,
chúng ta biết tên các ngài nữa. Nhiều vị trong các ngài được biết đến, bởi vì
những công tác mục vụ của các ngài rất đáng ghi nhớ.
Nhưng cả trong trường hợp các
giám mục thời xa xưa cho đến nay chúng ta không biết đến, có thể nói được rằng
ơn gọi giám mục của họ và công tác của họ vẫn tồn tại mãi mãi “và hoa trái của anh em tồn tại”
(Gio 15, 16). Điều đó thể
hiện được cũng nhờ chúng ta nữa là những người kế vị các thánh tông đồ.
Nói chính xác hơn, nhờ việc đặt
tay của họ, bằng vào sự hiệu nghiệm của bí tích truyền chức, nhờ thế chúng ta
được liên kết với Chúa Kitô là Đấng đã chọn họ và chọn chúng ta “trước cả khi tạo thành vũ trụ” (Ep 1, 4). Một tặng phẩm và huyền
nhiệm tuyệt diệu biết bao!
“Nầy đây vị thượng tế suốt đời
làm đẹp lòng Thiên Chúa …Vì vậy Thiên Chúa đã cam kết thề nguyền làm cho Ngài
lớn lên đứng đầu dân mình.” Người ta đã hát như vậy trong phụng vụ. Vị
thượng tế tối cao duy nhất của giao ước mới và đời đời, chính là Chúa Giêsu
Kitô. Ngài đã dâng hiến lễ hy sinh trong chức tư tế bằng cách chết trên thập
giá và trao ban sự sống Ngài cho đoàn chiên, cho toàn thể nhân loại.
Chính Ngài, hôm trước cuộc hiến
tế đẫm máu trên thánh giá, đã thiết lập, trong bữa tiệc ly, bí tích truyền chức
thánh. Chính Ngài cầm bánh trong tay và đọc những lời nầy: “Đây là mình Thầy bị trao nộp vì chúng
con.” Sau đó chính Ngài cầm chén rượu trong tay và đọc những lời nầy: “Đây là chén máu Thầy sẽ đổ ra cho các
con và cho nhiều người, để được tha tội.” Và cuối cùng Ngài nói thêm: “Các con hãy làm việc nầy để nhớ đến Thầy.”
Ngài đã nói điều đó trước mặt các
tông đồ, trước mười hai vị mà Phê-rô là người đứng đầu. Ngài đã nói với họ: “Các con hãy làm việc nầy để nhớ
đến Thầy.” Chính như vậy Ngài đã đặt để họ làm linh mục giống Ngài,
Linh Mục duy nhất và tối cao của giao ước mới.
Có lẽ các tông đồ đã dự phần vào
bữa tiệc ly không hiểu tức thời tất cả ý nghĩa của những lời nói đó sẽ được
thực hiện ngày hôm sau, khi thân thể Chúa Giêsu được trao phó thật sự để chịu
chết và máu Ngài bị đổ ra khi chịu khổ hình thập giá.
Có thể ngay lúc đó, họ chỉ hiểu
là họ phải làm lại nghi lễ bữa tiệc ly với bánh và rượu. Bởi vì sách “Công
Vụ Tông Đồ” thuật lại là sau biến cố Phục Sinh, những Kitô hữu đầu tiên
trung thành trong việc “bẻ bánh và
cầu nguyện không ngừng” (Cv
2, 42). Và vào thời điểm đó, ý nghĩa lễ nghi trở nên rõ ràng cho chúng ta từ
đó.
Theo nghi lễ Giáo Hội, thứ năm
tuần Thánh là ngày tưởng niệm bữa tiệc ly và việc thiết lập bí tích Thánh Thể.
Từ phòng họp ở Giê-ru-sa-lem, việc cử hành Thánh Thể dần dần lan ra cả thế giới
thời bấy giờ. Trước tiên chính các tông đồ chủ tọa việc cử hành Thánh Thể ở
Giê-ru-sa-lem. Về sau, khi Phúc Âm càng phổ biến, họ đã cử hành Thánh Thể – bởi
chính họ hay bởi những người mà họ đã “đặt tay” – ở những nơi luôn luôn mới,
bắt đầu từ Tiểu Á.
Cuối cùng, với Thánh Phê-rô và
Thánh Phao-lồ, việc cử hành Thánh Thể đã đến Roma, vào thời kỳ chủ yếu của thế
giới lúc bấy giờ. Nhiều thế kỷ sau, Thánh Thể đã được cử hành ở Vistule.
(Vistule là miền có con
sông lớn nhất của Ba-lan, dài 1092 cây số mà 940 cây số tàu bè qua lại được.
Sông nầy bắt nguồn từ phía tây Carpates và làm thành một vòng cung trong vùng
đồng bằng nước Ba-lan, băng qua Varsovie, trước khi đổ ra bể Baltique. Vùng đó
khí hậu đại lục nên dòng sông Vistule mỗi năm bị băng giá hai ba tháng. Đó là
con sông biểu hiện cho Ba-lan, được nhiều thi sĩ ca tụng.)
Tôi hồi tưởng trong thời gian
tĩnh tâm trước khi chịu chức giám mục, tôi đã cảm tạ Chúa cách đặc biệt bởi vì
Phúc Âm và Thánh Thể đã đến vùng sông Vistule và cũng đến Tyniec nữa. Đan viện Tyniec
ở ngoại ô Cracovie mà việc xây cất khởi đầu từ thế kỷ mười một, đúng là nơi
thích hợp để tôi có thể chuẩn bị lãnh nhận việc phong chức giám mục ở nhà thờ
chính tòa Wawel.
Vào năm 2002, trong chuyến tông
du mục vụ ở Cracovie, trước khi đáp chuyến máy bay trở về lại Roma, tôi đã có
thể thăm viếng Tyniec, cho dù trong thời gian ngắn ngủi, như để trả món nợ biết
ơn đối với cá nhân tôi. Có thể không phải riêng mình tôi thôi, mà cả toàn quốc
Ba-lan nữa.
Ngày 28 tháng 9 năm 1958 từ từ
tiến lại gần. Trước khi được tấn phong, tôi đã chính thức đến Lubaczóm
như là giám mục được bổ nhiệm, nhân dịp ngân khánh giám mục của Đức Tổng Giám Mục
Baziak. Đó là ngày lễ Đức Bà Bảy Sự Thương Khó được cử hành ngày 22 tháng 9 tại
Lvov.
Tôi đến đó cùng một lượt với hai
giám mục ở Przemysl là các Đức Cha Franciszek Barda và Wojciech Tomaka.
(Przemysl là thành phố tráng lệ từ thời Trung Cổ, ở phía đông nam
Ba-lan, gần biên giới Ukraine). Cả hai ngài rất lớn tuổi hơn tôi, vì tôi chỉ
mới 38 tuổi. Tôi cảm thấy hơi bối rối. Chính đó là những “thử thách” đầu tiên
trong cương vị giám mục của tôi. Một tuần sau là lễ tấn phong giám mục ở Wawel
4.- Nhà thờ
chính tòa Wawel
Từ thuở thiếu thời, tôi cảm
nghiệm một sự gắn bó thật đặc biệt đối với nhà thờ chính tòa Wawel. Tôi không
nhớ rõ tôi đã đi tới đó lúc nào, nhưng kể từ khi tôi bắt đầu lui tới, tôi cảm
thấy nhà thờ chính tòa đó đã hấp dẫn và liên kết tôi một cách lạ thường. Một
cách nào đó, nhà thờ chính tòa Wawel đã chứa đựng tất cả lịch sử quốc gia
Ba-lan.
Tôi đã trải qua một thời kỳ bi
thảm khi quân đội Đức Quốc Xã đặt để bản doanh vị toàn quyền của họ trong lâu
đài Wawel và họ đã kéo cờ chữ vạn lên trên đỉnh đồi. Điều đó đối với tôi là một
kinh nghiệm vô cùng đớn đau. Nhưng cuối cùng đã đến ngày lá cờ chữ vạn biến mất
và những biểu hiệu của đất nước Ba-lan đã được treo lên trở lại.
Nhà thờ chính tòa hiện nay đã có
từ thời đại đế Casimir III. (Đại đế Casimir III trị vì từ 1333-1370).
Trước mắt tôi hiện đang lần lượt diễn ra những phần khác nhau của ngôi thánh
đường đó với những tòa nhà tương ứng. Chỉ cần đi qua gian giữa và những gian
bên hông để khám phá những xác ướp của các vì vua Ba-lan.
Và nếu người ta bước xuống những
hầm mộ các thi sĩ, người ta sẽ gặp những mộ phần của Mickiewicz Adam, Slowacki
Juliusz và sau cùng Norwid Cyprian Kamil. (Mickiewicz Adam là thi sĩ
Ba-lan nổi tiếng nhất, đã phục hoạt xã hội kín của giới trí thức nhằm quảng bá
lý tưởng ái quốc để chống lại sự đàn áp của Nga hoàng. Còn Slowacki Juliusz
– thi sĩ kiêm soạn kịch gia – là một trong những thi sĩ lãng mạn nổi tiếng của
Ba-lan cùng với Mickiewicz và Norwid).
