Chân Phước Charles de Foucauld
(1858-1916)
T |
ừ nhiểu năm, người ta mong đợi
Giáo Hội phong thánh cho Cha Charles de Foucauld. Tin vui đã đến. Ngày 13.11.
2005, Cha được phong Chân Phước, một vị ẩn tu thánh thiện, chết như vị tử đạo,
có tinh thần truyền giáo mạnh mẽ, rao giảng Tin Mừng bằng đời sống khó nghèo.
Bước theo Chân Phước mới của Giáo Hội, các anh chị dòng Tiểu Đệ và Tiểu Muội
đang lăn xả để tuyên chứng đức tin giữa mọi tầng lớp dân nghèo. Đúng như tôn chỉ
của Dòng : Chúa Kitô Là Tình Yêu (Jésus est Caritas).
I. Người thiếu niên Nơi quê ngoại.
(1858-1876)
Charles de Foucauld sinh ngày
15.9.1858, tại Strasbourg, Pháp. Thân phụ là Édouard de Foucauld làm kiểm lâm.
Thân mẫu là Élisabeth Beaudet de Morlet, nội trợ. Trong cùng một năm 1864, ông bà thân sinh của
Charles đều qua đời. Anh em Charles và Marie mồ côi cha mẹ. Người cô và ông ngồi
nhìn hai cháu nuôi chăm sóc, ở Saverne. Những ngày vui bên nhà bà cô, để lại ấn
tượng tốt về đời sống gia đinh công giáo đạo hạnh và kiểu mẫu. Năm 1869, ông
ngoại về hưu, nên gia đình di chuyển, sinh sống ở Nancy, Alsace. Ngày
18.4.1872, Charles được xưng tội, rước lễ lần đầu, và chịu phép Thêm Sức, ở
Nancy. Charles đi học trường tiểu học công giáo Saint-Arbogast và học tiếp lên
trung học Strasbourg. Ở trường cậu là học sinh lanh lợi, thông minh, ngoan, nhưng
sức khỏe yếu nên đôi khi vắng mặt. Ngày 12.8.1874, Charles đậu Tú tài phần nhất,
hạng bình thứ (assez bien).
II. Mất đức Tin, nhập ngũ xây dựng
Sự nghiệp (1876-1881)
Từ 1874-1876, về Paris, Charles
vào học nội trú trường các cha Dòng Tên. Tháng 8.1875, Charles đậu Tú tài phần
hai, xuất sắc điểm sử địa, và rất rành rẽ về Algérie. Theo thời khóa biểu của
trường, phải dậy từ 4g30, xem lễ, ca hát, đọc kinh, kỷ luật khắt khe, ăn uống
sơ xài, không được ra ngoài. Trong trường, người học trò này khép kín và nhạy cảm
bắt đầu trống vắng, và để lấp đầy, cậu bắt đầu làm quen với sách vở nhảm nhí. Hậu
quả là vào năm thứ nhất triết học, đức tin anh bị lung lay. Rồi dần dần xa
Chúa, đến mất luôn đức tin. Anh xác nhận : ‘‘Con cứ xa Chúa và càng ngày càng
xa. Sự sống của con bắt đầu trở nên sự chết. Trong 12 năm tôi sống trong trình
trạng đó. Không chối mà không tin Chúa. Vì Ngài không có bằng chứng nào rõ rệt
đối với con’’.
Từ đây người thiếu niên trẻ tuổi
bị khủng hoảng tinh thần làm anh mất đức tin, nên lao mình vào cuộc ăn chơi
trác táng. Không còn lối nào khác, ngày 30.10.1876, Charles thi đậu nhập trường
sỹ quan Saint Cyr, mới 18 tuổi. Đối với anh là quá may, xếp hạng 82/112 sinh
viên được chọn. Năm 20 tuổi, đang học năm thứ hai trường sỹ quan Saint Cyr, thì
ông ngoại qua đời (1878). Anh càng chới với. Biến cố này ảnh hưởng rất mạnh người
cháu tài ba.
