GIÁO DỤC CON CÁI
Thanh Hương TRẦN VĂN CẢNH
Tranvancanh@yahoo.fr
GIÁO DỤC CON CÁI
Tặng các cựu sinh viên Đại Học Sư Phạm Đàlạt
trong những khóa 1971, 1972 và 1973
và các khoá sinh trong 21 khoá Mục Vụ Hôn Nhân
tại Giáo Xứ Việt Nam Paris, từ 1995 đến nay
Thanh Hương TRẦN VĂN CẢNH
Tranvancanh@yahoo.fr
Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hòa vợ thuận nhà thường yên vui.
Sinh con mới ra thân người,
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.
Theo tư tưởng của người Việt Nam bình dân thì hôn nhân có bốn mục tiêu : Vợ chồng phải tào khang chung thủy ; Vợ chồng phải xây dựng một gia đình hạnh phúc, trong đó chồng hòa, vợ thuận và gia đình đạo đức ; Vợ chồng phải sinh con và giáo dục chúng để thành thân thành người ; Và Vợ chồng phải làm ăn để đạt chỉ tiêu thịnh vượng cho xí nghiệp, cho xã hội và ấm no cho gia đình . Như vậy, một trong những mục tiêu căn bản của hôn nhân là GIÁO DỤC CON CÁI. Nhưng giáo dục là gì ? Và phải giáo dục làm sao ?
Trong tác phẩm ‘’Giáo dục và xã hội‘’, xuất bản năm 1922, giáo sư sáng lập ngành xã hội học, E. DURKHEIM đã định nghĩa giáo dục như sau ‘Giáo dục là một hành động mà các thế hệ trưởng thành thực hiện nơi các thế hệ đang lớn lên để giúp họ hội nhập vào đời sống xã hội. Đối tượng của hành động giáo dục này là khich lệ và phát triển nơi trẻ nhỏ những thể trạng vật lý, trí tuệ và luân lý mà xã hội và môi trường nơi nó sinh sống đòi buộc’ . Hành động giáo dục này có thể được thực hiện và phân tích dưới nhiều khiá cạnh khác nhau : mục tiêu, tác nhân, chất liệu, hình thức, thời gian, không gian, dụng cụ, phương pháp,..
Dưới khía cạnh tác nhân, tức là người thực hiện việc giáo dục, người ta phân biệt tác nhân chính thức, như cha mẹ ở gia đình, giáo chức ở các trường học, chủ và thượng cấp ở sở làm. Và tác nhân không chính thức, như bà con, bạn bè, ... các nhóm sinh hoạt, các phương tiện truyền thông, các địa điểm và hoàn cảnh sinh sống và sinh hoạt.
Dưới khía cạnh phương pháp, dựa vào hai khả năng căn bản của trí tuệ là trí nhớ, trí hiểu và hai tác động nền tảng là làm việc, quan sát, ta có thể phân biệt bốn phương pháp giáo dục căn bản là : phương pháp huấn dụ, phương pháp đối thoại hỏi thưa, phương pháp thực tế hoạt động, phương pháp thực nghiệm quan sát. Dưới khiá cạnh thời gian, người ta phân biệt giáo dục tiền học đường, giáo dục học đường và giáo dục hậu học đường. Dưới khiá cạnh nơi chốn và định chế, người ta phân biệt giáo dục có định chế tổ chức và giáo dục không thành định chế hoặc không có tổ chức rõ ràng.
Kết hợp các khía cạnh trên và đặc biệt là hai khía cạnh tác nhân và phương pháp, trong đó, vai trò tác nhân giáo dục con cái của cha mẹ và bốn phương pháp giáo dục căn bản là huấn dụ, đối thoại hỏi thưa, thực tế hoạt động và thực nghiệm quan sát là hai đối tượng quan trọng, chúng tôi xin trình bày trong chương này một đề tài là ‘cha mẹ giáo dục con cái’ và, để diễn tả bốn phương pháp giáo dục một cách cụ thể, đề tài sẽ được trình bày lần lượt theo bốn phương pháp giáo dục.
■ cha mẹ giáo dục con cái _ huấn dụ
■ cha mẹ giáo dục con cái _ đối thoại
■ cha mẹ giáo dục con cái _ dự án hoạt động
■ cha mẹ giáo dục con cái _ sổ quan sát
♥♥♥♥♥
♥♥♥
♥
1. CHA MẸ GIÁO DỤC CON CÁI, PHƯƠNG PHÁP HUẤN DỤ
11. Phương pháp huấn dụ
Phương pháp huấn dụ là phương pháp cổ điển nhất đã được áp dụng trong việc giáo dục ở mọi cấp, mọi thời đại. Giảng bài, khảo bài, trình bày giáo trình, cắt nghĩa, diễn giảng, là những kiểu nóí tương tự diễn tả phương pháp huấn dụ.
Hầu như tất cả những tác phẩm giáo dục cổ của ta đều đã xử dụng phương pháp huấn dụ này : từ ‘Minh Đạo gia huấn’, đến ‘Huấn điều Lê Thánh Tôn’, từ ‘Gia huấn ca’ của Nguyễn Trãi, đến ‘Ca vè’ của cụ Sáu.
Trong việc giáo dục đức tin, bốn dụng cụ mà các giáo xứ Việt Nam thường dùng là đọc kinh, học bổn, nghe sách, nghe giảng đều áp dụng phương pháp huấn dụ.
Nhiều người chê phương pháp này là giáo điều, từ chương, kinh sách, tẻ nhạt, nặng luân lý, it thực tế, ít thực tiễn và ít thực hành.
■ Thực ra phương pháp huấn dụ là phương pháp cần thiết, hầu như không thể không áp dụng, để bắt đầu việc giáo dục, tổng quát hay chuyên biệt. Chỉ cần phân tích những nét căn bản của phương pháp huấn dụ, ta sẽ thấy ngay sự cần thiết của nó.
■ Phương pháp huấn dụ có đối tượng rộng lớn. Nó có thể truyền giao một kiến thức (như lịch sử Việt Nam, dòng dõi tổ tiên), một hành động (như nói tiếng Việt, đọc kinh sáng tối), hoặc một tác phong (như kính trọng ông bà), một nghề nghiệp (như làm nông, làm thợ, làm kỹ sư). Ca dao bình dân Việt Nam là một dụng cụ tuyệt hảo áp dụng phương pháp huấn dụ này.
■ Phương pháp huấn dụ xử dụng tri nhớ như một dụng cụ khả năng độc tôn. Cái gì cũng phải học thuộc lòng, thuộc lòng từ đầu đến cuối. Tất cả mọi động tác giáo dục đều nhằm giúp người học nhớ bài học : cắt nghĩa, giảng bài, đọc bài, lặp đi lặp lại, học bài, khảo bài,... Nhiều giáo xứ Việt Nam vẫn áp dụng phương pháp huấn dụ này trong việc tổ chức thi kinh bổn.
■ Vì học thuộc lòng để nhớ bài là quan trọng, phương pháp huấn dụ đặc biệt chú trọng đến các dụng cụ tri thức thuận lợi và hữu hiệu cho trí nhớ, như dùng các ngôn từ dễ hiểu, dùng cách dẫn giải tóm tắt, trình bày đề tài theo một tiến trình có trật tự, sáng sủa, có thầy dậy bài linh động hơn là chỉ đọc bài ở sách chỉ có chữ viết.
Bất cứ một ông thầy nào, bất cứ bậc cha mẹ nào cũng dùng đến phương pháp huấn dụ này. Ngay đức Khổng Tử cũng đã dùng phương pháp huấn dụ này. Trong sách Luận Ngữ, ngài viết : ‘Học nhi thì tập chi, bất diệc duyệt hồ ? Hữu bằng tự viễn phương lai, bất diệc lạc hồ ? Nhân bất tri, nhi bất uấn, bất diệc quân tử hồ ?’ (Kẻ học đạo lý mà thường ngày hay luyện tập cho tinh thông, nhuần nhã, há không lấy đó làm vui sao ? Nếu có những bằng hữu ham mộ đạo lý, nghe tiếng mình là người học cao đức lớn, chẳng ngại đường xa đến viếng mình, há không lấy đó làm vui sao ? Dẫu mình là người có học thức, có đức hạnh, nhưng không mấy ngưới biết mình, mình không vì chỗ đó mà buồn giận, há không phải là bực quân tử sao ?)
Sau đây, như là một thí dụ cụ thể của phương pháp huấn dụ, tôi xin giới thiệu bài giảng văn mà tôi vẫn nói với các khoá sinh đến học khoá chuẩn bị hôn nhân, từ khoá đầu tiên, mở ngày 08.12.1995. Bài giảng văn này đã được viết ra và in trong cuốn ‘Đường vào tình yêu’.
12. Huấn dụ về ‘Cha mẹ giáo dục con cái’
Để mở đầu cuộc thảo luận hôm nay, tôi xin gởi đến quí anh chị ba đóa hoa, hái từ sách Huấn Ca "Có con cái, trai hay gái, cha mẹ hãy lo giáo dục chúng" (HC 7.24-25). Bằng không, "chúng trở nên mất dậy và làm nhục cho cả cha lẫn mẹ" (HC 22.3-5). Trái lại, "Cả kho tàng của thế giới cũng không quí bằng có một người con được giáo dục tốt" (HC 26,28).
Và để đi vào đề tài "Giáo dục con cái" trong khóa mục vụ hôn nhân này, tôi xin đặt với quí anh chị ba câu hỏi và xin gợi một vài ý tưởng để khai mào :
● Tại sao phải giáo dục con cái ?
● Phải giáo dục con cái ở những lãnh vực nào ?
● Phải giáo dục con cái bằng phương pháp nào ?
121. Tại sao phải giáo dục con cái ?
1. Trong ca dao Việt Nam, ta đọc được câu này :
Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hòa vợ thuận nhà thường yên vui.
Sinh con mới ra thân người,
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.
Trong Tuyên Ngôn Giáo Dục Công Giáo, có viết ý tưởng này : ‘Vì đã nhận lãnh ân sủng cũng như bổn phận của Bí Tích Hôn Phối, nên Cha Mẹ phải dạy dỗ con cái ngay từ nhỏ, để chúng nhận biết và thờ kính Thiên Chúa cùng yêu mến tha nhân theo đức tin chúng đã nhận lãnh khi chịu phép rửa tội (GD 3). Nhiệm vụ và quyền lợi đầu tiên bất khả nhượng của cha mẹ là giáo dục con cái (GD 6)’.