Như tôi đã nhắc tới trong sách “Ơn
Gọi Của Tôi: Tặng Phẩm và Huyền Nhiệm”, tôi ước mong cử hành Thánh Lễ đầu
tiên của tôi ở Wawel, trong hầm mộ Thánh Léonard ở dưới nhà thờ chính
toà và đã được như thế. Hẵn nhiên điều ao ước đó đến từ tình yêu sâu lắng mà
tôi đã cảm nghiệm đối với tất cả những gì mang một dấu ấn quê hương tôi. Nơi đó
rất thân thương đối với tôi vì mỗi một viên đá nhắc nhở tới đất nước Ba-lan,
tới sự vĩ đại của Ba-lan.
Tất cả cấu trúc của ngọn đồi
Wawel rất thân thương đối với tôi: nhà thờ chính tòa, đền đài và cung điện. Gần
đây khi tôi trở lại Cracovie, tôi cũng đã đến nhà thờ chính tòa Wawel và ở đó
tôi đã cầu nguyện trên mộ phần Thánh Stanislas. Tôi không thể đánh mất một dịp
thăm viếng nhà thờ chính tòa đó đã đón tiếp tôi trong hai mươi năm trước đây.
Nơi tôi quí mến nhất ở trong nhà
thờ chính tòa Wawel là hầm mộ Thánh Léonard. Đó là phần cổ kính của nhà
thờ chính tòa lùi lại thời vua Boleslas III. (Vua Boleslas III Krzywousty
[1102-1138] là nhà vua đã thống nhất Ba-lan nhưng lại thiết lập “viện trưởng
lão” cho phép phân chia vương quốc giữa các hoàng tử: điều nầy trong thực tế đã
đưa đến việc chia cắt đất nước).
Chính hầm mộ chứng tỏ những thời
kỳ cổ xưa hơn nữa, bởi vì nhắc nhở lại những vị giám mục đầu tiên vào lúc khởi
đầu thế kỷ mười một – thời kỳ bắt đầu phả hệ giám mục Cracovie. Những vị giám
mục đầu tiên mang những tên hơi huyền bí: Prokop và Prokulf, hình
như có nguốn gốc Hy-lạp.
Rồi dần dần xuất hiện rất thông
thường những tên thuộc dân tộc “Slave” như Stanislas Szczepanów
đã trở thành giám mục Cracovie năm 1072. Vào năm 1079, ngài bị ám sát bởi những
người do vua Boleslas II sai tới khi ngài đang dâng Thánh lễ. Về sau, vua nầy
phải trốn khỏi nước và có lẽ đã chấm dứt những ngày còn lại ở Osjak, như để sám
hối. Ngài được phong thánh năm 1253 và là một trong những vị thánh bổn mạng
Ba-lan.
Khi tôi trở thành tổng giám mục
Cracovie, và từ Roma trở về Cracovie, tôi đã dâng Thánh Lễ ở Osjak. Và
chính nơi đó tôi cảm thấy gợi lại một cách thi vị biến cố xảy ra biết bao thế
kỷ rồi về bài thơ nhan đề Stanislas.
Thánh Stanislas là “Người Cha của Tổ Quốc”. Chúa nhật tiếp
theo sau ngày 8 tháng 5, người ta đi kiệu trọng thể từ Wawel đến Skalka. Dọc
theo lộ trình, những người tham dự hát những bài hát được xen kẻ bởi điệp khúc:
“Lạy Thánh Stanislas, thánh bổn mạng
chúng tôi, cầu cho chúng tôi!” Cuộc rước kiệu từ trên đồi Wawel đi xuống,
băng qua các con đường Stradon và Krakowska, tiếp tục về hướng Skalka mà ở đó
thường có một vị giám mục được mời tới dâng Thánh Lễ.
Sau Thánh Lễ, đoàn rước kiệu trở
lại cũng những con đường đó cho đến nhà thờ chính tòa và những thánh tích của
Thánh Stanislas được rước đi trong hòm thánh tích lộng lẫy được đem đặt trên
bàn thờ.
Dân chúng Ba-lan tin chắc sự
thánh thiện của vị giám mục đó và họ đã nhiệt thành ra sức xin phong thánh cho
Ngài và kết quả đã xảy ra ở Assise vào thế kỷ mười ba. Ở trong thành phố
Ombrie, người ta đã cất giữ cho tới ngày nay những bức tranh về Thánh
Stanislas.
Trong nhà thờ chính tòa Wawel,
bên cạnh Tòa Giải Tội của Thánh Stanislas là ngôi mộ Thánh
nữ hoàng Hedwige cũng tạo nên một kho tàng vô giá. Những thánh tích của
nữ thánh được đặt dưới cây thánh giá nổi tiếng của Wawel vào năm 1987, nhân
chuyến tông du thứ ba của tôi trên đất nước tôi.
Ở dưới chân thánh giá đó, Hedwige
lúc lên mười hai tuổi, đã quyết định kết hôn với hoàng tử nước Lituanie là Ladislas
Jagellon. Quyết định đó vào năm 1386 đã đưa nước Lituanie vào trong đại gia
đình những nước Kitô giáo.
Tôi nhớ lại ngày 8-6-1997 với
nhiều xúc động khi ở Blonia Cracovie, trong lễ phong thánh cho vị nữ
hoàng, tôi đã bắt đầu bài giảng bằng những lời nầy: “Hởi Hedwige, bà đã chờ đợi ngày trọng đại nầy rất lâu…gần sáu trăm năm
sau.” Nhiều hoàn cảnh khác nhau khó nói ra hết được lúc bây giờ, đã góp
phần vào việc trễ tràng nầy.
Đã từ lâu, tôi ấp ủ niềm ao ước
là “Người Đàn Bà ở Wawel” có thể mang
tước hiệu nữ thánh theo ý nghĩa của giáo luật một cách chính thức và ngày đó đã
được thể hiện. Tôi cảm tạ Chúa. Sau bao thế kỷ chờ đợi, Chúa đã chấp thuận cho
tôi thực hiện niềm khát vọng đó rất thân tình trong con tim của nhiều thế hệ
dân nước Ba-lan.
Tất cả những kỷ niệm đó được nối
kết một cách nào đó nhân ngày lễ tấn phong giám mục của tôi. Theo một nghĩa nào
đó, lễ tấn phong nầy đã trở thành một biến cố lịch sử, bởi vì lễ tấn phong giám
mục trước đây đã diễn ra khá lâu, vào năm 1926. Lúc bấy giờ vị tiến chức là Đức
Cha Stanislaw Rospind. Và bây giờ chính là tôi.
5.- Ngày lễ tấn
phong: trung tâm điểm Giáo Hội
Bấy giờ đã đến ngày 28 tháng 9 –
ngày lễ kính nhớ Thánh Venceslas. Lễ tấn phong giám mục của tôi được ấn
định vào ngày đó. Biến cố trọng đại nầy luôn diễn ra trước mắt tôi. Có thể nói
được vào thời kỳ đó phụng vụ phong phú hơn bây giờ.
Tôi nhớ lại mỗi một người đã dự
phần vào đó. Theo tập quán, người ta hiến dâng những tặng phẩm tượng trưng cho
Đức Giám Mục chủ phong. Một thùng rượu nhỏ và một mẩu bánh mì là những của lễ
trong những thứ khác được vài bạn hữu của tôi mang lên.
Trước hết là Zbyszek Silkowski,
bạn học lúc còn ở bậc trung học và Jurek Ciesielski ngày nay là Tôi Tớ
Chúa. Thứ đến là Marian Wójtowicz và Zdzislaw Heydel. Hình như
còn có Stanislaw Rybicki nữa. Chắc chắn cha Kzimierz Figlewicz là
linh hoạt nhất. Ngày đó mây mù, nhưng cuối cùng mặt trời cũng đã xuất hiện. Như
một điềm lành, một tia sáng mặt trời đã giọi xuống trên vị tiến chức đáng
thương là tôi.
Sau khi đọc Phúc Âm, ca đoàn
xướng lên bài hát:
Lạy Chúa Thánh Thần xin
hãy đến
Thăm viếng những tâm hồn
Ngài;
Làm đầy ân sủng từ trời
cao
Trên những con tim Ngài
đã tạo dựng…
Tôi đã lắng nghe bài thánh ca đó
và một lần nữa – cũng như khi tôi được phong chức linh mục – một sự trong sáng
còn lớn hơn nữa đã làm sống dậy nơi tôi ý thức rằng tác nhân của lễ tấn phong
trong thực tế là Thánh Thần Chúa.
Đối với tôi, đó là một niềm an ủi
khi đứng trước mọi nỗi sợ hãi của con người phải nhận lãnh một trọng trách nặng
nề như thế: Thánh Thần Chúa sẽ soi sáng tôi, ban sức mạnh cho tôi, an ủi tôi,
dạy dỗ tôi…Phải chăng đó không phải là lời hứa Chúa Kitô đã cam kết với các
tông đồ sao?