III. Mạo hiểm ở Algérie và Maroc (1882-1885)
Năm 22 tuổi, năm 1876, Charles tốt
nghiệp sỹ quan Saint Cyr, với cấp bậc thiếu úy, và được gửi đi làm việc tại
Saumur, Algérie, năm 1882. Năm 1883, Anh mạo hiểm phiêu lưu qua Maroc. Anh muốn
chinh phục Maroc, nhưng anh đã bị Maroc chinh phục. Tới Maroc, Anh nhờ người hướng
dẫn là Mardochée Abi Serour, sinh viên nghèo. (Charles de Foucauld, JJ Antier.
tr. 58-81). Ở đây, qua chứng từ những người Hồi Giáo, Anh thức tỉnh và tự hỏi:
"Thiên Chúa có thực hiện hữu hay không? Anh viết : Nhìn nơi họ một đức tin
sống động cùng sự liên lỷ kết hợp với Chúa, tôi cảm thấy một cái gì cao cả chân
thật hơn các bận tâm trần thế. Hồi Giáo đã đánh động mạnh, sâu xa nơi tôi. Cử
chỉ thờ Chúa đó tiếp tục thâm nhập sâu xa hơn nơi Anh, làm cho Anh hăng hái tìm
kiếm vị Thiên Chúa tối cao của họ : Tôi tự ép mình học hỏi về đạo đó cùng Thánh
Kinh. Nhờ ơn Chúa đánh động, đức tin trong thời thơ ấu được củng cố và canh tân
dần dần lại nơi tôi. Ngoài ra, Anh còn thán phục tinh thần huynh đệ của họ. Do
đó, Anh muốn trở nên một người anh em của họ. (GXVN. 28. 11.1986, tr. 9)
IV. Trở lại Paris, Người con nay
trở về (1886-1888).
Sau khi phiêu bạt giang hồ, năm
1886, trở lại Paris, gia đình không hất hủi, lại đón tiếp Anh rất tử tế và thân
mật. Anh có dịp tiếp xúc với nhiều người, thông minh, đạo đức và sống sâu xa
tinh thần Kitô giáo. Anh tự hỏi: ‘‘ có lẽ đạo này không phi lý như mình
nghĩ’’. Có gì thúc đẩy, anh hay đến các nhà thờ. Mặc dầu chưa tin gì, nhưng tại
đây anh cảm thấy thoải mái. Từng giờ trong nhà thờ, anh thường nhắc lại lời cầu
nguyện: ''Lạy Chúa, nếu Chúa có thật, xin cho con biết Chúa''. Một ý kiến nảy
sinh. Phải tìm hiểu biết về tôn giáo này. Giờ đây cần tìm đến linh mục, xin chỉ
dẫn.
Sáng 29.10.1886, Charles đến nhà
thờ St Augustin, Paris tìm gặp linh mục Henri Huvelin (1838-1910), Giáo sư Cao
Đẳng Sư Phạm. Cha đang ngồi tòa giải tội. Sau đối đáp, vị linh mục âu yếm nhìn
người thanh niên trụy lạc và nói: Này anh, anh lầm rồi. Còn một trở ngại làm
anh không tin, là tâm hồn phải trong sạch. Thôi, hãy quì xuống và khiêm nhượng
thú nhận tội lỗi trước mặt Chúa, rồi anh sẽ tin. Chàng thanh niên xua tay phản
đối. Do dự, một lúc sau, và cuối cùng anh quì gối, xưng tội và ăn năn sám hối.
Ngay sau đó, cha giải tội đã cho anh rước Mình Thánh Chúa luôn. Người thanh
niên Charles đã tin và trở nên người thánh thiện. Ngày nay, tại nhà thờ St
Augustin, quận 5, bên trái, người ta còn để hình ảnh kỷ niệm nơi chính Charles
xưng tội và được ơn hoán cải. Từ đây, Anh được linh mục Huvelin tận tình nâng đỡ
và hướng dẫn. Anh Charles de Foucauld đã đổi mới hoàn toàn cuộc đời và sống cho
bác ái.