Ở Giáo Luật, khoản 1055, Giáo Hội có dạy rằng : Tự bản tính, Hôn nhân phải hướng về lợi ích tinh thần và thể xác của đôi bạn và bổn phận sinh dưỡng và giáo dục con cái (GL 1055).
Qua văn hóa Việt Nam, cũng như giáo huấn của Giáo Hội, lý do thứ nhất khiến cha mẹ phải giáo dục con cái là vì đó là mục tiêu của Bí Tích Hôn Phối, và nói theo ca dao Việt Nam, thì vì đó là nghĩa tào khang.
2. Gần với lý do nghĩa tào khang, là lý do nợ tông đường. Cha mẹ ta đã sinh ra ta, đã giáo dục ta, đã làm ta ra thân người. Hôm nay, đến phiên ta, ta phải nhớ đến cội nguồn, phải trả cái nợ đã được giáo dục, bằng cách chính bản thân ta, ta giáo dục con cái ta. Đó là ý nghĩa của câu ca dao :
Trứng rồng lại nở ra rồng,
Hạt thông lại nở cây thông rườm rà.
Có cha mới sinh ra ta,
Làm ăn thời bởi mẹ cha vun trồng.
Khôn ngoan nhờ ấm cha ông,
Làm nên phải đoái tổ tông phụng thờ.
Đạo làm con chớ hững hờ,
Phải đem hiếu kính mà thờ từ nghiêm.
3. Vả lại, việc giáo dục con cái là lẽ tự nhiên. Tự bản tính tự nhiên, từ cây cỏ, súc vật, sinh vật nào cũng biết chỉ dạy cho con cái nó. Và quan sát chung quanh chúng ta, ta thấy ai ai cũng làm như vậy. Cha mẹ nào cũng lo lắng dạy dỗ con cái mình. Còn ta, lẽ nào ta chẳng làm như vậy ? Ta là một ngoại lệ sao ?
Sinh con, ai nở sinh lòng,
Sinh con ai chẳng vun trồng cho con ?
Đó cũng là lẽ mà Tuyên Ngôn Giáo Dục Công Giáo đã nhận định rằng : "Vì là nguồn truyền sự sống cho con cái, cha mẹ có bổn phận hết sức quan trọng là giáo dục chúng, vì thế, họ được coi là những nhà giáo dục đầu tiên và chính yếu của chúng. Vai trò giáo dục này quan trọng đến nỗi thiếu sót thì khó lòng bổ khuyết được" (GD 3).
4. Ngoài ra, như thày Khổng Tử đã dạy : "Kế một năm là trồng lúa, kế mười năm là trồng cây, kế trăm năm là trồng người" Giáo dục con cái phải được cha mẹ coi trọng và thực hiện kỹ lưỡng, vì đó là "lợi ích kinh tế".
Sinh con chẳng dạy chẳng răn,
Thà rằng nuôi lợn cho ăn lấy lòng.
Câu sách Huấn Ca mà tôi trích ở trên, cũng nghĩ như vậy, khi bảo rằng : "Cả kho tàng của thế giới cũng không quí bằng có một người con được giáo dục tốt" (HC 26,28).
5. Sau cùng, dẫu đã mặc nhiên hàm ý qua các lý do trên, nhưng để nói cho rõ ra, ta cũng nên xác định rằng cha mẹ phải giáo dục con cái, vì Giáo Hội dạy như vậy. Xin trích dẫn thêm một văn bản của Công Đồng Vatican II : Tự bản tính của nó, hôn nhân và tình yêu vợ chồng phải được hướng về việc sinh sản và giáo dục con cái, vì đó là chóp đỉnh cao đẹp của hôn nhân (GS 48).
Vậy tóm lại, trước câu hỏi "tại sao cha mẹ phải giáo dục con cái ?", xin thưa rằng vì năm lý do : vì nghĩa tào khang, vì nợ tông đường, vì tính tự nhiên, vì lợi ích kinh tế và vì Giáo Hội dạy như vậy.
122. Nhưng phải giáo dục con cái ở những lãnh vực nào?
Trong lá thơ gởi các gia đình tháng hai, năm 1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã vạch cho các bậc cha mẹ rằng "lý tưởng giáo dục công giáo là một giáo dục toàn diện". Thế nào là giáo dục toàn diện ? Trong thông điệp "Tông đồ giáo dân" viết vào năm 1988, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nhấn mạnh đến đức tin và giáo dục tôn giáo. Đồng thời ngài cũng không quên lưu ý chúng ta về những lãnh vực công dân, chính trị, xã hội và nghề nghiệp. Theo ngài, việc bồi dưỡng đức tin qua việc học hỏi giáo lý, thánh kinh, luân lý công giáo là căn bản. Nhưng đức tin phải là đức tin nhập thế và nhập thể. Do đó, đức tin phải được thực hiện không chỉ ở lòng mình, ở cộng đoàn mình, ở nhà thờ mình, mà phải sống động cả ở trong các môi trường khác nữa, nghĩa là các môi trường công dân, chính trị, nghề nghiệp, lãnh đạo, đoàn thể cũng là những đối tượng và nội dung mà giáo dục phải gắn bó và bồi dưỡng.
Văn hóa cổ truyền Việt Nam hoàn toàn đồng ý với quan niệm giáo dục toàn diện này, qua giấc mơ giáo dục bình dân :
Trên trời có cái cầu vòng,
Kẻ chợ Cầu Muống, cửa đông cầu Rền.
Vua trên đền, cầu vàng cầu bạc,
Các lái buôn cầu nước cầu non.
Đôi ta cầu của cầu con :
Con đẹp giống mẹ, con giòn giống cha.
Con gái dệt cửi trong nhà,
Con trai đi học đỗ ba khoa liền.
Con lớn thi đỗ trạng nguyên,
Hai con tiến sĩ đỗ liền cả ba.
Vinh qui bái tổ về nhà,
Bõ công đèn sách mẹ cha nuôi thầy.
Giáo dục toàn diện gồm năm lãnh vực :
1. Lãnh vực thể lý, phải dạy con ăn, nói, cười, chơi, đi đứng, chạy nhảy, vệ sinh, trật tự, sạch sẽ, chỉnh tề :
Trời sinh ra đã làm người,
Hay ăn, hay nói, hay cười, hay chơi.
Khi ăn thì phải lựa mùi,
Khi nói thì phải lựa lời, chớ sai.
Khi vui, chớ có vội cười,
Nơi không lễ phép chớ chơi làm gì !
2. Lãnh vực kinh tế, phải dạy con biết tính toán, tiết kiệm :
Làm người phải biết tiện tần :
Đồ ăn, thức mặc, có ngần thì thôi.
Những người đói rách rạc rời,
Bởi phụ của trời mà chẳng nên ăn.
3. Lãnh vực nghề nghiệp, phải dạy con biết chuyên cần làm ăn trong nghề nghiệp của mình :
Trăm năm như cõi trời chung,
Trăm nghề cũng phải có công mới thành.
Cứ trong gia nghiệp nhà mình,
Ngày đêm xem sóc giữ gìn làm ăn.
Chữ rằng tiểu phú do cần,
Còn như đại phú, là phần do thiên.
Đừng trễ nải, chớ ghét ghen.
Còn như lộc nước có phen dồi dào.
4. Lãnh vực luân lý xã hội, phải dạy con biết cương thường :
Làm người phải biết cương thường,
Xem trong ngũ đẳng, quân cương ở đầu.
Thờ cha, kính mẹ trước sau,
Anh em hòa thuận, mới hầu làm nên.
Vợ chồng đạo nghĩa cho bền,
Bạn bè cho thực, dưới trên đúng thường.
5. Một lãnh vực mà văn hóa Việt Nam không đề cập đến vì là độc đáo của người công giáo. Nhưng bất cứ cha mẹ công giáo nào cũng coi trọng. Đó là lãnh vực đức tin. ‘Đối với con cái, cha mẹ là những người cộng tác với ơn Chúa, là những chứng nhân đức tin. Thực vậy, cha mẹ là những kẻ trước tiên rao giảng và giáo dục đức tin cho con bằng lời nói và gương sáng (TĐGD 1). Chính cha mẹ có nhiệm vụ tạo cho gia đình một bầu khí thấm nhuần tình yêu cũng như lòng thành kính đối với Thiên Chúa và tha nhân (GD 3)’.
Tóm lại, trước câu hỏi "phải giáo dục con cái ở những lãnh vực nào ?", xin thưa rằng ở năm lãnh vực : thể lý, kinh tế, nghề nghiệp, xã hội luân lý và đức tin.
123. Phải giáo dục con cái bằng phương pháp nào ?
Cũng trong thơ gởi cho các gia đình vào tháng hai năm 1994, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã gợi cho chúng ta ý tưởng này :
"Phúc âm tình yêu là nguồn mạch bất tận nuôi dưỡng các gia đình công giáo. Tất cả tiến trình giáo dục tìm được trong tình yêu sự nâng đỡ và ý nghĩa sau cùng, vì đó là hiệu quả toàn diện của vợ chồng yêu thương và hoan hỉ cho nhau.
Tình yêu không ngớt bị thử thách : phải cố gắng, phải chịu đựng và đôi khi bị thất vọng trong việc giáo dục. Trong những cơn thử thách ấy, ta phải tìm đến nguồn sức mạnh thiêng liêng, mà không đâu khác hơn là nơi "Đấng đã yêu đến tận cùng". Giáo dục, bởi vậy, nằm trong lòng văn hóa và văn minh tình yêu. Giáo Hội không ngừng cầu nguyện để các gia đình được kiên trì trong trách nhiệm giáo dục của mình, để họ được can đảm, tin tưởng và hy vọng trong khắp các thử thách. Giáo Hội cầu nguyện để văn minh tình yêu giáo dục được phát triển thêm mãi".
1. Tình yêu, như vậy, là nguyên tắc, là phương pháp, là dụng cụ căn bản trong mọi hành động giáo dục. Tình yêu này cao cả, rộng lượng và bất tận :
Công cha như núi thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
2. Trên căn bản tình yêu, một phương pháp chiến lược rất hữu hiệu trong việc giáo dục con cái đã được nhiều thế hệ trắc nghiệm và xác nhận là sự cộng tác hỗ trợ của cả hai người cha mẹ :
Mẹ dạy thì con khéo,
Bố dạy thì con khôn...