Trong nghi thức phụng vụ, những
hành động khác nhau mang tính cách tượng trưng đã nối tiếp, mỗi hành động có ý
nghĩa riêng. Đức Giám Mục chủ phong đặt những câu hỏi liên hệ đến đức tin và
đời sống.
Câu hỏi cuối cùng như sau:
“Đức Cha có muốn kêu xin Chúa
toàn năng không ngừng nghỉ cho dân thánh Chúa và thi hành một cách không thể
chê trách chức vụ đại tư tế và mục tử không?”
Để trả lời câu hỏi đó, vị tiến
chức thưa:
“Dạ, con muốn, với ơn Chúa.”
Lúc bấy giờ Đức Giám Mục chủ tế
kết thúc như sau:
“Xin chính Thiên Chúa hoàn tất
nơi Đức Cha những gì Ngài đã bắt đầu!”
Lại một lần nữa ý tưởng nầy xảy
đến trong trí óc tôi, mang lại một sự tín thác bình tâm trọn vẹn: giờ đây Chúa
bắt đầu nơi bạn công việc của Ngài; bạn đừng sợ hãi, hãy ký thác đường đời của
bạn cho Chúa; chính Ngài sẽ hành động và sẽ hoàn tất những gì Ngài đã thực hiện
(xem Tv 36 [37], 5).
Trong hết mọi cấp bậc tấn phong
(phó tế, linh mục, giám mục), vị tiến chức nằm phủ phục trên mặt đất. Đó là dấu
hiệu tận hiến chính mình cho Chúa Kitô, cho Đấng – để hoàn thành sứ vụ tư tế –
“đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc
lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn
hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự.”
(Phi-líp 2, 7-8)
Một cử chỉ như thế tái diễn mỗi
thứ sáu tuần thánh khi linh mục chủ tọa cộng đoàn phụng vụ, cũng nằm xuống
trong thinh lặng. Trong tam nhật phục sinh, không cử hành Thánh lễ vào ngày đó:
Giáo Hội trầm tĩnh để suy tư sự Thương Khó của Chúa Kitô, bắt đầu từ cơn hấp
hối của Ngài ở vườn Giết-sê-ma-ni, khi chính Ngài sụp mình xuống đất cầu
nguyện. Trong tâm hồn vị chủ tế luôn vang động mạnh mẽ tiếng đồng vọng của lời
Ngài cầu xin: “Anh em ở lại đây mà
canh thức với Thầy.” (Mt
26, 38).
Tôi nhớ lại thời điểm đó, khi tôi
nằm xuống đất và dân chúng hát kinh cầu các Thánh, Đức Giám Mục chủ tế đã mời
gọi cộng đồng:
“Đối với người đã được tuyển
chọn, cùng với tất cả các Thánh ở trên trởi, chúng ta hãy cầu xin Chúa là Chúa
chúng ta: trong lòng từ nhân của Ngài và vì lợi ích của Giáo Hội, xin Chúa ban
cho vị tiến chức ân sủng dồi dào.”
Rồi thì kinh cầu các Thánh bắt
đầu:
Xin Chúa thương xót chúng
con,
Xin Chúa Kitô thương xót
chúng con…
Thánh Maria, Mẹ Thiên
Chúa,
Thánh Mi-ca-e,
Các thánh thiên thần của
Chúa…,
Cầu cho chúng con!
Tôi sùng kính thiên thần bản mệnh
một cách đặc biệt. Từ thuở thiếu thời, có lẽ cũng như những đứa trẻ khác, tôi
đã kêu cầu vô số lần: “Lạy thiên thần của Chúa, ngài là người canh giữ tôi,
xin soi sáng cho tôi, giữ gìn tôi, hướng dẫn tôi và cai quản tôi…” Thiên
thần bản mệnh của tôi biết tôi đang làm gì. Sự tín thác của tôi nơi Ngài, trước
sự hiện diện che chở của Ngài, không ngừng lắng sâu ở trong tôi.
Thánh thiên thần Mi-ca-e,
Gabriel, Raphael là những tổng lãnh thiên thần mà tôi năng kêu cầu trong lời
kinh nguyện. Tôi cũng nhớ lại bài chuyên luận tuyệt đẹp của Thánh Tô-ma về các
thiên thần, những thần tinh khiết.
Thánh Gioan
Bao-ti-xi-ta,
Thánh Giu-se,
Thánh Phê-rô và
Phao-lồ,
Thánh An-rê,
Thánh Charles…,
Cầu cho chúng tôi!
Như người ta đã biết, tôi được phong chức
linh mục vào ngày lễ trọng thể kính Các Thánh Nam Nữ. Đối với tôi, ngày đó luôn
luôn là một đại lễ. Nhờ lòng từ nhân của Chúa, tôi được dâng lễ kỷ niệm chịu
chức linh mục của tôi vào ngày mà toàn thể Giáo Hội kính nhớ cộng đồng các
Thánh ở trên trời.
Từ trên trời cao, các Thánh cầu bàu nguyện
giúp để cộng đoàn giáo sĩ lớn lên trong sự hiệp thông dưới tác động của Thánh
Thần Chúa thúc đẩy việc thực hành đức bác ái: “Cũng như sự hiệp thông giữa Kitô hữu trên hành trình dương thế dẫn đưa
chúng ta tới gần Chúa Kitô hơn, cũng thế sự hiệp thông với các Thánh ở trên
trời kết hợp chúng ta với Chúa Kitô, để từ đó tuôn tràn, như từ Nguồn Suối và
từ Đầu, hết mọi ân sủng và sự sống của chính Dân Chúa.” (Ánh Sáng Muôn Dân, 50).
Sau khi kinh cầu các Thánh chấm dứt, vị
tiến chức đứng dậy và tiến lại gần vị chủ phong để vị nầy đặt tay lên đầu. Theo
Truyền Thống lùi lại từ thời các thánh tông đồ, cử chỉ chủ yếu đó mang ý nghĩa
sự truyền đạt Thánh Thần Chúa. Ngay sau đó, hai vị giám mục đồng tấn phong cũng
đặt tay trên đầu vị được tấn phong. Rồi vị giám mục chủ phong cùng với hai vị
giám mục đồng tấn phong đọc lời nguyện phong chức. Và như thế đã kết thúc cao
điểm của buổi lễ tấn phong giám mục.
Cần nhắc lại ở đây những ngôn từ của Hiến
Chế Công Đồng ‘Ánh Sáng Muôn Dân’: “Để chu toàn những trọng trách lớn lao đó, các tông đồ đã được tràn đầy
những ơn đặc biệt do Chúa Thánh Thần đổ tràn xuống trên họ (xem Cv
1, 8; 2, 4; Gio 20, 22-23) và
chính họ đã trao lại ơn tặng của Chúa Thánh Linh cho những cộng sự viên của họ,
qua việc đặt tay lên đầu (xem 1Tm 4, 14; 2Tm 1, 6-7).
Ơn
tặng của Chúa Thánh Linh được trao ban cho chúng ta qua việc tấn phong giám
mục…Rõ ràng Thánh Truyền, nhất là được diễn tả trong những nghi thức phụng vụ
và trong việc Giáo Hội – Đông cũng như Tây – qua sự đặt tay và những lời lẽ tấn
phong, ơn Chúa Thánh Thần được ban xuống và tính cách linh thánh được
in sâu, cho đến đỗi các giám mục, bằng một cách cao siêu và rõ rệt, đóng vai
trò của chính Chúa Kitô là Thầy, là Mục Tử và Thượng Tế, đã hành động trong
chính cá nhân Ngài.” (số 21)
6.- Những Giám Mục tấn phong
Tôi không thể không nêu lên ở đây cá nhân
vị chủ phong chính là Đức Tổng Giám Mục Eugeniusz Baziak. Tôi đã nhắc
đến tiểu sử phức tạp về đời sống và thừa tác vụ giám mục của ngài. Nguồn gốc
của ngài trong tư cách giám mục đã có một tầm vóc quan trọng đối với tôi, bởi
vì ngài là mắt xích nối kết trong sự kế thừa các tông đồ.
Ngài được tấn phong bởi Đức Tổng Giám Mục Boleslaw
Twardowski. Trước kia vị nầy đã được tấn phong bởi Đức Giám Mục Jósef
Bilczewski mà tôi rất vui mầng đã phong thánh thời gian gần đây tại
Phải chăng tất cả những điều đó không đưa
đường dẫn lối để tôi noi theo hay sao? Có thể nào tôi vượt ra ngoài truyền
thống thánh thiện của những vị đại mục tử đó của Giáo Hội được sao?
Dịp lễ tấn phong của tôi, hai vị giám mục
đồng tấn phong kia là Đức Cha Franciszek Jop ở
Trong thời gian Hồng Quân chiếm đóng, Đức
Cha Franciszek Jop đã được Chúa Quan Phòng gởi tới cho Cracovie. Đức Cha
Baziak bị biệt giam và Đức Cha Jop được chỉ định làm giám mục phó cho Cracovie.