V. cuộc sống ẩn tu, truyền giáo
trong sa mạc (1888-1916)
Sau khi được hoán cải, Anh
Charles đã thực sự đi tìm đời sống ẩn tu khổ hạnh, qua các nơi: Tìm Chúa qua Thánh tích ở Jérusalem,
Bethlem, Nazareth (1888-1890). Thực tập như thầy khổ tu Xitô (1890-1896). Về
Roma một năm (1896-1897). Âm thầm làm vườn cho Dòng Clarisses (1897-1900)
(Charles de Foucauld, JJ Antier. tr. 139-156)
Ngày 7.10.1900, Anh đến Dom
Martin, vào Notre-Dame-des-Neiges cấm phòng và chuẩn bị nhận các chức thánh.
Ngày 23.3.1901, Anh nhận chức Phó tế và thụ phong linh mục, tại giáo phận
Viviers, ngày 09.06.1901, tai Dòng Lazariste. (SSđ. tr. 157-163). Giống như
Chúa Giêsu, Cha Charles có những năm ẩn tu và những năm công khai truyền giáo
và kết thúc bằng hy sinh mạng sống. Sau khi lãnh chức Linh mục, Cha Charles khời
sự truyền giáo, đầy gian lao và nguy hiểm: Đầu tiên là ở Benis Abbès
(1900-1902). Làm quen và thực sự sống giữa sa mạc Sahara (1903-1904). Đến
Tamanrasset nguy hiểm hơn (1905). Xây tịch liêu ở Touareg, chiêu mộ tu sinh
(1905-1908). Thân một mình (1908-1909). Cô đơn ở Asekrem (1911-1924). Bị hăm dọa
từ miền Đông (1915-1916)
Ngày 10.9.1901, Cha xin qua sống
trong sa mạc miền khô cằn Bénis-Abbès, tại Algérie. Đến Alger Cha tạm trú tại
nhà các Cha Dòng Áo Trắng ít lâu. Với tư cách là cựu sỹ quan, Cha nhờ một số sỹ
quan Pháp giúp đỡ, Cha xây dựng cơ sở đầu tiên, với diện tích đất 9 mẫu. Đời sống
trong sa mạc, được Cha viết lại một đan sỹ : Phải bước vào sa mạc và dừng lại để
lãnh nhận ơn thánh. Tại đây chúng ta có thể loại bỏ tất cả những gì không thuộc
về Ngài. Tâm hồn chúng ta cần có bầu khí thinh lặng và tĩnh mịch, cần quên đi tạo
vật để Thiên Chúa có thể thiết lập vương quốc Ngài, và vun trồng nơi chúng ta đời
sống nội tâm thân mật với Ngài. Tâm hồn chúng ta có thể đàm đạo chuyện vãn với
Ngài trong đức Tin, đức Cậy và đức Mến. Nội tâm chúng ta càng được thao luyện
bao nhiêu, sau này càng mang lại hoa trái bấy nhiêu. (Chúa là Tình Yêu. tr.41).
Ngày 27.5.1903, qua trung gian của
hai cha Dòng Áo Trắng khám phá ra khu mới đông người ở. Ngã ba giữa Algérie,
Maroc và Sahara. Cha Charles đến làm
quen rồi sinh sống với họ. Đây là nơi quân đội Pháp thường qua lại. Họ sống có qui củ thành làng và chỉ biết có
trời, không biết gì về Thiên Chúa.
Sau đó, ngày 11.8.1905, Cha chuyển
qua sa mạc Tamanrasset. Bắt đầu từ miền hoang vu nóng bỏng cát trắng. Cha may mắn
gặp bạn cũ học ở Saint-Cyr là tướng Lyautey, người đạo đức rất tốt. Cha bắt đầu
bị bệnh, mệt mỏi và cô đơn. Cha bị người ta gán ghép cho là ‘‘thầy phù thủy’’ và
tìm cách hãm hại. Đã có lần Cha bị thương dọc đường. Ông đề nghị cho lính hộ tống
Cha đi đó đây. Nhưng Cha từ chối, thích đi một mình. Tại đây, thiếu tá
Laperrine đã giúp Cha dựng nhà tường đất, mái lá. Đặc biệt Cha có Paul Embarek,
giáo lý viên đắc lực và tận tâm giúp phụng vụ. Anh là người nô lệ đen, đã được
Cha chuộc từ Soudan về. Ngoài ra, Cha cũng gặp bác sỹ Béraud, chăm sóc sức khỏe.