Sự cộng tác hỗ trợ này được biểu lộ qua sự thống nhất về mệnh lệnh, giúp con cái an tâm và tin tưởng thi hành. Nên tránh tranh luận, gây gỗ trước mặt con cái về các mệnh lệnh trao cho chúng. Những tranh luận, gây gỗ này chỉ làm chúng hồ nghi, hoặc đưa cho chúng dịp lợi dụng sự khác biệt quan điểm của cha mẹ.
3. Yêu có nghĩa là chia sẻ, theo dõi, khuyến khích, chỉ dẫn. Nó ngược hẳn với sự buông thả phóng túng. Theo dõi để chia sẻ các ưu tư của con cái, để hiểu biết các giao du của chúng, để khuyến khích khi chúng làm đúng và để sửa dẫn khi chúng làm sai, là phương pháp giáo dục thứ ba rất quan trọng mà mọi cha mẹ cần áp dụng.
Con hư, bởi tại cha dong,
Vợ hư, bởi tại ông chồng cả nghe.
Cha sinh, mẹ dưỡng,
Cha đưa, mẹ đón.
Đừng áp bức con cái, nhưng hãy dưỡng dục, biết răn bảo sửa dạy theo đạo Chúa (Eph 6,4).
4. Một phương pháp giáo dục thứ tư, càng ngày càng được áp dụng, tại gia đình cũng như tại học đường, là phương pháp tâm lý phát sinh và hoàn cảnh. Phương pháp này chú trọng đến khả năng hấp thụ của trẻ em tùy theo lứa tuổi, tùy theo cá tính và tùy theo hoàn cảnh.
Nhưng đại cương thì lúc ban đầu rất là quan trọng :
Dạy con từ thuở còn thơ,
Dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về.
Mục tiêu vẫn gắt gao và đòi hỏi :
Cha muốn cho con hay
Thầy muốn cho trò khá.
Mà sự mắng phạt phải tùy người, tùy lúc, tùy việc mà áp dụng :
Mẹ đánh một trăm,
Không bằng cha ngăm một tiếng.
Gia đình là đơn vị quan trọng nhất của một xã hội lành mạnh và của một giáo hội tin cậy. Dẫu có bị khủng hoảng, gia đình vẫn là điểm tựa để thành công và để đương đầu với các khó khăn của cuộc đời. Giáo dục trong gia đình, bởi vậy, chiếm một địa vị vô cùng quan trọng. Giáo dục là lẽ tự nhiên, là nghĩa vợ chồng, là nợ tông đường, là chóp đỉnh cao đẹp, là kho tàng quí báu, là vinh dự hay tủi nhục của gia đình. Trong việc giáo dục gia đình, cha mẹ phải lãnh lấy trách nhiệm dạy bảo con cái và anh chị em cũng góp phần không nhỏ cho nhau. Trong gia đình công giáo, việc giáo dục có một lý tưởng toàn diện và bao gồm mọi lãnh vực, nhưng quan trọng nhất là lãnh vực đức tin, lãnh vực luân lý xã hội, lãnh vực nghề nghiệp, lãnh vực kinh tế và lãnh vực thể lý. Phương pháp hữu hiệu nhất để giáo dục con cái là giáo dục chúng bằng và trong tình yêu. Tình yêu bảo ta phải thống nhất đường lối giáo dục, không buôn thả, nhưng chia sẽ, theo dõi, khuyến khích và chỉ dẫn con. Tình yêu cũng bảo ta phải tùy thời, tùy nơi và tùy tuổi mà dạy con.
Gặp lại các anh chị và cùng nhau đi vào những căn bản giáo lý Giáo Hội và văn hóa Việt Nam về "giáo dục con cái", lòng tôi trào lên sự biết ơn Giáo Hội Việt Nam đã dạy dỗ tôi và đã cho tôi dịp gặp các anh chị. Xin chúc các anh chị lên đường vào hôn nhân đầy tin tưởng phó thác vào ơn Chúa và luôn tỉnh thức xét mình để đi đúng đường Chúa muốn qua ánh sáng lương tâm của anh chị.
♥♥♥♥♥
♥♥♥
♥
2. CHA MẸ GIÁO DỤC CON CÁI, PHƯƠNG PHÁP ÐỐI THOẠI
21. Phương pháp đối thoại phỏng vấn
Khởi đầu, một trong những lý do khiến các nhà sư phạm dùng phương pháp đối thoại này là để tránh sự tẻ nhạt và buồn chán mà phương pháp huấn dụ có thể gây ra, đặc biệt cho những môn học quá trừu tượng, mà các học trò không có cùng một trình độ, cũng không có cùng một thích thú. Phương pháp đối thoại tìm kiếm cái thích thú sâu xa của học trò, đáp ứng và thoả mãn những thích thú ấy bằng cách gởi đến và gợi ra những đề tài, những vấn nạn mà học trò lưu tâm và như vậy người dậy khơi động được cái tư tưởng, cái tâm tư sống động của học trò. Nhờ đó, học trò không còn thụ động lập lại bài học, không còn bị gò bó trả bài, nhưng sẵn sàng vận động trí thông minh để tìm kiếm và tìm hiểu một cách tích cực câu trả lời.
Dĩ nhiên, tìm hiểu (và hiểu được) là một tác động không đơn giản và không dễ dàng. Trước nhất phải làm chủ được ngôn ngữ để hiểu điều người ta đặt ra, để theo dõi được ý tưởng người ta đối thoại và để thảo ra được câu trả lời của mình cho người ta hiểu. Thứ đến, trên bình diện tư tưởng, phải làm chủ được những khái niệm, những hệ thống tư tưởng căn bản mà cuộc đối thoại đề cập đến. Đồng thời phải mẫn cảm để nhận ra được những quan hệ trong đề tài đối thoại, những nguyên nhân cũng như những hiệu quả từ hoặc do những ý tưởng đã và đang được cuộc đối thoại đưa ra, nghĩa là phải có khả năng phân tích và tổng hợp tinh nhuệ. Sau cùng, phải có một kinh nghiệm tối thiểu để chắp nối và so sánh những tư tưởng đang được đối thoại với thực tế sống mình đã, đang hoặc sẽ có thể gặp, hầu tìm ra câu trả lời khách quan, chính xác và thực tế.
Đối thoại là phương pháp xử dụng nói truyện, phỏng vấn như là phương tiện để đo lường những hiểu biết đã thâu nhận và khai phá, khám phá, sáng tạo ra những hiểu biết mới.
■ Trong mục tiêu thứ nhất, là đo lường những hiểu biết đã thâu nhận, sự đối thoại có thể được gọi là đối thoại kiểm tra. Loại đối thoại này đã được phương pháp huấn dụ dùng đến để hỏi bài và khảo bài. Nhưng phương pháp huấn dụ chỉ dừng lại ở trí nhớ, đòi phải có một trả lời chính xác, không ngần ngừ, không vu vơ, nhưng vào thẳng đề, trực tiếp. Phương pháp đối thoại cũng xử dụng trí nhớ, nhưng đi xa hơn, vận dụng nhiều đến trí hiểu, trí thông minh. Đối thoại có thể đề cập đến những điều đã đề cập trước, nhưng không phải để kiểm tra xem học trò có thuộc, có biết không, mà là để kiểm tra xem học trò có hiểu không. Đối thoại về cùng một đề tài, nhưng đặt ra những câu hỏi khác đi, chưa được đặt ra, nhưng câu trả lời vẫn sẽ dễ dàng, nếu đã hiểu. Tóm lại, dẫu có mục tiêu kiểm tra, đối thoại muốn vượt trên trí nhớ, đặt nó vào đúng chỗ của nó, như là một dụng cụ của trí hiểu, của trí thông minh, để trẻ nhỏ luôn gắng tìm ra cách hiểu của mình, cách diễn tả của mình mà sống một cách thông minh.
■ Trong mục tiêu thứ hai, là khám phá những hiểu biết mới, những ngôn từ mới, những tác phong mới hoặc những hành động mới, sự đối thoại có tầm vóc khai phá, khai phóng và sáng tạo. Đây mới đích thực là đối thoại. Sự đối thoại này không chỉ có tính cách phỏng vấn, điều tra, mà còn có đặc điểm gợi ý, hướng dẫn.
● Thay vì đọc một bài giảng, cắt nghĩa một bài học, để trẻ nhỏ nghe và tiếp thâu một cách thụ đông, cha mẹ hoặc người dạy chuẩn bị và tổ chức bài học một cách linh động hơn, khiến người học tham gia tích cực hơn.
● Liên tục người dạy đặt người học trước những vấn đề, trước những hoàn cảnh, rồi hướng dẫn, chỉ bảo và soi sáng tiệm tiến những khía cạnh khác nhau của đề tài. Dĩ nhiên cha mẹ không thể đòi hỏi con cái tìm ngay ra những kiến thức chính xác mà chúng chưa hề được biết. Mục tiêu là đặt vấn đề chứ không phải là đặt câu đố.
● Dùng những câu hỏi đáp ứng thích thú tìm tòi để con cái tự mình tìm ra những kiến thức, những dữ kiện, cha mẹ có thể giúp con tìm ra trả lời bằng cách trực tiếp và đúng lúc cho trả lời hoặc chỉ cho cách tìm ra trả lời hoặc qua sách vở, hoặc qua quan sát, hoặc qua suy lý.
● Điều quan trọng là cha mẹ phải giúp con vận động tất cả những hiểu biết, những nguyên tắc, những diều luật mà nó đã biết để suy đoán ra, diễn dịch ra, khám phá ra những kết luận tổng quát mới, những hiểu biết tổng hợp mới.
● Trong quá trình này, mục tiêu quan trọng là giúp con suy nghĩ và suy nghĩ đúng, rồi từ những ý tưởng tìm ra, giúp con diễn tả chính xác. Do đó, cha mẹ phải biết đặt ra nhiều câu hỏi, phải biết gạt bỏ những câu trả lời sai lệch, cải tiến và hoàn hảo những câu trả lời phiến diện hoặc khiếm khuyết.