Nhờ ngài, Giáo Hội của thành phố đó đã sống còn mà không bị thiệt hại lớn lao
nào trong thời gian đó.
Đức Cha Boleslaw Kominek cũng có
những liên hệ với Cracovie. Trong thời gian Hồng Quân chiếm đóng, lúc bấy giờ
ngài đã là giám mục Wroclaw, chính quyền Cộng Sản cấm ngài không được vào trong
giáo phận của ngài. Bấy giờ ngài định cư ở Cracovie như một giám mục. Chỉ về sau
đó ngài mới có thể tiếp nhận giáo phận
Cả hai ngài là những viên chức lớn lao của
Giáo Hội, qua những thời kỳ khó khăn, đã nêu gương cá nhân cao cả và qua đó
minh chứng lòng trung thành với Chúa Kitô và Phúc Âm Ngài. Làm sao tôi không
thể xét xem sự “thăng tiến” can trường thiêng liêng đó?
7.- Những cử chỉ phụng vụ trong
lễ tấn phong
Những cử chỉ phụng vụ đầy ý nghĩa khác của
lễ tấn phong giám mục lại trở về trong ký ức tôi. Trước hết là việc đặt để
quyển Thánh Kinh lên vai tiến chức, khi hát lời nguyện tấn phong. Ở đây, sự
giao hòa giữa biểu tượng và lời nói thật hùng hồn.
Ấn tượng đầu tiên khiến người ta tưởng tới
gánh nặng thuộc trách nhiệm của vị giám mục đối với Phúc Âm, tức tầm mức lời
mời gọi của Chúa Kitô đưa đến việc rao giảng Tin Mừng cho tới tận cùng trái
đất, bằng cách đem mạng sống mình ra minh chứng cho việc rao giảng.
Nhưng khi tiến sâu hơn vào trong ý nghĩa
biểu tượng đó, người ta nhận thấy chính điều đang thực hiện, bắt nguồn từ Phúc
Âm và đâm rễ sâu nơi Phúc Âm. Do đó vị được tấn phong giám mục có thể múc lấy
sự an ủi và cảm hứng trong sự nhận thức như thế. Chính ở dưới ánh sáng Tin Mừng
của sự Phục Sinh Chúa Kitô người ta mới hiểu được những lời kinh dưới đây một
cách hiệu nghiệm:
“Lạy Chúa xin đổ tràn trên người mà Chúa
đã chọn, sức mạnh đến từ Chúa, xin Thánh Thần Chúa tác động và dẫn dắt, Thánh
Thần mà Chúa đã ban cho Con yêu dấu của Chúa là Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã ban
chính mình Ngài cho các thánh tông đồ…”
(Sách
Lễ Roma – Lời Nguyện Tấn Phong)
Trong phụng vụ tấn phong giám mục, việc kế
tiếp là xức dầu thánh. Cử chỉ đó đã đâm rễ sâu trong những bí tích trước, khởi
đầu là bí tích thánh tẩy và thêm sức. Khi phong chức linh mục, dầu được xức ở
nơi tay; khi tấn phong giám mục, chính ở trên đầu. Cử chỉ đó còn nói lên sự
thông truyền Thánh Thần Chúa đi vào bên trong, chiếm hữu con người được xức dầu
và trở nên công cụ của Chúa Thánh Linh.
Việc xức dầu trên đầu đó mang ý nghĩa kêu
mời vị tiến chức nhận lãnh những trách nhiệm mới: bởi vì ở trong Giáo Hội vị
giám mục sẽ mang trọng trách điều khiển, điều đó ràng buộc ngài một cách trọn
vẹn. Việc xức dầu bởi Chúa Thánh Thần đó cũng bắt nguồn từ việc xức dầu của
Chúa Giêsu Kitô – Đấng Khâm Sai.
Danh từ Christos, “Kitô”,
được dịch ra tiếng Hy-lạp từ tiếng Do-thái Masiah, “Đấng Khâm Sai”,
có nghĩa là “được xức dầu”. Đối với dân Do-thái, được xức dầu nhân danh
Chúa là những người được Chúa chọn lựa để thi hành một sứ vụ đặc biệt. Có thể
đó là sứ vụ ngôn sứ, tư tế hay vương giả.
Nhưng danh xưng “khâm sai” trước tiên ám chỉ người phải đến để vĩnh viễn thiết lập
nưóc Thiên Chúa trong đó những lời hứa về sự cứu rỗi phải được thực hiện. Chính
Đấng đó phải “được xức dầu” bởi Thánh
Thần Chúa như ngôn sứ, tư tế và vương giả.
Cụm từ “Đức Kitô được xức dầu” đã
trở nên danh xưng đặc biệt của Chúa Giêsu, bởi vì ở nơi Ngài đã thực hiện một
cách trọn vẹn sứ vụ linh thánh được diễn tả bởi từ ngữ đó. Phúc Âm không nói
Chúa Giêsu được xức dầu bên ngoài bao giờ, như trong Cựu Ước, David hay Aaron
đã được xức dầu và dầu thơm chảy xuống trên bộ râu của họ (Xem TV 132 [133], 2).
Khi người ta nói tới việc “xức dầu”, người ta muốn ám chỉ việc xức
dầu trực tiếp của Chúa Thánh Thần ở trong tâm trí mà biểu hiệu và chứng từ là
sự thực thi trọn vẹn bởi Chúa Giêsu về sứ vụ mà Chúa Cha đã trao phó cho Ngài.
Đó là điều mà Thánh Giám Mục Irénée
đã diễn tả rất đúng: “Danh xưng Kitô hàm
ý Đấng xức dầu: Đấng đó đã được xức dầu và dầu thánh mà Đấng đó đã được xức.
Đấng xức dầu chính Chúa Cha; Đấng đã được xức dầu, chính Chúa Con; và được xức
dầu trong Thánh Linh, chính là dầu thánh.” (Xem Contre les heresies, III, 18, 3: Sources chrétiennnes, Paris 1984, p. 362).
Khi Chúa Giêsu sinh ra, các thiên thần loan
báo cho mục đồng: “Hôm nay một Đấng
Cứu Độ đã sinh ra cho anh em, trong thành vua Đavid. Ngài là Đấng Kitô Đức Chúa.”
(Lc 2, 11). Đức Kitô,
chính là Đấng Được Xức Dầu.
Với Ngài cũng nảy sinh việc xức dầu phổ
cập, thuộc về Đấng Cứu Thế và có tính cách cứu rỗi mà hết thảy những ai nhận
lãnh bí tích thánh tẩy đều được dự phần, cũng như việc xức dầu đặc biệt mà
chính Ngài – Đức Kitô – đã muốn các giám mục và linh mục dự phần: họ là những
người được tuyển chọn với trách vụ tông đồ đối với Giáo Hội của Ngài.
Dầu thánh, biểu hiệu quyền năng của Thánh
Thần Chúa đã đổ xuống trên đầu chúng ta, đã ghi khắc chúng ta vào công trình
của Chúa Cứu Thế cho phần rỗi. Cũng một trật, việc xức dầu đó mà chúng ta đã
nhận lãnh một cách đặc biệt xét về phương diện phẩm chất, ba chức năng: ngôn sứ,
tư tế và vương giả.
8.- Dầu Thánh
Tôi cảm tạ Chúa về “dầu thánh” tôi đã nhận
lãnh lần đầu tiên ở trong thành phố tôi sinh trưởng là Wadowice. (Wadowice ở
cách Cracovie 50 cây số). Điều đó đã xảy ra vào ngày tôi nhận lãnh bí tích
Thánh Tẩy. Với việc thánh tẩy đó, tất cả chúng ta trở nên công chính hóa nhờ
Chúa Kitô và được ghép vào Ngài. Chúng ta cũng lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần lần
đầu tiên.
Chính việc xức dầu thánh là biểu hiệu sự
tuôn tràn Thánh Linh mang lại cho chúng ta đời sống mới trong Chúa Kitô và làm
cho chúng ta có thể sống trong sự công chính của Chúa. Việc xức dầu thánh lần
đầu đó được bổ túc bởi ấn tín của Chúa Thánh Thần trong bí tích Thêm Sức.
Mối liên kết thâm sâu và trực tiếp ở giữa
các bí tích đó được nổi bật trong nghi lễ rửa tội người lớn. Các Giáo Hội Đông
phương cũng còn duy trì sự liên kết trực tiếp đó trong nghi thức rửa tội các
trẻ em: cùng lúc được rửa tội, các em cũng nhận lãnh bí tích thêm sức luôn.
Sự liên kết giữa hai bí tích hàng đầu đó và
sự huyền nhiệm thánh của chính bí tích Thánh Thể với ơn gọi linh mục và giám
mục thì bền chặt và thâm sâu cho đến nỗi chúng ta có thể luôn luôn tái khám phá
sự phong phú, với một tấm lòng biết ơn.
Đối với chúng ta là những giám mục, chúng
ta không những nhận lãnh những bí tích đó, mà còn được sai đi để rửa tội, để
tập họp Giáo Hội chung quanh bàn tiệc của Chúa, để củng cố đức tin cho những
tông đồ của Chúa Kitô bằng ấn tín của Chúa Thánh Linh trong bí tích thêm sức.