Riêng ĐC Guérin Giám Mục Sahara, người đã nâng đỡ tinh thần và khuyên nhủ Cha
Charles trong lúc cô đơn. (Charles de Foucauld. JJ Aantier, tr. 206-227)
Những ngày tại sa mạc, Cha say mê
tìm đến với những người du mục sống trong hoang địa, làm quen, học tiếng của họ.
Cha đã dịch Phúc Âm ra tiếng Ả Rập. Ban ngày cha giúp đỡ họ những công việc cần
và chiều tối một mình về nhà suy gẫm. Cha không thuyết phục họ theo Đạo, nhưng
cố nêu cao đời sống tông đồ bác ái. Chính nơi đây, lòng nhiệt thành của Cha
Chúa đã đón nhận như của lễ hy sinh.
VI. Như của lễ hy sinh vào cuối đời
Ngày 1.12.1916, khi trời vừa tối,
khoảng 40 người đến vây quanh khu Tamarasset, sa mạc Sahara, nơi Cha Charles de
Foucauld mới đến cư ngụ được 5 tháng. Họ là những người Touareges ở Ajjer, nổi
lên chống lại người Pháp. Họ có nhiệm vụ bắt cóc ‘‘thầy bùa ngải’’ mà họ nhắm
và gán ghép vào Cha Charles, đã sinh sống ở vùng này hơn 10 năm. Họ nghĩ rằng
phải giết hoặc bắt làm con tin người Âu Châu này, vì Cha có ảnh hưởng nhiều đến
các thủ lãnh bản xứ. Đó là ý định của nhóm nhỏ thuộc nhóm ''thánh chiến'' của Hội
tôn giáo của Senoussiya ở Fezzan, miền Lybie.
Những người Touareges bất bạo động,
đã dùng khoảng 30 khẩu súng, của quân đội Pháp để lại cho dân làng, có nhiệm vụ
tự vệ. Nhóm Touareges bắt ép đem theo vợ chồng Paul Embarek, đã quen lối sinh sống
của Cha làm chỉ điểm, đến gõ cửa nhà Cha.
Hôm ấy, cha Charles một mình sống
trong tịch liêu. Như thường lệ, anh Lazaoui ben Aâmdour, người thường dân Ả Rập
phát thơ, từ chiều hôm trước, đến trao cho Cha 8 lá thơ, rồi nhận thơ mới của
Cha đi gửi. Các thơ Cha nhận có: ba thơ của chị họ Marie, một của anh rể
Raymond de Blic, hai của Laperrine, hai của Masssignon và một của Saint-Léger.
Ngay sáng đó, Cha đã trả lời đầy đủ cho từng người (thơ chưa gửi đi). Đang khi
Cha Charles đợi người đem thơ về, thường vào chiều.
Ba người đến trước cửa tịch liêu,
đứng sẵn ngoài cửa là: El Madani, Mohammed agg Akda d’Iherir và Elghlem agg
Afekou ở Ayt Loayen. El Madani gõ cửa.
Cha ra mở và khi Cha mới thò một tay ra ngoài cửa. Lập tức Madani nắm, kéo tay
Cha. Cha rị lại. Lập tức, hai người kia xông vào và kéo Cha ra ngoài. Họ trói
hai tay Cha lại phía sau lưng, bắt quì xuống và chất vấn. Cha vẫn thinh lặng. Rồi
họ để Cha cho cậu bé Sermi ag Tora, 15 tuổi canh giữ Cha. Còn họ vào trong lục
soát đồ đạc...