● Có những trường hợp, đứa trẻ tự mình đặt ra câu hỏi cho cha mẹ. Đây là đối thoại rất tích cực và năng động. Trường hợp này, khó khăn lớn nhất là phải hiểu đúng ý mà đứa trẻ thắc mắc. Năm giai đoạn có thể áp dụng ở đây. Thứ nhất lắng nghe câu hỏi con đặt ra. Sau đó, lặp lại với nó câu hỏi mà mình đã nghe, để kiểm xem mình có hiểu đúng ý của nó không. Thứ ba là trả lời mà gắng hết sức dùng ngôn ngữ của trẻ. Thứ tư là kiểm xem trẻ có hiểu đúng câu trả lời của mình không. Và thứ năm, nếu câu trả lời của con đúng, thì nên xác định với nó là nó đã hiểu đúng.
Dĩ nhiên phương pháp đối thoại có những giới hạn của nó. Giới hạn thứ nhất là có những đối tượng không thể suy ra mà thấy được, như những dữ kiện lịch sử và địa lý, những tên gọi của các thảo mộc, địa danh, những thông tư, luật lệ,.. Giới hạn thứ hai là khả năng còn rất giới hạn của trẻ nhỏ về suy lý, phân tích và tổng hợp. Những nghiên cứu về tâm lý phát sinh và tâm lý dị biệt, khởi đầu từ Alfred BINET, Jean PIAGET cho thấy những khả năng mạnh và yếu của từng lứa tuổi. Điều quan trọng là cha mẹ phải biết áp dụng đối thoại một cách thông minh, tùy hoàn cảnh, tùy đứa trẻ, tùy vấn đề. Không dưng mà phương pháp đối thoại đã được các bậc thầy tên tuổi Á, Âu áp dụng. Socrate với phương pháp đối thoại mà ông gọi là ‘hộ sinh tư tưởng’. Khổng Tử đã giảng dẫn phần lớn tư tưởng của mình trong sách Luận Ngữ, không gì khác hơn là một cuộc đối thoại dài giữa ông và các đệ tử.
Sau đây, như là một thí dụ cụ thể của phương pháp đối thoại, tôi xin ghi lại cuộc đối thoại mà tôi đã thực hiên với các khoá sinh đến học khoá chuẩn bị hôn nhân, trong khoá thứ mười và nhiều khoá tiếp sau. Bài đối thoại này đã được viết ra và mang lên mạng Giáo Xứ www.giaoxuvnparis.org .
22. Đối thoại về ‘Cha mẹ giáo dục con cái’
Ngày 19-03-2000, trong khóa X Chuẩn Bị Hôn Nhân, tôi lo hướng dẫn 17 anh chị đang chuẩn bị lập gia đình trao đổi về vấn đề giáo dục con cái. Chúng tôi có một giờ để trao đổi.
221. trước nhất tôi đặt vấn đề và nghe những câu hỏi
Sau khi đã trình bày về mục tiêu muốn đạt, là gây một sự ý thức về tầm quan trọng của việc giáo dục con cái và phương pháp sẽ được xử dụng là đặt vấn đề, tôi đặt ngay một câu hỏi với lớp học: Các anh chị có câu hỏi gì về vấn đề giáo dục con cái không ?
Một chị giơ tay xin nói. Tôi mời:
- Xin mời chị.
- Dạ thưa thầy, theo thầy làm sao để dậy con nên người?
- Câu hỏi của chị nặng quá. Trả lời ngay e khó. Tôi xin chẻ câu hỏi của chị ra làm nhiều mảnh nhỏ hơn và xin hỏi lại chị, theo chị ‘‘nên người’’ nghĩa là làm sao ? Có phải nên người là hay đi lễ hay đi nhà thờ. Hay đóng góp tích cực vào việc xây dựng giáo xứ, xây dựng cộng đoàn ? Hay nên người là nên người con hiếu thảo với cha mẹ, biết giữ gìn gia phong, biết làm phong phú gia cảnh? Hay nên người là người có địa vị, tiền tài, có học cao ? Hay nên người là người có lòng nhân, thương người khốn cùng, thấp cổ bé miệng. Và còn nhiều khía cạnh khác của lý tưởng ‘‘nên người.’’
Tôi vừa nói rằng: ‘‘Câu hỏi của chị nặng quá, trả lời ngay e khó’’ là vì, tôi xin lấy một ví dụ cụ thể, chị muốn làm một món cá, chị phải làm thế nào ? Tùy theo chị muốn ăn cá chiên, cá nướng, cá rang, cá kho, cá hấp, cá gỏi hay cá canh ? Cách làm mỗi món khác nhau phải không chị? Việc ‘‘dậy con nên người’’ của chúng ta cũng vậy.
Trước khi tìm câu trả lời, tôi xin ghi nhận câu hỏi của chị đã đặt hai vấn đề lớn là mục tiêu giáo dục và phương pháp giáo dục.
Một anh khác xin nói:
- Thưa giáo sư, phải dạy con làm sao để chúng đừng quên mình là người Việt Nam và giữ được truyền thống dân tộc ?
- Theo em nghĩ, một chị trả lời, thứ nhất phải dạy chúng nói tiếng Việt, thứ hai phải đưa chúng đi lễ đi nhà thờ Việt Nam, thứ ba mình phải đi lại, kết thân với người Việt Nam để chúng cùng chơi với bạn bè Việt Nam.
- Theo em thì, một chị khác xin tiếp, phải cho chúng ăn cơm Việt Nam, phải dẫn chúng đi thăm ông bà, cô bác, họ hàng mình; và chính mình phải làm gương giữ tập tục Việt Nam. Em chỉ thấy vấn đề là cuộc sống bên này lặn lội quá. Cả tuần vợ chồng đi làm, sáng đi sớm, tối về khuya. Không còn thời giờ, gặp con còn khó, huống là dậy con nên người Việt Nam ? Em không biết làm sao ?
Giờ trao đổi cứ thế diễn tiến. Một câu hỏi được đặt ra. Ba câu hỏi khác được nêu thêm. Thấm thoát ba khắc đồng hồ đã trôi qua. Còn một khắc nữa là tôi phải chấm dứt giờ trao đổi. Tôi buộc lòng phải làm tổng kết.
222. Sau đó tôi lặp lại các câu hỏi đã được đặt ra.
1. Làm sao dạy con để biết kính trọng trên dưới, biết ngoan ngoãn vâng lời ?
2. Làm sao cho con giữ và sống đức tin ?
3. Làm sao tránh ảnh hưởng xấu cho con cái ?
4. Xin thầy cho biết phương pháp và phương cách giáo dục con cái ?
5. Đâu là lý tưởng của việc dạy con ?
6. Đâu là tiêu chuẩn biết mình dạy con đúng ?
7. Phải dùng phương tiện nào trong việc giáo dục con cái ?
8. Tại sao mình cứ lo lắng phải dạy con nên người? Tại sao mình phải dạy con ?
9. Bây giờ chúng em phải chuẩn bị thế nào để mai sau dạy con cho thành người tốt ?
10. Giáo dục con có phải là thương con không ? Phải thương thế nào, và đến mức nào?
11. Xin tóm lược cho biết một vài nguyên tắc và một vài lý tưởng về giáo dục con cái theo văn hóa Âu Châu và văn hóa Á Đông ?
12. Giáo dục là dạy con nên người, cho con được đầy đủ, được hạnh phúc, nhưng phải làm thế nào ?
13. Trong việc giáo dục con cái, sự quan tâm của cha mẹ phải để ý nhất đến chỗ nào ? Đến sự giao thiệp của chúng với bạn bè chăng ?
14. Em vẫn thắc mắc chưa hiểu phải dùng phương pháp nào để giáo dục con cái hay biện pháp nào để giáo dục con cái được. Xin thầy giải thích.
15. Sự giáo dục con cái là do gương mẫu của cha mẹ, bố mẹ em vốn bảo thế. Nhưng phải làm gương làm sao và ở những chỗ nào ?
16. Theo em, giáo dục không nên đánh con. Nhưng phải kiên nhẫn giải thích cho chúng hiểu, có phải thế không ?
17. Giáo dục con là cho con học hành tử tế. Nhưng phải học đến đâu ? Môn gì ? Ngành gì ?
18. Làm sao để con cái mình được đạo đức ? Sống đời sống công giáo tốt đẹp, mà không phóng khoáng ?
19. Làm sao để con cái đừng quên mình là Việt Nam ?
20. Làm sao để con cái giữ được các tục lệ tốt của Việt Nam ?
21. Làm sao để con không ‘‘tây’’ quá ?
22. Chúng em chưa cùng một đạo. Sự kiện đó có nguy hại đến việc giáo dục con cái mai sau của chúng em không ?
23. Làm sao để chúng em có cùng một ý hướng giáo dục con cái ?
24. Trong việc giáo dục con cái, trách nhiệm của cha mẹ là đến thế nào ?
25. Cả hai đều có trách nhiệm ngang nhau hay không ?
26. Tại sao ở Việt Nam lại trọng trai hơn nữ ?
27. Làm sao giữ liên lạc trò truyện dễ dàng với con cái ?
28. Làm sao sửa dạy con cái ở tuổi dậy thì và thanh thiếu niên ?
29. Cái mẫu nào là tốt để làm cha và làm mẹ ?
223. Rồi tổng hợp các câu hỏi vào vài ba nhóm chính và trả lời
Sau khi đã lặp lại 29 câu hỏi mà chính 17 anh chị đã đặt ra, để các anh chị dễ nhớ, tôi tóm tắt lại bằng cách gom góp chúng thành bốn nhóm câu hỏi :
1. Vì sao phải giáo dục con cái ?
2. Phải giáo dục con cái ở những lãnh vực nào ?
3. Phải giáo dục con cái theo lý tưởng nào ?
4. Và phải giáo dục con cái bằng cách nào ?
Về câu thứ nhất và thứ hai : Vì sao phải giáo dục con cái ? Và Phải giáo dục con cái ở những lãnh vực nào ?
Theo ý các câu hỏi đã được đặt ra và một số trả lời đã được gợi đến, đại cương 17 anh chị có mặt trong buổi trao đổi đưa ra trả lời sau đây :
1. Vì giao ước hôn nhân hay nghĩa vợ chồng đòi ta phải dạy và đặc biệt dạy con trong lãnh vực luân lý cho có đức.
2. Vì lẽ tự nhiên của đời sống đưa ta tự nhiên đến việc phải giáo dục con cái và đặc biệt giáo dục chúng trong lãnh vực thể lý cho được khỏe được đẹp.
3. Vì gia phong và nợ tông đường buộc ta phải dạy con và đặc biệt dạy con biết cư xử trong các liên lạc xã hội cho có cương thường.