Trong mục vụ của mình, rất thường khi vị
giám mục có cơ hội cử hành bí tích thêm sức, trao ban cho họ việc xức dầu thánh
và truyền đạt cho họ Ơn Chúa Thánh Thần là suối nguồn sự sống trong Chúa Kitô.
Ở nhiều nơi, trong Thánh Lễ phong chức,
người ta thường nghe giáo dân hát:
“Hỡi dân tư tế, dân vương giả, cộng đồng
các thánh, dân của Chúa, hãy hát ca mừng Chúa chúng ta.”
Tôi yêu thích bài hát dó, bởi vì nội dung
phong phú:
“Chúng con hát ca mừng Ngài, hởi Con yêu
dấu của Chúa Cha!
Chúng con tán dương Ngài, hởi sự Khôn Ngoan
muôn thuở và Ngôi Lời của Thiên Chúa.
Hỡi Con của Đức Trinh Nữ Maria, chúng con
hát mừng Ngài.
Hỡi Đức Kitô, người Anh của chúng con đã
đến cứu chuộc chúng con, chúng con tán dương Ngài.
Hỡi Đấng Cứu Thế mà những kẻ khốn khó trông
chờ, chúng con hát mừng Ngài.
Ôi Đức Kitô là Vua chúng con, hiền lành và
khiêm nhượng trong lòng, chúng con tán tụng Ngài.
[…]
Hỡi cây nho của sự sống, chúng con là những
cành nho của Ngài, chúng con hát mừng Ngài.
Hết mọi ơn gọi đều được nảy sinh trong Chúa
Kitô và rõ ràng chính đó là điều được biểu lộ mỗi khi xức dầu thánh: khởi đầu
là bí tích Thánh Tẩy cho tới việc xức dầu thánh lên đầu giám mục. Chính việc
xức dầu đó mà phát sinh phẩm cách chung cho hết mọi ơn gọi của Kitô hữu.
Xét về phương diện đó, tất cả các ơn gọi
đều bình đẳng. Sự khác biệt đến từ vai trò mà Chúa Kitô phân định cho mỗi người
được gọi trong cộng đồng Giáo Hội và từ trách nhiệm bởi đó mà ra.
Phải rất để ý đến điều Chúa Giêsu đã cầu
xin “không một ai trong họ phải hư mất” (Gio 17, 12): không một ơn gọi nào phải tàn lụi, bởi vì mỗi ơn
gọi đều quí giá và thiết yếu. Đối với mọi sinh mạng, vị Mục Tử Nhân Hậu đều
trao ban sự sống. Đó là trách nhiệm của vị giám mục.
Ngài phải biết nhiệm vụ của Ngài là làm thế
nào để trong Giáo Hội có thể nảy sinh và phát triển hết mọi ơn gọi, hết mọi
chọn lựa con người đối với Chúa Kitô, cho dẫu là người thấp kém nhất.
Chính vì điều đó mà Đức Giám Mục – cũng như
Chúa Kitô – kêu mời, tập họp và dạy dỗ chung quanh bàn tiệc Mình Máu Thánh
Chúa. Đồng thời, ngài hướng dẫn và phục vụ. Ngài cũng phải trung thành với Giáo
Hội, nghĩa là với mỗi một thành viên trong Giáo Hội, cho tới người nhỏ bé nhất
mà Chúa Kitô đã kêu gọi và tự đồng hóa (Xem Mt 25, 45). Như là dấu ấn của sự trung thành đó, đức giám
mục nhận lãnh chiếc nhẫn đeo tay.
9.- Nhẫn đeo và áo choàng
Chiếc nhẫn đeo vào ngón tay giám mục có
nghĩa là ngài đã làm lễ cưới với Giáo Hội.
“Hãy nhận lấy chiến nhẫn nầy, biểu tượng
của lòng trung tín: hãy gìn giữ, trong sự thuần khiết của đức tin, hiền thê của
Chúa là Giáo Hội thánh.
Hãy trung thành cho đến chết…”
Đó là lời khuyên bảo trong sách Khải Huyền:
“Hãy trung thành cho đến chết, và Ta
sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống.” (Kh 2, 10). Chiếc nhẫn đó, biểu tượng hôn nhân, là một biểu hiệu
đặc biệt sự liên kết của giám mục với Giáo Hội. Đối với tôi, chiếc nhẫn biểu
thị lời mời gọi hằng ngày đối với sự thành tín.
Đó là một sự tự vấn thầm lặng vang động
trong lương tâm: tôi có tự hiến trọn vẹn cho hiền thê của tôi là Giáo Hội
không? Tôi có “phục vụ” đầy đủ những cộng đoàn, những gia đình, giới trẻ và
người già cả, cũng như những thai nhi chưa sinh ra không?
Chiếc nhẫn cũng nhắc nhở tôi sự cần thiết
phải trở nên một mắt xích dũng mãnh trong dây xích thừa kế nối kết với các tông
đồ. Quả thật sự bền chặt của một dây xích được đo lường bởi mắt xích yếu kém
nhất. Tôi phải trở nên một mắt xích bền chắc do sức mạnh của Chúa: “Chúa là sức mạnh, là khiên mộc chở che
tôi.” (Tv 28
[27], 7). “Lạy Chúa, dẫu qua lũng âm
u, con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ
an tâm.” (Tv 23
[22], 4).
Các Đức Giám Mục của Cracovie có được đặc
ân, theo chỗ tôi biết, chỉ dành riêng cho bốn giáo phận trên thế giới mà thôi. Các ngài được quyền mang áo
choàng gọi là “rationnal”. Về hình thức bên ngoài, đó là một biểu tượng
nhắc nhở tới dây “pallium”.
Ở Cracovie, trong kho tàng của
đền thờ Wawel, có chiếc áo choàng “rationnal” là tặng phẩm của nữ hoàng
Hedwige. Chính chiếc áo đó không mang một biểu hiệu gì. Chiếc áo đó chỉ có ý
nghĩa khi Đức Tổng Giám Mục mang vào mà thôi. Lúc bấy giờ chiếc áo biểu tượng
cho quyền uy và sự phục vụ của ngài. Nói đúng hơn, vì ngài có quyền uy nên ngài
phải phục vụ.
Theo một ý nghĩa nào đó, người ta
có thể thấy ở đó biểu tượng của sự thương khó Chúa Kitô và tất cả các Thánh Tử
Đạo. Khi mang chiếc áo đó vào, hơn một lần đã đến trong trí óc tôi những lời
sau đây mà Thánh Phao-lô lúc bấy giờ đã già nua, ngỏ với giám mục Timothée đang
còn xuân xanh: “Anh đùng hổ thẹn vì
phải làm chứng cho Chúa chúng ta, cũng đừng hổ thẹn vì tôi, người tù của Chúa;
nhưng dựa vào sức mạnh của Thiên Chúa, anh hãy đồng lao cộng khổ với tôi để
loan báo Tin Mừng.” (2Tm
1, 8).
10.- “Hãy bảo toàn giáo
lý đã được giao phó” (1Tm 6,
20)
Sau lời nguyện tấn phong, nghi lễ
dự kiến việc đặt quyển Thánh Kinh lên đầu vị giám mục được tấn phong. Cử chỉ đó
có ý nghĩa là vị giám mục phải đón nhận và loan báo Tin Mừng: đó là biểu hiệu
sự hiện diện của Chúa Giêsu, Thầy Chí Thánh, trong Giáo Hội. Do đó sự giáo huấn
thuộc phần nòng cốt của ơn gọi giám mục: ngài phải là một bậc thầy.
Chúng ta biết có bao nhiêu giám
mục lỗi lạc, từ thời Thượng Cổ cho tới ngày nay, đã đáp lại tiếng gọi đó một
cách gương mẫu. Họ đã biết dùng cho có lợi ích lời cảnh cáo thận trọng của
thánh tông đồ Phao-lô, khi tự cảm thấy bản thân mình cũng bị liên hệ: “Anh Timothée, hãy bảo toàn giáo lý đã
được giao phó cho anh, tránh những chuyện nhảm nhí, trống rỗng và những vấn đề
của trí thức giả hiệu.” (1Tm
6, 20).
Những giám mục là những bậc thầy
có phẩm chất bởi vì các ngài đã tập trung cuộc sống thiêng liêng của mình vào
việc lắng nghe và rao giảng Lời Chúa. Nói cách khác, các ngài đã biết từ bỏ
những hư từ để đem hết tất cả nghị lực dùng vào “chỉ một chuyện cần thiết mà thôi” (Lc 10, 42).
Quả thật nhiệm vụ của vị giám mục
là làm cho mình trở nên người phục vụ Lời Chúa. Rõ ràng với tư cách là bậc
thầy, ngài chủ tọa trên ngai tòa giám mục – tức trên ngai được đặt để một cách
biểu tượng trong thánh đường được gọi một cách rất đúng là “nhà thờ chính tòa”
– để giảng dạy, loan báo và cắt nghĩa Lời Chúa.