Bỗng có báo động hô lên. Những
người A Rập cỡi lạc đà ào ào tới. Thế là có tiếng súng nổ vang lên. Không biết
họ có bao nhiêu? Cha có cựa quậy để cởi trói không? Vì sợ Cha trốn chạy, cậu
Sermi chỉ để miệng súng vào dưới tai trái của Cha, như để hăm dọa. Trong lúc hốt
hoảng súng nổ, viên đạn đâm thâu mắt trái của Cha và đầu đạn cắm vào tường. Cha
nằm sóng sượt trên mặt đất. Máu chảy lai láng, Cha chết không kịp nói. Cậu
Sermi cùng đồng bọn bỏ chạy. Sau chốc lát vụ nổ súng của nhóm Touareges, nhóm
lính Ả Rập bạn Cha mới tới. Sáng hôm sau, người ta thấy người mang thơ cũng bị
giết. Thi hài Cha được chôn cất vội vàng sơ sài trong một rãnh bờ cát gần nhà.
Từ 1929, ngôi mộ của Cha đặt ở El Goléa, giữa đồng cát trống. (Frère Charles de
Foucauld, tr.38).
Cha Charles de Foucauld qua đời giữa cuộc thế chiến và đầy bạo loạn. Cha
bị sát hại tại Hoggar, miền nóng bỏng của sa mạc Tamanrasset. Như một vị tử đạo.
(Fêtes et Saisons. No. 386, Juin Juillet. 1984, tr.; La Mort de Charles de
Fioucauld, tr. 102-104, 137-142, 172-181). Ba tuần sau khi Cha qua đời, người
ta tìm thấy Chén và Mình Thánh Chúa chôn vùi dưới cát nơi Cha bị giết. (GXVN, số
28. 11-1986. tr. 8) (La Mort de Charles de Foucauld, tr. 160. Chúa là Tình Yêu.
tr. 73). 15 năm trước khi từ trần, Cha đã viết : Hãy sống ngày hôm nay như tôi
phải tử đạo chiều nay (Vivre aujourd’hui comme si je devais mourir ce soir.
Martyr.).
Phép lạ nhờ lời cầu bầu của thánh
nhân
Trưa 4.3.2003, ĐHY Dionigi
Tettamanzu, TGM Milan, bắc Ý đã chủ sự nghi thức kết thúc tiến trình điều tra cấp
giáo phận về một phép lạ nhờ lời cầu bầu của cha Charles de Foucauld. Tham dự
có bà Giovanna, 46 tuổi, sinh quán tại Desio, gần Milan, bà bị ung thư xương và
vú, được khỏi một cách kỳ lạ, năm 1984.
(TTĐM. Số 304, 4-2003. tr.53).
Ngày 20.12.2004, ĐHY Von Galen, công bố công nhận phép lạ trên và loan
báo sẽ phong chân phước cho Cha Charles de Foucauld vào trong năm 2005.
VII. thành lập Dòng của Cha ChARles
de Foucauld
Sau cái chết của Cha Charles de
Foucauld (1916), tưởng là những hy sinh cao cả và cuộc đời đạo đức thánh thiện
của Ngài sẽ đi vào quên lãng. Nhưng Ngài như hạt giống đã chôn vùi chờ ngày trổ
sinh hoa trái. Quả thật, Cha Charles de Foucauld là người cha của các dòng Tiểu
Muội cho Nữ và Tiểu Đệ cho Nam, một dòng hoạt động và phát triển mạnh trên thế
giới. Năm 1933, Ngành Nam do Cha René Voillaume thành lập. Còn ngành Nữ do Chị
Magdeleine lập năm 1939. Toàn thế giới có 1.324 Tiểu Muội và 1.286 Tiểu Đệ.