4. Vì ích lợi kinh tế đòi hỏi, đã sinh con phải dạy con cho có nghề nghiệp làm ăn, cho mình bớt tốn, bớt lo, mà còn có thể được nhờ được vui.
5. Vì bí tích Hôn Phối và giáo huấn của Giáo Hội đòi buộc ta phải dạy con trong lãnh vực đức tin cho có đạo đức và thánh thiện.
Kết luận cho hai câu hỏi này, các anh chị nêu ra nguyên tắc giáo dục toàn diện ở mọi lãnh vực : luân lý, thể lý, xã hội, nghề nghiệp và đức tin.
Về câu hỏi thứ ba và thứ bốn : Phải giáo dục con cái theo lý tưởng nào ? Và Phải giáo dục con cái bằng phương pháp nào ?
Các anh chị đều đồng ý rằng :
1. Trong lãnh vực luân lý, phải tôn trọng các nguyên tắc luân lý, phải để ý đến tư cách tính tình của con, làm sao cho con ngoan ngoãn, hiền lành. Lý tưởng ở đây là đạt được hai chữ : tốt và có đức. Cách giáo dục tốt nhất ở đây là làm gương, là làm sao để hai cha mẹ đồng nhất tư tưởng về vấn đề giáo dục con cái. Những việc cụ thể các anh chị nêu lên là : Kiên nhẫn, để ý đến tính tình con cái, sửa trị tính xấu, duy trì và phát triển tính tốt, biểu lộ tình thương bằng lời và việc, công bằng với con và tôn trọng con.
2. Trong lãnh vực thể lý, phải lưu tâm đến cách đi đứng, ăn mặc, phải chăm sóc cách ăn uống và tình trạng sức khỏe của con cái, phải lưu tâm đến việc nghỉ ngơi, học hành và làm việc điều độ, cảm thông với thiên nhiên. Lý tưởng là đạt được hai chữ : khỏe và đẹp. Những việc cụ thể là tiên liệu những thay đổi để tìm hiểu nguyên nhân và tìm cách đáp ứng, giữ thể diện cho con, bao dung và quảng đại.
3. Trong lãnh vực xã hội, phải lưu tâm đến tư cách trong cách giao thiệp của con cái, trong gia đình biết hiếu thảo kính trên nhường dưới, ngoài xã hội biết tín trung. Lý tưởng ở đây là đạt được hai chữ : Trong hiếu ngoài sang. Phương pháp cần dùng là quan sát, cắt nghĩa, uốn nắn, sửa sai và hỗ trợ. Những việc cụ thể là dạy lễ giáo và đạo đức, tế nhị, nhẹ nhàng, thông cảm, tha thứ, cha mẹ kính trọng lẫn nhau.
4. Trong lãnh vực kinh tế, phải lo cho con trước là học hành tử tế, sau là có nghề nghiệp và chuyên cần làm ăn. Lý tưởng tóm vào ba chữ : Học giỏi, nghệ tinh và thân vinh. Phương pháp qui về ba việc : chỉ bảo, giúp đạt mục tiêu và bày vẽ. Cụ thể nên làm những việc sau : cộng tác với nhà trường, cho thời giờ, cho lời khen, giúp chọn bạn tốt, tin vào khả năng của con, nhẫn nại vui tươi, trao đổi và chia sẻ các kinh nghiệm của con, lưu tâm đến các ảnh hưỏng của học đường, xã hội và bạn bè, giúp tạo dựng sự nghiệp và xây dựng gia đình.
5. Trong lãnh vực đức tin, phải lưu ý về sự hiểu biết và thực hành đức tin của con : cho đi học giáo lý, dẫn đi lễ đi nhà thờ, lo việc xưng tội rước lễ và chuẩn bị lãnh nhận các bí tích khác, thực hiện việc đọc kinh tối sáng. Lý tưởng tóm vào hai chữ : Mến Chúa, yêu người. Phương pháp nên dùng ở đây là đi lại với giáo xứ, giữ đạo đứng đắn và cầu nguyện đều đặn. Những việc cụ thể cần làm : giúp con có đời sống đạo, tập thói quen tốt, giúp học giáo lý, khuyến khích gia nhập đoàn thể công giáo tiến hành, đốc thúc nhận lãnh bí tích, tạo niềm tin vui gia đình và thăng tiến lòng đạo đức.
Kết luận chung cho hai câu hỏi này, các anh chị nêu ra nguyên tắc giáo dục tình yêu.
Tóm kết lại, qua một giờ trao đổi về vấn đề giáo dục con cái, 17 anh chị lần lượt đã nêu lên 29 câu hỏi khác nhau. Các câu hỏi này qui về bốn câu chính là : Vì sao giáo dục con cái ? Ở những lãnh vực nào ? Theo lý tưởng nào ? Và bằng cách nào ?
Hai câu trả lời tổng quát các anh chị đã đưa ra là giáo dục toàn diện và giáo dục bằng tình yêu. Phương pháp áp dụng phải tùy theo tuổi, tùy theo hoàn cảnh.
Tôi khen các anh chị đã có nhiều suy nghĩ chín chắn và xin chấm dứt giờ trao đổi. Giải tán giờ học, tôi đang xóa bảng và bỏ đồ vào cặp, hai anh chị đến gần và nói :
- Xin cám ơn giáo sư đã trình bày rõ ràng vấn đề
- Rõ ràng ở chỗ nào ? Tôi có trình bày gì đâu?
- Dạ thưa giáo sư, giáo sư đã giúp cho chúng em suy nghĩ và đặt được nhiều câu hỏi, qui tụ vào bốn câu hỏi lớn trong việc giáo dục con cái.
Tôi bắt tay, cám ơn anh chị và xin từ giã ? Ra khỏi phòng học, một cặp anh chị khác đón tôi và thưa :
- Thưa thầy, học với thầy, học xong còn nhiều thắc mắc hơn là chưa học.
- Ấy, tôi đã giúp giải tỏa một số thắc mắc bằng cách đọc cho các anh chị một số câu ca dao bình dân Việt Nam và một số trích dẫn Thánh Kinh rồi mà.
- Dạ thưa thầy, vẫn chưa đủ. Chúng em vẫn chưa hiểu hết.
♥♥♥♥♥
♥♥♥
♥
3. CHA MẸ GIÁO DỤC CON CÁI, PHƯƠNG PHÁP (DỰ ÁN) HÀNH ÐỘNG
31. Phương pháp hành động
Trên phương diện tính tình học, người ta dựa vào bốn khả năng căn bản là tình cảm, tư tưởng, tưởng tượng và cảm xúc, để đưa đến bốn khuynh hướng tính tình căn bản là hiếu tình, hiếu lý, hiếu tưởng và hiếu động. Khuynh hướng thứ tư nêu rõ ra một trong bốn nhu cầu chính yếu của con người là hành động.
Ý tưởng, dù đẹp mấy đi nữa nếu không đưa đến hành động thì cũng chỉ là ý tưởng chết. Bởi vậy, nếu việc giáo dục ở gia đình cũng như ở học đường chỉ bám vào sách vở, chỉ vịn vào kinh sách, mà không đi vào hành động, không đi vào cuộc sống thì trẻ nhỏ thụ hưởng việc giáo dục ấy vẫn chỉ sống trong một thế giới giả tạo. Thành ra giáo dục bằng hành động là việc rất quan trọng và có thể tóm tắt qua những nguyên tắc chính yếu sau đây :
■ Ba mục tiêu căn bản của phương pháp giáo dục bằng hành động là : làm việc, phát triển trí tuệ và tạo được những kiến thức đích danh.
a. Giáo dục bằng hành động, theo nghiã đen là giáo dục bằng việc làm tay chân : suy tư với bàn tay, học bằng làm việc. Những việc làm cụ thể công giáo, như rước kiệu, hành hương, diễn tuồng thương khó, sinh hoạt Thiếu Nhi Thánh Thể, hát ca đoàn, dâng hoa, chầu lượt,... và tất cả những bí tích, từ rửa tội, xưng tội và rước lễ lần đầu, thêm sức, hôn phối,... đều là những hành động giáo dục đức tin rất cụ thể và rất hữu hiệu, ghi sâu vào lòng con trẻ đức tin và nếp sống công giáo. Dĩ nhiên tay chân và làm việc tay chân là quan trọng ; nhưng làm việc không chỉ có nghĩa là làm việc bằng tay chân. Nếu không thì những trẻ khuyết tật, bất toại hoặc bất động không làm việc được sao ? Làm việc, ngoài làm việc bằng tay chân, còn có thể là làm việc bằng trí óc, bằng ngôn ngữ. Cầm điện thoại nói chuyện với khách hàng, nghe họ nói, hỏi họ, mời được khách hàng mua một căn nhà, đó chẳng phải là việc làm quan trọng sao ? Trong những doanh nghiệp bán nhà, việc mời được khách hàng mua nhà quan trọng hơn việc xây nhà.
b. Từ việc làm tay chân đi đến phát triển trí tuệ. Nói theo Jean Jacques ROUSSEAU, thì “Những bậc thầy tư tưởng đầu tiên của ta là đôi chân của ta, đôi tay của ta, cặp mắt của ta... Thay vì đóng kín con trẻ vào sách vở, mà cho nó làm việc trong một xưởng, thì đôi tay của nó sẽ làm việc để giúp phát triển trí tuệ của nó“ . Như vậy việc làm trí tuệ đích thực là quan trọng, trí tuệ hiểu như là trí phán đoán. Chính vì vậy mà MONTAIGNE đã viết : “Có cái đầu giỏi (suy xét) thì tốt hơn là có cái đầu đầy (kiến thức),... Làm người khôn thì hay hơn là làm người biết nhiều“ . Nhà sư phạm Mỹ là DEWEY cũng đồng ý như vậy, khi ông viết : “Vai trò của nhà trường không phải là truyền thông cái kiến thức đã làm sẵn, nhưng là dậy cho con trẻ biết cách đoạt được cái kiến thức ấy khi nó cần“. Nhưng thế nào là một trí tuệ phát triển, thế nào là một cái đầu giỏi ? Và nhất là làm sao để giáo dục phát triển trí tuệ, làm sao để đào tạo cái đầu giỏi ? Bảy việc sau đây là cần thiết :
i. Trước nhất phải lay cho trí tuệ tỉnh dậy, nghĩa là làm nổi dậy tính tò mò hiếu kỳ, lòng ham biết, ham học, ham hiểu.