Thời đại chúng ta có những đòi
hỏi mới đối với các vị giám mục trong tư cách là những thầy dạy, nhưng cũng
cống hiến những phương tiện mới thật tuyệt vời để giúp đỡ các ngài loan báo Tin
Mừng.
Sự xê dịch dễ dàng đã cho phép
các ngài thăm viếng thường xuyên những nhà thờ khác nhau và những cộng đoàn
trong giáo phận các ngài. Các giám mục được sử dụng hệ thống truyền thanh,
truyền hình, mạng lưới điện toán, báo chí.
Để rao giảng Lời Chúa, các giám
mục được giúp đỡ bởi các linh mục và phó tế, bởi các giáo lý viên và giáo viên,
bởi các giáo sư thần học cũng như bởi một số luôn quan trọng hơn thuộc thành
phần giáo dân học thức và trung thành với Phúc Âm.
Tuy nhiên không gì có thể thay
thế sự hiện diện của đức giám mục an tọa trên ngai tòa hay hiện diện trên tòa
giảng trong nhà thờ chính tòa và ngài đích thân dẫn giải Lời Chúa cho những ai
được tập họp chung quanh ngài. Ngài cũng như vị “kinh sư trở thành môn đồ Nước Trời thì giống như chủ nhà kia lấy ra
từ trong kho tàng của mình cả cái mới lẫn cái cũ.” (Mt 13, 52).
Tôi lấy làm sung sướng để nhắc
nhở ở đây Đức Tổng Giám Mục hồi hưu Milan là Đức Hồng Y Carlo Maria Martini
mà những buổi giảng dạy giáo lý ở trong nhà thờ chính tòa Milan đã lôi cuốn rất
đông người. Ngài đã vén lên cho họ kho tàng Lời Chúa. Đó chỉ là một thí dụ
trong nhiều thí dụ khác cho thấy sự khát khao Lời Chúa nơi tín hữu lớn lao đến
mức nào!
Tôi luôn xác tín rằng, nếu tôi
muốn làm cho no thỏa sự khát khao nội tâm đó ở nơi người khác, trước tiên tôi
phải theo gương Mẹ Maria để chính tôi nghe Lời đó của Chúa và “suy đi nghĩ lại trong lòng” (Lc 2, 19).
Cùng một trật, càng lâu tôi càng
hiểu thêm rằng giám mục cũng phải biết lắng nghe những người mà ngài loan báo
Tin Mừng. Đối diện với trận đại hồng thủy hiện nay do bởi những ngôn từ, hình
ành và âm thanh, rất quan trọng đối với giám mục là đừng để mình bị choáng
váng. Ngài phải lắng nghe tiếng Chúa và nghe những đối thoại viên của mình,
trong niềm xác tín rằng tất cả chúng ta liên kết trong chính huyền nhiệm Lời
Chúa đối với phần rỗi.
11.- Mũ gậy giám mục
Ơn gọi trở thành giám mục hẵn
nhiên mang lại một vinh dự. Tuy nhiên điều đó không có nghĩa là ứng viên được
lựa chọn giữa nhiều người khác là một cá nhân lỗi lạc và một Kitô hữu lỗi lạc.
Vinh dự qui hướng về ngài do bởi sứ vụ của ngài được đặt để ở trung tâm Giáo
Hội, để trở thành người đứng đầu trong đức tin, đứng đầu trong đức ái, đứng đầu
trong sự trung tín và đứng đầu trong việc phục vụ.
Nếu ai chỉ tìm kiếm trong chức vụ
giám mục vinh dự cho mình, người đó sẽ không hoàn tất tốt đẹp sứ vụ giám mục.
Sự biện minh đầu tiên cho vinh dự đối với giám mục và là sự biện minh quan
trọng nhất, hệ tại bởi trách nhiệm gắn bó với sứ vụ của ngài.
“Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được” (Mt 5, 14). Giám mục luôn luôn ở trên
núi, ở trên cột đèn, mọi người đều trông thấy. Ngài phải ý thức rằng tất cả
những gì xảy đến trong cuộc đời của ngài đều có một tầm mức quan trọng dưới con
mắt cộng đoàn: “Ai nấy trong hội
đường đều chăm chú nhìn Ngài” (Lc 4, 20).
Cũng như một người cha gia đình
đào luyện con cái theo đức tin trước tiên phải nêu gương tốt của đời sống đạo
đức và kinh nguyện của mình, cũng vậy giám mục cảm hóa tín hữu với tất cả phong
cách của mình. Vì vậy tác giả Thư thứ nhất của Thánh Phêrô đã khẩn khoản van
xin các giám mục “hãy nêu gương sáng
cho đoàn chiên” (1Pr 5,
3).
Trong viễn tượng đó, trong phụng
vụ truyền chức, biểu tượng trao mũ giám mục đã nói lên một cách hùng hồn đặc
biệt. Đức tân giám mục nhận lãnh chiếc mũ như một sự cảnh báo ngài phải đội lên
đầu để “rực sáng nơi ngài ánh sáng
chói lọi của sự thánh thiện” hầu ngài được xứng đáng nhận lãnh triều thiên
vinh quang không héo tàn khi Chúa Kitô là “hoàng
tử của các mục tử” sẽ xuất hiện. (Xem Sách Lễ Phong Chức Roma).
Giám mục được kêu gọi đặc biệt
trở nên thánh thiện trên cương vị cá nhân để góp phần vào việc tăng trưởng sự
thánh thiện của cộng đoàn giáo sĩ mà ngài được phó thác. Chính ngài chịu trách
nhiệm việc thực thi ơn gọi phổ cập để trở nên thánh thiện như đã đề cập nơi
chương V Hiến Chế Công Đồng “Lumen gentium” (“Ánh sáng muôn dân”).
Như tôi đã viết trong dịp Đại Năm
Thánh 2000: trong ơn gọi đó, người ta tìm thấy sự “linh động nội tại và đặc
trưng” của môn Giáo Hội học (Ngàn
Năm Thứ Ba Đang Đến, số 30).
Dân Chúa “được kết hợp với sự duy nhất của Cha, Con và Thánh Thần” là một dân
thuộc về Đấng “Thánh! Thánh! Thánh!”
(Is 6, 3). Như tôi đã viết: “Khi nói Giáo Hội là thánh có nghĩa là trình
bày bộ mặt Giáo Hội là hiền thê Chúa
Kitô mà Ngài đã trao nộp mình để thánh hóa” (Xem Ngàn Năm Thứ Ba Đang Đến, số 30).
Tặng vật thánh thiện đó trở nên
một nghĩa vụ. Phải luôn luôn nhận chân rằng tất cả đời sống Kitô hữu phải được
qui hướng về nghĩa vụ đó: “Ý muốn của Thiên Chúa là anh em nên thánh.” (1Tx 4, 3).
Vào đầu năm 1970, tôi đã viết,
khi qui chiếu vào Hiến Chế Lumen gentium (Ánh sáng muôn dân):
Lịch sử cứu độ là lịch sử của toàn dân Chúa; lịch sử đó cũng trải qua bởi đời
sống các cá nhân, lại được cụ thể hóa ở nơi mỗi cá nhân. Ý nghĩa căn bản của sự
thánh thiện hệ tại điểm nầy: sự thánh
thiện luôn luôn là sự thánh thiện cá nhân.
Điều đó được xác nhận bởi lời mời
gọi “tổng quát” trở nên thánh thiện. Hết mọi thành phần dân Chúa đều được mời
gọi nên thánh, nhưng mỗi người một cách duy nhất, không thể trùng hợp. (U
podstaw odnowy. Studium o realizacji Vaticanum II, Cracovie 1972, tr.
165).
Nói tóm lại, sự thánh thiện của mỗi một
người đóng góp vào sự tăng trưởng của khuôn mặt Giáo Hội, hiền thê của Chúa
Kitô, bằng cách làm cho sứ điệp của Ngài được thế giới hiện đại chấp nhận dễ
dàng.
Trong nghi lễ truyền chức giám mục, việc
tiếp theo là trao gậy chủ chăn. Đó là biểu hiệu quyền uy qui về vị giám mục
trong việc thực thi nghĩa vụ của ngài chăn dắt đoàn chiên. Biểu tượng đó cũng
đi vào viễn tượng kêu mời cộng đồng dân Chúa nên thánh.
Bởi vậy mục tử phải trông coi và che chở
mỗi một con chiên cùng dẫn đưa họ đến những đồng cỏ xanh tươi (Tv 23 [22], 2) – trên những đồng cỏ
đó các con chiên sẽ khám phá sự thánh thiện không phải là “một cuộc sống ngoại lệ mà chỉ vài bậc ‘thiên tài’ về sự thánh thiện có
thể thực hành mà thôi. Những nẻo đường đưa tới sự thánh thiện thì rất nhiều và
thích ứng cho mỗi cá nhân.” (Xem “Ngàn
Năm Thứ Ba Đang Đến”, số 31).