Người khởi sự và lập Dòng
Cha Charles de Foucauld muốn thiết
lập Dòng Tiểu Đệ Chúa Giêsu, nhưng không ai chịu theo. Mãi đến năm 1933, sau 17
năm Cha qua đời mới có người khởi sự đứng ra lập Dòng cho Nam, và năm 1939 Dòng
cho Nữ :
A. Ngành Nam, Tiểu Đệ, do Cha
René Voillaume, người Pháp, lập năm 1933. Cùng với 5 linh mục thuộc giáo phận
Paris, các Cha lập một nhà đầu tiên ở El Abiod sidi Cheikh, Algérie. Dòng có
hai loại : linh mục và tu sỹ
Ban đầu, mới có nhóm nhỏ gồm linh
mục, tu sy và giáo dân tu họp trao đổi
tư tưởng của Cha Charles de Foucauld, như tưởng niệm. Năm 1917, nhóm này
do sinh viên Louis Masaignon đứng đầu, hoạt động như ‘‘hiệp hội’’, được phép của
Tòa Thánh. Trong đó có đại chủng sinh chủng viện Issy les Moulineaux là René
Voillaume, sau làm linh mục. Được phép của bề trên, René đem chia sẻ và phổ biến
cho các bạn khác trong chủng viện.
Châm ngôn và mục đích : Bắt chước và sống như Chúa Giêsu ở Nazareth
Chúa Giêsu sống ẩn dật tại
Nazareth 30 năm. Một cuộc đời bình thường của mọi người, của người nghèo lẫn thợ
thuyền. Đây là con đường vạch ra cho những ai muốn hiến dâng cho Thiên Chúa.
Con đường dẫn đến Chúa Cha, đến Ơn Cứu Độ. Khi sống như người thợ ở Nazareth, một
người nghèo giữa người nghèo, Chúa Giêsu bắt đầu công cuộc cứu rỗi của mình. Những
gì Ngài giảng dạy trong 3 năm, thì Ngài sống, thực hiện trong 30 năm.
Đời sống của anh em Tiểu Đệ
Như Chúa Giêsu Nazareth, Anh
Charles và các Tiểu Đệ được kêu gọi sống đời bình thường cho Thiên Chúa và cho hết
mọi người, nhưng thiện cảm với những người bị bỏ rơi trong xã hội. Anh em đến với
họ không để giảng dạy, nhưng để sống giữa họ, và chia sẻ thân phận với họ. Trở
nên người anh em dịu hiền. Tự kiếm kế sinh nhai bên cạnh người lao động.
Anh em Tiểu Đệ sống thành cộng
đoàn nhỏ là nhà Huynh Đệ. Một ngôi nhà nhỏ, đơn sơ như những nhà khác, trong
hoàn cảnh đa dạng : với những người nông dân, thợ thuyền, bệnh tật, già yếu,
hay bị bỏ rơi.
Quan trọng hơn, đời sống thiêng
liêng của Tiểu Đệ phải sống chiêm niệm giữa đời và gắn bó với Chúa Giêsu Thánh
Thể. (GHCGVN. Niên Giám 2004. ttr. 328-329). Nhà chính Tiểu Đệ ở Pháp :
Congrégation des Petits Frères de Jésus, 22 rue Tapis Vert. Marseille. France
(VNCG. Niên Giám 1964, tr.433).
B. Ngành Nữ, Tiểu Muội, do cô
Elisabeth Hutin, người Pháp, sau làm bề trên tổng quyền mãn đời gọi là
Magdeleine de Jésus (1898-1989), thành lập năm 1939.
Tinh thần và lịch sử, công trình
lập Dòng chị Magdeleine viết : Chúa đã nắm tay tôi và tôi nhắm mắt bước đi theo
Ngài...Trong cảnh bề ngoài hoàn toàn u tối và tất cả mọi phương tiện nhân sự đều
vắng bóng. Nhưng với lòng tin cậy vô bờ bến vào sức toàn năng của Chúa Giêsu.
Chính Ngài là Thầy những gì mà sức người không làm nổi.
Chúa đã chọn Chị và trao phó công
việc : Ngài đã chuẩn bị tôi từ thời thơ ấu, và đã kêu gọi tôi theo Ngài, chắc
chắn ngay khi tôi bước vào tuổi có trí khôn. Ngài đã gieo vào lòng tôi yêu mến
Châu Phi, đồng thời cũng làm tôi yêu chuộng những người bé nhỏ nhất, nghèo nàn
nhất và bị bỏ rơi nhất.