ii. Thức tỉnh rồi, điều thứ nhất mà trí tuệ phải đạt được là có tầm nhìn rộng, đủ để nắm được và phân tích được một cách rõ ràng những toàn thể đa tạp và di động trên chúng một cách dễ dàng.
iii. Sau đó phải học được thói quen suy nghĩ, thích thú suy nghĩ, chú ý suy nghĩ và chín chắn suy nghĩ, không vu vơ, hời hợt, vội vã.
iv. Rồi luyện được năng khiếu so sánh và nối chắp nhanh chóng giữa những đối tượng để tìm ra những liên hệ xa gần, trong thời gian và không gian
v. Rèn được khả năng phân biệt mau lẹ điều chính yếu với điều phụ tuỳ.
vi. Quen với ưu tư tìm ra nguyên nhân và đi đến hiệu quả.
vii. Và cuối cùng là quen với nhu cầu kiểm soát, kiểm soát có phương pháp và theo những thông tin chính xác, thực tế và cụ thể.
c. Để tạo được những kiến thức đích danh. Kiến thức chỉ đích danh là kiến thức khi nó là kiến thức của ta, kiến thức ta đã tiêu hoá được, kiến thức gắn bó với trí tuệ và tâm hồn của ta. Kiến thức đích danh này, nhiều khi ta không ý thức, vì nó đã được thu thập, kiến tạo và đoạt lấy từ lúc ta còn tấm bé, qua trăm ngàn kinh nghiệm hàng ngày. Kinh nghiệm hàng ngày, cái kinh nghiệm sống ấy đã như là một thức ăn nuôi dưỡng trí tuệ ta, biến tan vào tâm trí ta để tạo ra cái bản chất trí tuệ cá biệt của ta, làm thành cái khí lực cho mọi hành động của ta cũng như cho mọi tư tưởng của ta. Cái kiến thức học ở nhà trường, ở sách vở chỉ là cái vỏ nước sơn. Cái kiến thức do cuộc sống và từ cuộc sống mới thật là kiến thức đích danh. “Những bài học mà học sinh truyền cho nhau ờ sân trường có hiệu lực gấp trăm lần những bài học thầy dậy trong lớp“. Đa số những trường kỹ sư, thương mại ngày nay ý thức điều này. Đó là lý do khiến họ gởi sinh viên đi thực tập trong những xí nghiệp. Cũng vì vậy mà một giáo sư, một bác sỹ, một kỹ sư chỉ thật là giáo sư, bác sỹ, kỹ sư khi đã thực sự hành nghề và sống với nghề. Tóm lại, học bằng làm, học bằng sống, đó mới là thật học. Điều đó không có nghĩa là buông thả trẻ nhỏ để nó tự sống, hầu tự học. Nhưng có nghĩa là cha mẹ phải xen vào, phải lãnh lấy trách nhiệm dạy con, dạy con bằng và qua cuộc sống. Muốn dạy con nói tiếng Việt và văn hoá Việt nam, không gì hay bằng nói tiếng Việt với con trong gia đình. Muốn dạy con giữ đạo, không gì hay bằng cùng con giữ đạo. Muốn dạy con nên người, không gì hay bằng chính mình nên người và cùng con nên người.
■ Ba phương pháp quan trọng và khoa học là : theo cá biệt tính của trẻ, theo ngững nguyên tắc tâm lý phát sinh và chuyên biệt của trẻ và theo môi trường trẻ sống
a. Theo cá biệt tính của trẻ. Như chúng ta vừa xem ở đầu chương, mỗi người chúng ta đều có bốn khả năng căn bản là tình cảm, tư tưởng, tưởng tượng và cảm xúc, nhưng không đều nhau. Người thì nhiều tình cảm, thành ra có khuynh hướng hiếu cảm, ưa làm việc xã hội, dễ tha thứ. Người thì nhiều suy tưởng, ưa lý luận, thành có khuynh hướng hiếu lý, thích kỷ luật, hay nghiêm khắc. Người thì nhiều tưởng tượng, thành có khuynh hướng hiếu tưởng, ưa tìm tòi, hay thay đổi. Người thì nhiều cảm xúc, ưa hoạt động, thành có khuynh hướng hiếu động, khó ở yên, ưa ồn ào, ham hoạt động. Rồi nếu nhân bốn khả năng này với bốn yếu tố khác là phán đoán, tri giác, hướng nội, hướng ngoại, thì ít nhất ta có 16 loại tính tình khác nhau. Thật là chẳng có ai giống ai. Đúng là “Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính“. Không đứa trẻ nào giống đứa trẻ nào. Bởi vậy phương pháp giáo dục đầu tiên là phải tuỳ theo tính cá biệt của mỗi trẻ. Muốn biết tính cá biệt của mỗi trẻ, phải quan sát chúng. Chăm cây phải tuỳ theo loại, nuôi vật phải tuỳ theo giống, dậy người phải tuỳ cá thể. Còn gì hợp lý hơn ? Giáo dục là đồng hành với trẻ, phụ nó một tay, giúp bản tính tự nhiên của nó được phát triển, mà bí quyết chính yếu là làm sao điều hoà được giữa điều phải dạy với mức độ, sức lực và tính cá biệt của trẻ.
b. Theo những nguyên tắc tâm lý phát sinh và chuyên biệt của trẻ, mà việc quan sát, nhất là quan sát cách nó nói năng, cách nó chơi đùa, cách nó chạy nhảy, cách nó phản ứng, sẽ giúp cha mẹ biết phải dậy cái gì, dậy lúc nào và dậy làm sao. Nhà tâm lý giáo duc người Hoa Kỳ là ông DEWEY đã đưa ra nhận xét chính xác này : “Rèn sắt phải rén lúc nó nóng đỏ, rèn người cũng vậy, phải rèn đúng lúc trẻ thích thú và có dồi dào khả năng“. Sớm quá cũng không được, mà muộn qua cũng chẳng xong.
c. Và theo môi trường trẻ sống. Giáo dục là hướng về tương lai. Nếu muốn cho tương lai được xây dựng trên những nền tảng vững chắc, thì phải tựa vào hiện tại, tức là môi trường sống hằng ngày của trẻ. Giáo dục là mở rộng chân trời hành động cho trẻ, nâng cao các khả năng của trẻ. Muốn được như vậy, phải tựa vào nhữnng kinh nghiệm hiện thời của trẻ và phải hoà hợp với trẻ trong hoàn cảnh địa dư nó sống.
Một trong những người có uy tín trong việc áp dụng phương pháp giáo dục hành động là Jean Jacques ROUSSEAU, mà tác phẩm “Emile“ là một dẫn chứng tóm tắt cụ thể. Tôi xin trích lại vài câu điển hình :
“Ít khi bạn phải đề nghị cho nó điều nó phải học ; chính nó là người phải thích điều nó muốn học, phải kiếm điều nó muốn học và phải tìm ra điều nó muốn học“
“Bạn cần giúp cho học trò của bạn biết chú ý đến những biến cố thiên nhiên, như vậy, bạn sẽ giúp nó sớm biết hiếu kỳ. Đặt ra cho nó những câu hỏi đúng với tầm mức của nó rồi để nó tự tìm ra giải đáp“
“Nếu nó lầm, hãy cứ để thế, đừng vội sửa những lầm lẫn của nó, hãy yên lặng chờ đợi cho đến lúc nó tự thấy những sai lầm của nó và tự sửa lấy ; cùng lắm, vào một lúc thuận tiện, bạn có thể đưa ra một vài hành động có thể giúp nó cảm thấy những sai lầm của mình“
Sau ROUSSEAU, nhiều áp dụng phương pháp giáo dục hành động đã được nhiều nhà giáo dục đưa ra, như MONTESSORI, DECROLY, FREINET, DEWEY, KERSCHENTEINER.
Đặc biệt trong ngành quản trị, một áp dụng mới về phương pháp giáo dục hành động đã được đưa ra và từ ba chục năm nay, từ những năm 1970, đa số các trường dạy nghề, ở đủ mọi cấp khác nhau, đều áp dụng. Đó là phương pháp dự án.
32. Cha mẹ làm dự án về ‘giáo dục con cái’
Ngày thứ sáu 11.02.2005, trong chương trình khoá học ‘CHUẨN BI HÔN NHÂN, khoá thứ 20, một cuộc thảo luận về ‘Giáo dục Con cái’ đã đươc tổ chức tại Giáo Xứ Việt Nam Paris. 21 anh chị đang chuẩn bị đi vào hôn nhân đã đến tham dự buổi thảo luận này.
Có trách nhiệm dìu dắt cuộc thảo luận này, để mở đầu, tôi hỏi các anh chị muốn thảo luận về đề tài ‘Giáo Dục con cái‘ như thế nào ? Thảo luận một cách cổ điển, có tính cách tìm hiểu về những mục tiêu, những lãnh vực, những phương pháp giáo dục con cái ? Hay thảo luận một cách cởi mở hơn, có tính cách hành động thực tiễn hơn, bằng cách phác họa một dự án hướng dẫn việc giáo duc con cái trong tương lai. Cả 21 anh chị đều đồng ý thảo luận một cách thực tiễn, xây dựng ‘Dự án Giáo Dục con cái’.
321. Làm sao xây dựng dự án
Tôi mừng vì thấy 21 anh chị, sau một tuần làm việc mệt mỏi mà vẫn hăng hái, muốn học hỏi, muốn xây dựng hạnh phúc gia đình, muốn giáo dục con cái tốt. Tôi hỏi các anh chị :
- Các anh chị muốn xây dựng một ‘Dự án Giáo Dục con cái’. Vậy, theo các anh chị, để xây dựng ‘Dự án Giáo Dục con cái’, mình phải vạch ra được những điểm nào ?
Anh Giu se Trần Quốc Bình và chị Thérèse Đỗ Uyên Thi trả lời ngay :
- Thưa giáo sư, mình phải xác định được những mục tiêu mà mình muốn.
Chị Thảo và anh Lê Dân tiếp theo :
- Dạ thưa bác, mình phải đề ra được những việc mà mình phải làm.
Chị Thanh Tâm và anh Anh Sĩ điềm tĩnh giơ tay và phát biểu:
- Thưa bác và các anh chị, chúng em đồng ý với anh chị Bình Uyên và anh chị Dân Thảo là phải định được mục tiêu mình muốn rồi từ đó, thảo ra chương trình mình sẽ phải làm. Nhưng vấn đề là mục tiêu mình định và chương trình mình thảo có cụ thể, có khả thi và có hợp với mình không ? Bởi vậy, chúng em nghĩ, trước khi xác định mục tiêu và thảo chương trình, mình cần phải nhận ra hoàn cảnh hiện tại của mình và hiểu được những nguyên nhân đưa đến tình huống hiện nay.