Tuyệt đẹp biết bao tiềm năng ân sủng ẩn
tàng trong đoàn dân đông đảo của những người được thanh tẩy! Tôi không ngừng
cầu xin để Thánh Thần Chúa thắp sáng lên ngọn lửa của Ngài ở trong con tim
chúng ta là những giám mục để rồi chúng ta trở nên những bậc thầy về sự thánh
thiện, ngõ hầu có thể đào luyện tín hữu bởi gương sáng chúng ta.
Lời giả biệt đầy xúc động của Thánh Phao-lồ
đối với những kỳ mục Giáo Hội Ê-phê-xô trở về trong ký ức của tôi: “Anh em hãy ân cần lo cho chính mình và
toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc, hãy chăn dắt
Hội Thánh của Thiên Chúa, Hội Thánh Người đã mua bằng máu của chính mình.”
(Cv 22, 28).
Mệnh lệnh của Chúa Kitô ám ảnh mỗi một mục
tử: “Vậy anh em hãy đi và làm cho
muôn dân trở thành môn đệ.” (Mt 28, 19). Hãy đi và đừng bao giờ ngừng nghỉ! Chúng ta đã biết
sự mong đợi của Thầy Chí Thánh: “Thầy
đã cắt cử anh em để anh em ra đi, sinh được hoa trái và hoa trái của anh em tồn
tại.” (Gio 15,
16).
Cây gậy giám mục có hình thánh giá mà hiện
tại tôi đang cầm trong tay được mô phỏng theo cây gậy của Đức Thánh Cha Phaolô
VI. Tôi thấy rõ ràng cây gậy đó tượng trưng ba chức vụ: sự ân cần, sự hướng dẫn
và trách nhiệm.
Cây gậy giám mục không phải là một biểu
tượng quyền uy theo nghĩa thông thường của từ ngữ đó. Đó không phải là một biểu
tượng ngôi thứ hay ưu thế trên những người khác: đó là một biểu tượng phục vụ. Như thế, đó chính là biểu tượng của sự ân cần
đối với đoàn chiên: “Tôi đến để cho
chiên được sống và sống dồi dào.” (Gio 10, 10).
Giám mục phải điều khiển và hướng dẫn. Ngài
sẽ được tín hữu nghe theo và yêu mến trong chừng mực mà ngài bắt chước Chúa
Giêsu là vị Mục Tử Nhân Hậu, Đấng “đến
không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống
làm giá chuộc muôn người.” (Mt
20, 28). “Phục vụ!” – tôi yêu thích
từ ngữ đó biết bao! Tư tế “mục vụ”, từ ngữ tuyệt vời…
Có khi người ta nghe ai đó cất tiếng bênh
vực quyền bính giám mục được hiểu như ngôi thứ. Người ta nói: chính những con
chiên phải đi theo sau mục tử và không phải mục tử đi sau đoàn chiên. Có thể
người ta đồng ý như thế, nhưng trong ý nghĩa đó, chính mục tử phải đi dẫn đầu
để “hy sinh mạng sống vì những con
chiên”; chính ngài phải là người đầu tiên tự hiến và tự trao ban
chính mình.
“Ngài
đã sống lại, Vị Mực Tử Nhân Hậu, đã hy sinh mạng sống mình vì các con chiên.
Ngài đã phó nộp mình chịu chết vì yêu thương những kẻ thuộc về mình.” (Xem “Phụng Vụ Các Giờ Kinh”, phần đối đáp
II, Chúa nhật IV mùa Phục Sinh).
Giám mục đứng đầu về ngôi thứ trong tình
yêu quảng đại đối với tín hữu và đối với Giáo Hội, theo gương Thánh Phao-lô: “Tôi vui mầng được chịu đau khổ vì anh em.
Những gian nan thử thách Chúa Kitô còn phải chịu, tôi xin mang lấy vào thân cho
đủ sức, vì lợi ích cho thân thể người là Hội Thánh.” (
Chắc chắn quở trách cũng là một phần trong
vai trò mục tử. Về phương diện đó, tôi thiết tưởng có lẽ tôi đã hành xử hơi ít.
Tương quan giữa quyền bính và phục vụ luôn luôn trở thành vấn nạn. Có lẽ tôi
phải tự trách tôi là đã không tìm cách điều khiển đầy đủ.
Trong một chừng mực nào đó, điều nầy phát
xuất bởi tính khí của tôi. Nhưng một cách nào đó, điều nầy cũng có thể phát
xuất từ ý muốn của Chúa Kitô đã xin các tông đồ đừng quá điều khiển hơn là phục
vụ.
Theo bản chất tự nhiên, quyền uy thuộc về
giám mục, nhưng tất cả tùy thuộc vào cách thức mà quyền uy đó được thi hành.
Nếu đức giám mục dựa vào quyền uy hơi quá đáng, lập tức dân chúng tưởng rằng ngài
không biết điều khiển.
Trái lại, nếu ngài tự đặt mình trong một tư
thế phục vụ, tự nhiên các tín hữu cảm thấy được thúc đẩy đề nghe ngài và tự ý
tuân phục quyền bính của ngài.
Nếu đức giám mục nói: “Ở đây chỉ mình tôi
cai quản”, hay: “Chỉ mình tôi phục vụ ở đây”, có thiếu sót một điều gì! Đó là ngài phải phục vụ trong khi cai quản và cai
quản trong khi phục vu.
Về điều đó, chính Chúa Kitô đã nêu cho
chúng ta một mẫu mực hùng hồn: Ngài đã phục vụ không ngừng, nhưng trong tinh
thần phục vụ của Con Thiên Chúa, Ngài cũng biết đuổi những người buôn bán ra
khỏi đền thờ khi cần thiết.
Cho dù tôi cảm thấy những đối kháng bên
trong đáng chê trách, tuy nhiên tôi thiết nghĩ tôi đã lấy những quyết định cần
thiết. Với tư cách là tổng giám mục Cracovie, tôi đã làm hết sức để đi tới
những quyết định đó theo cung cách giám mục đoàn, nghĩa là bằng cách tham khảo
những giám mục phụ tá và những cộng sự viên của tôi.
Mỗi tuần, chúng tôi có nhũng buổi họp ban
điều hành giáo phận, trong đó được bàn thảo hết mọi vấn đề trong tầm nhìn mang
lại điều lợi ích tốt đẹp nhất cho tổng giáo phận. Câu hỏi đầu tiên: “Chân lý
nào thuộc về đức tin chiếu giải trên vấn đề đó?” Và câu hỏi thứ hai: “Ai
là người mà chúng ta tham khảo hay để giúp đỡ chúng ta?”
Tìm ra động cơ tôn giáo để hành động và
nhân vật đủ khả năng để chu toàn một phần vụ rõ rệt, tạo thành điều kiện tiên
quyết tốt đẹp đem lại hy vọng rất nhiều cho sự thành công đối với những sáng
kiến mục vụ.
Với việc trao ban cây gậy giám mục, nghi lễ
tấn phong chấm dứt. Tiếp theo là Thánh lễ mà đức tân giám mục hiến dâng cùng
với những giám mục đồng tấn phong. Tất cả những điều đó mang đầy đủ ý nghĩa,
suy tư và ý thức cá nhân cho đến nỗi không thể diễn tả trọn vẹn hay cả việc
thêm vào đó một điều gì nữa.
12.- Hành hương đền kính Đức Mẹ
Sau khi Thánh Lễ chấm dứt, tôi đi từ Wawel
đến thăm đại chủng viện, ở đó có cuộc tiếp tân. Tuy nhiên, chính chiều hôm đó,
tôi đi đến Czestochowa với nhóm bạn hữu thân tình và ở đó tôi đã dâng
Thánh Lễ sáng hôm sau trong nguyện đường có tượng Đức Mẹ làm phép lạ.
Đối với dân Ba-lan,
Mọi người đều biết nguồn gốc ánh sáng hy
vọng đó là sự hiện diện của Mẹ Maria trong bức tượng kỳ diệu. Thật đúng như
thế, có lẽ lần đầu tiên, trong khi quân đội Thụy Điển chiếm đóng mà trong lịch
sử gọi là “cơn hồng thủy”. Trong trường hợp đó – việc thật có ý nghĩa – đền thờ
được dựng nên như một pháo đài mà quân xâm lăng không tài nào chinh phục được.
Bấy giờ quốc gia giải mã biến cố đó như là một lời hứa hẹn chiến thắng. Sự tin
tưởng nơi bàn tay che chở của Đức Mẹ đã mang lại cho dân chúng Ba-lan sức mạnh
để chiến thắng kẻ xâm lăng.
Kể từ đó, đền thờ Jasna Góra, theo một ý
nghĩa nào đó, đã trở thành chiến lũy của đức tin, của tinh thần, của văn hóa và
tất cả những gì tạo nên căn tính quốc gia Ba-lan. Và cũng đã xảy ra như thế,
bằng một cách đặc biệt, trong thời gian lâu dài của những cuộc phân tranh và
mất chủ quyền quốc gia.