Chị Magdeleine đã lập Huynh Đoàn
các Tiểu Muội Chúa Giêsu, ngày 8.9.1939, tại Touggourt, sa mạc Sahara, bên
Algérie. Sau hai năm lập dòng, Chị kể lại cảm nghĩ ban đầu: Chúa theo đuổi tôi
với câu nói này: ‘‘ngài đã gửi họ đi từng hai người một đến các phố làng mạc’’.
Câu nói ấy là kỷ niệm tản mát của các Tông Đồ. Tôi thấy các Tiểu Muội ở khắp
nơi cùng lúc, gieo rắc tình thương như một tia sáng thật nhỏ. Mặc dầu các chị đầy
khuyết điểm, hèn kém. Tôi thấy chính mình đang làm lan rộng ngọn lửa Chúa ủy
thác. Tôi chẳng có gì đẹp hoặc tốt, mà chỉ có ngọn đuốc đang cháy. Tôi phải
mang nó đi khắp nơi. Nó sẽ khêu dậy và bừng sáng khi tỏa lan và truyền được sức
sống.
Điểm nổi bật nơi con người
Magdeleine là chất chứa tình yêu Chúa Kitiô nóng bỏng. Tinh yêu này thúc đẩy Chị
không ngừng đi đến với những người nghèo khổ nhất, những người bị bỏ rơi ở khắp
nơi. Qua họ, từ tình bạn, trao truyền tình yêu thương dịu hiền của Thiên Chúa
(Sđd. tr 5). Nhà chính của Tiểu Muội ở Ý: via di Aque Salvie 2, Tre Fontaine.
00142. Roma. Italia.
VIII. 150 năm sau, Như hạt giống
cần mục nát
Cha Charles de Foucauld như cây
chính có hai nhánh là Cha René Voillaume và Chị Magdeleine. Từ gốc chính này,
đã sinh hoa quả rờm rà tỏa bóng mát khắp nơi.
Gia đình thiêng liêng của Cha
Charles de Foucauld có 11 Dòng: 6 nữ và 5 nam (Congrégitions) và 10 hiệp hội
(Associations) và 18 gia đình (Familles). Tờ báo chung là Jesus Caritas, phát
hành 3 tháng một lần.
Các nhà Dòng của Cha Charles có mặt
ở khắp nơi, như: Hong Kong, Iraq, Syrie, Afrique, Ukraine, BaLan, Áo, Mỹ Châu
La Tinh, Pakistan, Ấn Độ, Egypte, Maroc, Thụy Sỹ. Ý, Pháp: Aix en Provence,
Marseille, Bagnolet, Rennes, Việt Nam
Hiện có nhiều người trẻ Vìệt Nam,
cả nam lẫn nữ đang tu và hoạt động trong Dòng này, ở ngay Việt Nam và ngoại quốc.
Tại hải ngoại có 10 chị đang hoạt động tại Ý, Pháp, Úc, Giêrusalem
Tại Việt Nam có cả Tiểu Đệ và Tiểu
Muội.
- Dòng Tiểu Muội có mặt tại Việt
Nam từ 1953.
Châm ngôn : Giêsu Tình Yêu. Đặc sủng:
Chiêm niệm giữa đời theo tinh thần con trẻ của Tin Mừng. Hoạt động: sống đời
thường như Chúa Giêsu Nazareth. Bổn mạng lễ Giáng Sinh 12-12. Địa chỉ liên lạc: 25/ 4 Phan Văn Hân, Q. Bình
Thạnh. TP Hồ Chí Minh. Bề trên là Matta Emmanuelle Nguyễn thi Nguyệt Ánh.
(GHCGVN Niên Giám. Tr. 374)
- Dòng Tiểu Đệ có mặt tại VN từ
1954, nhà đầu tiên ở Bàn Cờ, Sài gòn. Hiến pháp được Tòa Thánh phê chuẩn năm 1968.