Anh Mai duy Hoà và Chị Vũ Thị Kim Dung vỗ tay :
- Đúng, ý kiến của anh chị Sĩ Tâm đúng. Thưa thầy và các bạn, chúng em đồng ý với anh chị Bình Uyên, Dân Thảo và nhất là anh chị Sĩ Tâm.
Tôi khen các anh chị đã tìm ra một phương pháp làm việc rất khoa học và thực tiễn cho việc xây dựng dự án. Dự án là một dự tính cho tương lai, với mục đích, kết quả muốn đạt được và chương trình thực hiện với những việc phải làm và những phương pháp, những dụng cụ phải có để thực hiện tốt được những kết quả mong muốn. Nhưng tương lai là cái tiếp tục, cái nối dài của hiện tại. Bởi vậy, muốn cho dự án được cụ thể, khả thi và hữu hiệu, dự án phải được xây dựng với những dữ kiện của hoàn cảnh hiện tại và những nguyên nhân đưa đến tình huống hiện tại này.
Theo phương pháp ‘Bánh xe Deming’, mỗi công việc đều được quản lý xoay vòng theo chiều bánh xe 4 giai doạn này : Dự án (to plan), thực hiện (to do), kiểm soát (to check) và thăng tiến (to act). Ở giai đoạn thứ nhất, giai đoạn dự án, 4 việc phải làm là : 1. nhận ra những tình huống thực tại, những tình huống khách quan, cụ thể và có tầm vóc quan trọng; 2. phân tích những nguyên nhân khác nhau của những tình huống ấy; 3. xác định những mục tiêu mới muốn đạt với những kết quả cụ thể có thể nhận ra và đo lường được; 4. phác thảo một chương trình làm việc với những việc phải làm, những phương tiện nhân sự, vật liệu, phương pháp, dụng cụ và thời biểu rõ rệt.
1. Nhận định tình huống â 3. Xác định mục tiêu
ä Cụ thể æ Mục tiêu ä
ä Khách quan, ai cũng thấy æ Kết quả cụ thể ä
ä æ mong muốn ä
ä Tầm vóc quan trọng æ Chỉ tiêu đo lường ä
2. Phân tích nguyên nhân ã 3. Phác thảo chương trình làm việc
Nguyên
nhân 1 áâ Hành động 1
Nguyên
nhân 2 áâ Hành động 2
Nguyên
nhân 3 áâ Hành động 3
Nguyên
nhân 4 áâ Hành động 4
|
322. Dăm ba dự án giáo dục con cái đã được xây dựng
Áp dụng phương pháp ‘Bánh xe Deming’, cả 21 anh chị mỗi cặp cùng góp ý xây dựng một ‘Dự án Giáo Dục con cái’. Sau đây là bốn dự án đã hoàn tất. Những anh chị này đã cho phép tôi được sao y nguyên bản.
1. Dự án nhấn mạnh đến mục tiêu dung hoà văn hoá Việt Pháp
Dự án sau đây do anh Anh Sĩ và chị Thanh Tâm viết chung :
Nhận định tình hình hiện tại
- Nhiều ngưới trẻ không nói được tiếng Việt
- Thiếu sự trao đổi giữa cha mẹ và con cái
- Thời gian xem TV, chơi ‘jeux ordinateur’, làm ‘chat’ trên mạng lưới điện tử quá nhiều
- Thiếu đời sống đức tin vững mạnh, dễ bị lôi cuốn bởi cuộc sống tiêu thụ và vật chất
- Tệ nạn xã hội : thuốc lá, cần sa, ma túy,...
Phân tích nguyên nhân
- Cha mẹ không khuyến khích con cái
o Xử dụng tiếng việt giữa các thành phần gia đình
o Học hỏi về văn hoá, truyền thống và lịch sử của dân tộc Việt nam
o Tham gia những sinh hoạt của cộng đồng người Việt tại Pháp
- Ngay cả những cuộc đối thoại hàng ngày với nhau, cha mẹ thường dùng tiếng pháp
- Những người cha mẹ Việt Nam thường không coi trọng những ý kiến của con cái
- Cha mẹ quá bận về công ăn việc làm, thiếu thời gian để sống với con cái, tìm hiểu, trao đổi, chia sẻ và cảm thông những khó khăn, ước muốn, hy vọng của chúng
Mục đích của dự án
- Dù hội nhập vào xã hội Pháp, cũng không quên cội nguồn dân tộc và tiếng nói quê hương của mình
- Dạy con cái biết dung hoà giữa hai nền văn hoá Pháp-Việt
- Tạo dựng và củng cố tình cảm, sự tin tưởng, sự tôn trọng lẫn nhau giữa cha mẹ và con cái
- Dạy cho con cái biết trách nhiệm làm người về mặt đời cũng như đạo
Chương trình hành động
- Khuyến khích nói tiếng việt từ lúc nhỏ, tham gia các sinh hoạt của những cộng đoàn người việt tại Pháp, như Phong trào Thiếu Nhi Thánh Thể, Tổng Hội Sinh Viên,..
- Thường xuyên đọc truyện việt nam cho con nghe : cổ tích, lịch sử, luân lý, phong tục tập quán,...
- Mỗi ngày, cha mẹ nên dành một ít thời gian riêng cho con cái, để chia sẻ, nói truyện, giúp con cái giải quyết những khó khăn hàng ngày, như bài tập, thắc mắc,...
- Mỗi ngày, cha mẹ dành thời gian để cầu nguyện chung với nhau trong gia đình
Cha mẹ nên tập lắng nghe con cái, theo dõi sự phát triển của chúng về tinh thần lẫn thể xác
Tạo đìều kiện để cha mẹ và con cái ‘sống chung’ với nhau : cinéma, thể thao, du ngoạn,...
2. Dự án giáo dục nhấn mạnh đến mục tiêu làm giáo dân tốt
Dự án sau đây do chị Lucia Nguyễn thị Bích Hạnh dự thảo :
Khi chúng ta đã quyết định tiến tới hôn nhân, thì lúc đó trong cuộc sống của chúng ta có rất nhiều thay đổi. Thay đổi ở đây là thay đổi về cách sống, về tinh thần và ở nhiều lãnh vực khác nữa. Chúng ta không còn sống độc thân một mình như lúc trước nữa, mà ngược lại, bên cạnh ta, lúc nào cũng có một nguời bạn đời để cùng chia sẻ vui buồn, để cùng vượt qua những khó khăn, để cùng có được một mái ấm gia đình hạnh phúc.
Để có được như vậy, hai người chung sống phải biết nhường nhịn lẫn nhau, tha thứ cho nhau và phải sống trước nhất cho người mình yêu, sống theo gương Chúa Giê Su đã hy sinh mạng mình cho người Ngài yêu.
Không chỉ có một người bên cạnh mình, mà có thể còn có hai hay ba người nữa. Là những ai vậy ? Xin thưa đó là những đứa con tương lai của chính mình tạo ra. Thật là khó phải không ? Khi có con thì chúng ta lại còn có rất nhiều trách nhiệm. Trách nhiệm ở đây là trách nhiệm dậy dỗ cho con thành người tốt, thành người biết hiếu thảo, thành một giáo dân tốt trong Giáo Hội, biết đến Chúa, siêng năng đi dâng thánh lễ.
Để được những điều trên, thì từ bây giờ chúng ta phải lập ra một mục tiêu, vì có mục tiêu rồi, thì chúng ta sẽ dễ thành công hơn, sẽ dễ thực hiện hơn. Để được như vậy, trước nhất chúng ta phải nhìn nhận ra những khuyết điểm ở nơi con cái chúng ta, rồi từ dó, hai vợ chồng ngồi lại phân tích và tìm ra phương án để giảm bớt những khuyết điểm đó.
Giống như hiện tại, chúng ta sống ở nước ngoài, thì con cái không thường xuyên được tiếp xúc với ông bà, cô cậu, chú bác. Từ đó, chúng sẽ không biết bà con thân thuộc của mình là ai. Vì vậy, chúng ta phải thường xuyên nhắc nhở, để chúng không quên được cội nguồn.
Thứ đến, thường ngày chúng chỉ tiếp xúc với những người bạn ở trường và chỉ nói tiếng nước ngoài. Vì thế, chúng ta phải thường xuyên đưa con cái đến những nơi có nhiều người đồng hương để sinh hoạt và cùng tập cho các cháu biết nói tiếng mẹ đẻ, để chúng không bao giờ quên tiếng mẹ đẻ của mình.
Ngoài ra, còn rất nhiều điểm khác nữa. Vì thế, giữa chúng ta, chúng ta phải luôn luôn cầu nguyện. Xin Chúa ban phúc lành cho chúng ta, để chúng ta luôn được thành công, dể con cái noi gương theo. Và như vậy, chúng ta sẽ đạt được giấc mơ dạy con cái thành người.
3. Dự án giáo dục nhấn mạnh đến mục tiêu tôn trọng cha mẹ
Dự án sau đây do anh Mai duy Hoà và chị Vũ thị Kim Dung dự thảo :
Nhận định
- Nhiều đứa trẻ không được giáo dục tốt
o Không nghe lời và không coi trọng cha mẹ
o Thích tự do, tự lập, thích sống riêng
o Tìm đến cái xấu
- Tương lai của nhiều đứa trẻ
o Không được tốt
o Hoặc tốt, nhưng không có hạnh phúc
Phân tích
- Hoặc vì cha mẹ ít quan tâm đến con cái,
o Làm cho chúng cảm thấy
i. ít có sự ấm cúng gia đình
ii. không được thương yêu
iii. không đươc bằng bạn bè
o Từ đó, chúng trở nên
i. Không nghe lời cha mẹ nữa
ii. Không coi trọng cha mẹ nữa
iii. Và dần dần sống cô lập
- Hoặc vì cha mẹ nuông chiều con cái quá, tạo nên cho chúng một thói quen như là
o Muốn gì được đó
o Đua đòi
Mục Tiêu
- Làm cho chúng biết tôn trọng cha mẹ
- Dậy cho chúng hiểu biết thêm, biết cách quan tâm đúng mức
Kế hoạch
- Tập cho chúng một thói quen tốt từ nhỏ : chỉ cho chúng biết điều gì đúng, điều gì sai, điều gì nên làm và điều gì không được làm.