Chính đó là điều mà Đức Thánh Cha Piô XII
đã nhắc tới khi ngài quả quyết trong thời Đệ Nhị Thế Chiến: “Quốc gia Ba-lan đã không biến mất và sẽ
không bao giờ biến mất bởi vì Ba-lan tin tưởng, cầu nguyện và có đền thờ Jasna
Góra.” Nhờ Ơn Chúa, những lời nói đó đã được kiểm chứng.
Tuy nhiên về sau, một thời kỳ mới đen tối
trong lịch sử chúng tôi, đó là thời kỳ Cộng Sản chiếm đóng. Nhà cầm quyền của
đảng Cộng Sản ý thức điều mà đền thờ Jasna Góra đã có ý nghĩa như thế nào đối
với dân chúng Ba-lan. Đó là thánh tượng kỳ diệu và lòng sùng kính vô bờ bến đối
với thánh tượng Đức Mẹ đó ngay từ đầu.
Chính vì vậy, khi do sáng kiến của hội đồng
giám mục và đặc biệt là của Đức Hồng Y Stefan Wyszynski, cuộc hành hương của “Đức
Me Đen”, khởi hành từ Czestochowa, đã thăm viếng hết mọi giáo xứ và mọi
cộng đoàn trên đất nước Ba-lan, chính quyền Cộng Sản đã làm hết sức ngăn cản
cuộc “thăm viếng” đó.
Khi thánh tượng bị cảnh sát “ngăn” lại,
đoàn hành hương vẫn tiếp tục với khung tượng trống trơn và sứ điệp đó càng trở
nên hùng hồn hơn. Trong khung tượng không có tượng, người ta có thể đọc được
dấu hiệu câm nín về sự thiếu tự do tôn giáo. Dân chúng biết rằng họ có quyền tự
do tôn giáo đó và họ càng cầu nguyện hơn nữa để đuợc tự do đó. Cuộc hành hương đã kéo dài gần hai mươi lăm
năm và làm nảy sinh nơi dân chúng Ba-lan một sự vững mạnh lạ thường trong
đưc tin, đức cậy và đức mến.
Tất cả những người dân Ba-lan có lòng tin
đều đi hành hương
Trong thời gian quân Đức Quốc Xã chiếm
đóng, tôi làm cuộc hành hương đó khi tôi đang còn là sinh viên đại học về ngành
văn chương Ba-lan tại phân khoa triết học thuộc đại học Jagellon. Tôi nhớ lại
một cách đặc biệt bởi vì, để duy trì truyền thống đó, chúng tôi đã đi đến Czestochowa
như là những đại biểu, gồm có Tadeuz Ulewicz, tôi và một người thứ ba nữa.
Đền thờ Jasna Góra bị quân đội Hitler bao
vây. Các linh mục ẩn tu
Hằng năm ở Jasna Góra có cuộc tĩnh tâm của
các giám mục, thông thường bắt đầu tháng chín. Tôi đã tham dự lần đầu khi tôi
chỉ mới được bổ nhiệm làm giám mục. Đức Cha Baziak đã dẫn tôi đi. Tôi nhớ lần
đó vị thuyết giảng là cha Jan Zieja, một linh mục có nhân cách lỗi lạc.
Dĩ nhiên chỗ thứ nhất dành cho Đức Giáo Chủ là Đức Hồng Y Stefan Wyszynski, một
người quả thật được Chúa Quan Phòng gởi tới trong thời đại chúng tôi đang sống.
Có lẽ do những cuộc hành hương đó mà đã nảy
sinh điều ao ước trong những bước khởi đầu hành hương khi làm giáo hoàng đã đưa
tôi đến một đền thờ Đức Mẹ. Chính điều ao ước đó, trong cuộc tông du đầu tiên
đến Mễ-tây-cơ, đã dẫn đưa tôi đến dưới chân Đức Mẹ Guadalupe.
Trong tình yêu mến của dân chúng Mễ-tây-cơ
và nói một cách chung, của những người dân Trung Mỹ và Nam Mỹ đối với Đức Mẹ
Guadalupe – một tình yêu mến được thổ lộ một cách hồn nhiên và nhạy cảm, nhưng
rất mãnh liệt và sâu sắc – có nhiều điểm tương đồng với sự sùng kính Đức Mẹ của
dân chúng Ba-lan; điều đó cũng tạo thành linh đạo của tôi.
Họ gọi Đức Mẹ một cách tríu mến là “la
Virgen Morenita”, một danh xưng có thể tạm dịch là: “Đức Mẹ ngăm ngăm đen”. Ở đó có một bài hát phổ thông rất được nhiều
người biết đến khi nhắc tới tình yêu của một con trai đối với một thiếu nữ. Dân
chúng Mễ-tây-cơ áp dụng bài hát đó cho Đức Trinh Nữ Maria. Tôi luôn luôn nghe
văng vẳng những âm điệu du dương đó:
Tôi biết một thiếu nữ xinh xắn ngăm ngăm
đen…
Và tôi yêu mến nhiều.
Chiều tối, say mê và trìu mến, tôi đã đến
thăm nàng.
Ngắm nhìn đôi mắt nàng, tình yêu tha thiết
của tôi gia tăng gấp bội.
Hởi nàng con gái tóc nâu, tôi không bao giờ
quên nàng được.
Tình yêu giữa hai chúng ta lớn lao biết
bao…
Tôi đã thăm viếng đền thờ Guadalupe vào
tháng giêng 1979, nhân chuyến tông du đầu tiên, theo lời mời tham dự đại hội
Hội Đồng Giám Mục Mỹ Châu La-tinh ở
Trước tiên tôi dừng chân ở Saint Dominique
và từ đó tôi tới Mễ-tây-cơ. Thật cảm động không thể tả khi đi đến nơi mà chúng
tôi phải nghỉ đêm, chúng tôi đã đi ngang qua những con đường người đen như
kiến. Cuối cùng khi chúng tôi đến nơi trú ngụ, dân chung vẫn tiếp tục ca hát và
đã quá nửa đêm. Vì vậy cha Stanislaw Dziwisz bắt buộc phải ra ngoài xin dân
chúng im lặng và giải thích cho họ là Đức Giáo Hoàng cần phải ngủ nghỉ. Bấy giờ
họ mới yên lặng.
Tôi nhớ lại tôi đã giải thích cuộc hành
hương ở Mễ-tây-cơ như là một thứ “thông hành” có thể mở đường cho tôi đi hành
hương ở Ba-lan. Thực tế tôi nghĩ rằng chính phủ Cộng Sản Ba-lan không thể từ
chối việc cho phép tôi trở về thăm quê hương tôi sau khi tôi đã được đón tiếp
trong một xứ sở mà Hiến Pháp hoàn toàn thế tục như quốc gia Mễ-tây-cơ lúc bấy
giờ. Tôi muốn đi Ba-lan và điều đó đã được thực hiện vào tháng sáu cùng năm.
Guadalupe, đền thánh lớn nhất của toàn thể
Mỹ châu cũng như
Chúng tôi còn trở lại Guadalupe. Vào năm
2002, tôi được dâng Thánh Lễ gần đền thánh đó nhân dịp phong thánh cho chân
phước Juan Diego. Đó là một cơ hội tuyệt diệu để cảm tạ ơn Chúa. Sau khi
nhận lãnh sứ điệp Kitô giáo, Juan Diego, không chối từ căn tính bản xứ của
mình, đã khám phá ra chân lý thâm sâu đối với nhân loại mới, trong đó hết thảy
mọi người được mời gọi trở nên con cái Thiên Chúa trong Chúa Kitô. “Lạy Cha…con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã
giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều nầy, nhưng lại mặc
khải cho những người bé mọn.” (Mt
11, 25). Và trong huyền nhiệm đó, Mẹ Maria đã đóng một vai trò thật đặc biệt.
_______________
Mời quý độc giả cùng chờ đợi
(phần tiếp theo :
sẽ được tiếp tục đưa lên site Giáo xứ vào đầu tuần sau
Bài viết khác
Âm Nhạc Công Giáo trong Văn Hóa Việt Nam - Gs Lê Đình Thông
Vidéo : NGÀY VĂN HÓA THƯ VIỆN GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS - Chúa Nhật 07/04/2024
Thư mời Ngày Văn Hóa Thư Viện Giáo Xứ VN Paris 07-04-2024
The Chosen : Đấng được chọn - Công Bình
Rogations, nghi thức Cầu Mùa đang được hồi sinh tại giáo xứ Moissac - Công Bình
Chúc Thọ & Chúc Thêm - Cung Chi
Vâng Phục Qua Giấc Mơ - Anê Thùy Dung
Nhìn và Ngắm - Nguyễn Đăng Quế
Mùa Chay 2023 : Mùa Cháy – Mùa Chạy – Mùa Chảy - Lm Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Đức Thánh Cha Phanxicô và chuyến công du đầu năm 2023 - Công Bình
Chuyện Yếu Đuối - Trầm Thiên Thu
Suối nước chữa lành - Sr. Maria Thúy Nga, FMA
Đôi lời tri ân độc giả Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris - Giang Minh Đức
Vè Tết Quý Mão - Anna Trương Thị Lâm Sang