Châm ngôn và mục đích : Bắt chước
Chúa Giêsu Nazareth. Bổn Mạng là lễ Giáng Sinh, 25-12.
Hoạt động: Kiếm kế sinh nhai bằng
lao động, đến và chia sẻ với những người nghèo. Địa chỉ liên lạc: 243/48 Tôn Thất
Thuyết, Q 4, TP Hồ Chí Minh. (GHCGVN Niên Giám. Tr. 328). Việt Nam có ĐTGM
Philipphê Nguyễn Kim Điền, nhập Dòng năm 1955.
Các chứng từ để kết luận
Xin chọn lời của hai Đức Giáo
Hoàng nói về Cha Charles de Foucauld:
ĐGH Phaolô VI đã viết trong thông
điệp Populorum progressio (26-3-1967): Cha Charles de Foucauld là vị truyền
giáo bằng bác ái, là gương mẫu anh em sống đại đồng, luôn hướng dẫn mặt tu đức. ĐGH Gioan Phaolô II đã 5 lần (1980, 1983,
1984, 1991 và 1994) nói về con người và tinh thần của Cha Charles: Nhờ Cha
Chrales mà có đối thoại với người thổ dân du mục để dễ rao giảng Tin Mừng. Cha
Charles xứng đáng là vị truyền giáo lớn như François d’Assisie, như Matteo
Ricci. Trong thế kỷ chúng ta, có nhiều người biết đến đạo Chúa là nhờ Cha
Charles, nêu gương đơn nghèo, kết hợp với Thiên Chúa, sống bác ái, huynh đệ, và
yêu thương (4-1984). (Sđd. tr. 306)
Ngày nay, biết bao nhiêu người trẻ,
tại nhiều nơi trên thế giới, không biết mệt mỏi theo gương Chân Phúc Charles de
Foucauld, làm tròn bổn phận với Chúa, với Giáo Hội và giữ đúng tinh thần trách
nhiệm liên đới với anh em chung quanh.
Những dòng trên chưa khám phá được
hết những hoạt động của người chứng nhân đạo Bác Ái, đạo Yêu Thương Thiên Chúa.
Sống tinh thần Phục Sinh là cần phải canh tân và hòa giải. Thiết nghĩ không gì
bằng đến với Chúa nhân từ trong tòa giải tội. Ở đây, Ngài sẽ rửa sạch tâm hồn
và khoác lại cho chúng ta chiếc áo trắng ngày Phục Sinh. Chiếc áo này sẽ là bằng
chứng tình yêu không hề phai giữa chúng ta với Ngài và sự liên kết bền chặt với
anh em.
Bài viết khác
Âm Nhạc Công Giáo trong Văn Hóa Việt Nam - Gs Lê Đình Thông
Vidéo : NGÀY VĂN HÓA THƯ VIỆN GIÁO XỨ VIỆT NAM PARIS - Chúa Nhật 07/04/2024
Thư mời Ngày Văn Hóa Thư Viện Giáo Xứ VN Paris 07-04-2024
The Chosen : Đấng được chọn - Công Bình
Rogations, nghi thức Cầu Mùa đang được hồi sinh tại giáo xứ Moissac - Công Bình
Chúc Thọ & Chúc Thêm - Cung Chi
Vâng Phục Qua Giấc Mơ - Anê Thùy Dung
Nhìn và Ngắm - Nguyễn Đăng Quế
Mùa Chay 2023 : Mùa Cháy – Mùa Chạy – Mùa Chảy - Lm Nguyễn Thanh Hiền, OSB
Đức Thánh Cha Phanxicô và chuyến công du đầu năm 2023 - Công Bình
Chuyện Yếu Đuối - Trầm Thiên Thu
Suối nước chữa lành - Sr. Maria Thúy Nga, FMA
Đôi lời tri ân độc giả Báo Giáo Xứ Việt Nam Paris - Giang Minh Đức
Vè Tết Quý Mão - Anna Trương Thị Lâm Sang