- Dậy cho chúng biết tôn trọng bề trên.
- Cho chúng tiếp cận với môi trường tốt, như cho chúng đến nhà thờ, cho chúng học giáo lý, cho chúng chơi trong môi trường tốt
- Sau này hướng dẫn chúng bước vào đời khi chúng trưởng thành.
- Cho chúng thấy được cuộc sống hạnh phúc của gia đình. Từ đó, chúng có thể nhận thức và tiếp nối bước vào cuộc sống riêng của chúng sau này.
4. Dự án giáo dục nhấn mạnh đến mục tiêu làm người tốt
Dự án sau đây là do hai anh chị không đề tên.
Đời sống mới đã đưa cho người trẻ thời nay về chỗ loạn lạc. Sự loạn lạc đó được biểu hiện ra bằng nhiều hình thức khác nhau.
Thứ nhất, tuổi trẻ thời nay được sự che chở của nhiều luật lệ. Cho nên, nhiều bạn trẻ đã lợi dụng để tung hoành, để làm tổn hại người bên cạnh. Ví dụ tổn hại về tinh thần, vật chất và sức khoẻ.
Thứ hai, nhiều người trẻ luôn luôn muốn ‘mình’ là con số ‘một’ ở giữa đám đông. Ví dụ con trai thì hung hăng nhất, vĩ đại nhất; con gái thì mình là đẹp nhất. Nhiều bạn trẻ tìm đủ mọi cách để đạt được ý muốn của mình. Con trai thì đi theo băng đảng, con gái (mà người pháp thường gọi là ‘lolitas’) thì chạy theo ‘mode ‘ : sửa ngực, mặc đồ ‘sexy’, trang điểm theo thời, làm percing,... Những người trẻ đó không muốn sống theo một cuộc sống hợp với lứa tuổi của họ, mà chỉ chạy theo những minh tinh ‘star’, mà giới thương mại cho là tuyệt vời.
Cái loạn lạc nói trên chỉ là kết quả của nhiều thiếu sót của những bậc cha mẹ, vì muốn đua đòi theo xã hội, mà phải cố làm việc; đâm ra bỏ bê sự dạy dỗ con cái.
Ngoài ra, phim ảnh, nhạc ca, tập truyện, báo chí, internet của thời đại mới làm cho nhiều bạn trẻ bị dễ cám dỗ : con trai thì Doc-génico, rocky, boy‘s band,... con gái thì Madona, Britney, Lorie,...
Nhiều cám dỗ khác, do ảnh hưởng của nhóm, như phải giống như mọi người bên cạnh, không muốn thua bạn bè trong trường.
Thêm vào đó, giới thương mại tiếp tay để cám dỗ, bằng cách bán đồ rẻ, đồ sexy, để đáp ứng những nhu cầu mới ngay cả cho những lứa tuổi từ 8 tuổi đến 14 tuổi.
Trước sự loạn lạc đó, chúng ta là những người cha mẹ tương lai phải cần để ý để dậy dỗ con cái thành người tốt.
Để ý ở đây nghĩa là chúng ta nên dành thời gian để gần con cái. Chỉ có cách này, đứa bé mới có thể theo gương đời sống của bố mẹ nó.
Chúng ta cũng đừng tỏ ra yêu dấu con cái quá. Mình càng thả lỏng con cái bao nhiêu thì chúng càng dễ bị cám dỗ bấy nhiêu. Ông bà mình có câu là :
Thương cho roi cho vọt
Ghét cho ngọt cho bùi.
Điều cần thiết nhất là phải làm sao cho con cái chúng ta được gia nhập vào một môi trường lành thánh. Ví dụ như đoàn Thiếu Nhi Thánh Thể của Giáo Xứ chúng ta. Để cho con cái chúng ta được lôi cuốn theo một đời sống ý nghĩa hơn, nói tóm lại, là được ăn uống lời Chúa.
Đây chỉ là một bí quyết riêng của hai chúng con. Mong rằng các bạn sẽ chia sẻ nhiều ý kiến tốt lành hoặc hay hơn, để chúng con có thể áp dụng môt cách thực tế hơn.
Đọc qua những ‘Dự án giáo dục’ trên đây của các anh chị trẻ đang bước vào hôn nhân, tôi tràn ngập một tâm tình tin tưởng vào các thế hệ tương lai của cộng đoàn giáo xứ, vì thấy họ có những suy nghĩ rất chín chắn và trưởng thành. Tôi chợt nhớ đến ‘Giấc mơ giáo dục bình dân’ được ca dao ghi lại rằng:
Trên trời có cái cầu vồng.
Kẻ chợ cầu Muống, cửa đông cầu Rền.
Vua trên đền, cầu vàng cầu bạc.
Các lái buôn cầu nước cầu non.
đôi ta càu của cầu con :
Con đẹp giống mẹ, con giòn giống cha.
Con gái dệt cửi trong nhà,
Con trai di học đỗ ba khoa liền.
Con lớn thi đỗ trạng nguyên,
Hai con tiến sĩ đỗ liền cả ba,
Vinh qui bái tổ về nhà,
Bõ công đèn sách mẹ cha nuôi thầy.
♥♥♥♥♥
♥♥♥
♥
4. CHA MẸ GIÁO DỤC CON CÁI, PHƯƠNG PHÁP (SỔ) QUAN SÁT
41. Phương pháp làm (sổ) quan sát
Phương pháp hành động mà ta vừa xem qua, chú trọng đến việc làm. Phương pháp quan sát mà ta đang nói ở đây, như tên gọi của nó, chú trọng đến quan sát. Cả hai đều đặt nền tảng trên cụ thể và thực tiễn. Cả hai đều đặt trọng tâm vào thế giới thiên nhiên, vào môi trường sinh sống, đều coi nặng tính cách khách quan của kiến thức, và đều có tính cách hướng ngoại.
Phương pháp quan sát độc đáo ở chỗ chú ý đến tương quan giữa những ý niệm và ngôn ngữ trừu tượng của phương pháp cổ điển với những sự kiện cụ thể hàng ngày. Nó cố gắng đưa cho những khái niệm một nội dung và tìm cho những sự kiện một tên gọi, một khái niệm. Từ khái niệm trừu tượng là ‘Mến Chúa’, hay ‘Yêu Người’, phương pháp quan sát đi vào đời sống để lượm ra những hành động tỏ lòng mến Chúa như cầu nguyện, xem lễ, đọc kinh, chịu các bí tích, học hiểu giáo lý,... hoặc những hành động tóm gồm trong chữ yêu ngưới, như thảo kính cha mẹ, thân ái với anh em bà con, hoà hảo với láng diềng, giúp đỡ cho kẻ đói khát được ăn uống ; thăm viếng kẻ bệnh tật, cô đơn ; tiếp đón người lạ lẫm ; cứu trợ kẻ hoạn nạn, bĩ cực,... ; lấy lời lành mà khuyên người, dạy kẻ mê muội, yên ủi kẻ âu lo, răn bảo kẻ có tội, tha kẻ rể ta, nhịn kẻ mất lòng ta, cầu cho kẻ sống và kẻ chết,...
Hai yếu tố chính yếu của phương pháp quan sát là : quan sát và ghi nhận.
O Quan sát là quan sát thiên nhiên và môi trường ở quanh ta, từ những sự vật to nhỏ cứng mềm, qua các loài sinh vật thảo mộc đủ loại, đến các giống động vật, từ gia cầm đến những giống hoang thú. Và sau nữa là con người, từ những người thân đến những người xa lạ, từ những người lớn đến những đứa trẻ, từ những người sang giầu đến những kẻ nghèo hèn. Sau cùng là các sự cố, từ những sự cố thiên nhiên, trăng mọc, sao lặn, gió thổi, bình minh, hoàng hôn, hạn hán, mây tan, mưa bão, lụt lội, động đất, sấm chớp,... đến những sự cố nhân tạo, làm ăn, xây cất, chiến tranh, cãi cọ, sinh nở, cưới hỏi, tang tóc, giỗ chạp, thờ cúng, học hành, kỹ nghệ, sản xuất, giao thông, thương mãi,... Điều quan trọng ở việc quan sát, để bảo đảm tính chất khách quan, là nó cần phải được quan sát trong toàn thể, không được bỏ qua một góc cạnh nào, ngay cả những góc cạnh có vẻ tầm thường, nhỏ nhoi, vô nghĩa, nếu không, sự quan sát sẽ thành khiếm diện và thiếu vô tư. Đôi khi chính qua những nét có vẻ nhỏ nhoi lại che dấu những điều quan trọng. Trong các khế ước, nhất là những khế ước bảo hiểm, qua những hàng chữ nhỏ ở cuối trang hay che dấu những khoản giao kèo kéo theo một số tiền lớn.
O Những điều mà trẻ nhỏ đã nhìn thấy, nghe được, ngửi được, sờ được, nếm được,... ghi một ấn tượng sâu xa trong trí não và tâm tư của nó, nó dễ nhớ và hầu như sẽ nhớ mãi suốt đời nó. Sự ghi nhận tự nhiên này, vì là tự nhiên, nên sâu đậm. Đó là một sự ghi nhận tiệm tiến, theo dòng thời gian, đi cùng với cuộc sống, nó có thể ghi nhận ít ỏi, nhưng những điều nó ghi nhận, đều được ghi nhận tốt, nó cấu kết vào tâm tư trẻ, tạo thành cái cấu trúc trí tuệ của nó, và sẽ được mang ra xử dụng mỗi lần có nhu cầu. Các thánh tử đạo Việt Nam sở dĩ sẵn sàng chết chứ không dám chối Chúa, vì ngay từ tấm bé đã được ăn ngủ trong lòng những gia đình kính sợ Chúa. Trong thực tế, không phải trẻ nhỏ nào cũng có những kinh nghiệm như nhau. Nhiều trẻ Việt Nam ở hải ngoại không được biết đến họ hàng, ông bà chú bác, dòng tộc. Nhiều trẻ nhỏ sống ở thành thị không hề được thấy cây táo, cây lê, con bò, con gà. Đó là lý do khiến các nhà giáo dục dùng đến hình ảnh, âm thanh, gọi chung là phương pháp thính thị để giúp trẻ nhỏ dễ dàng ghi nhận những những dữ kiện mà nó không được may mắn quan sát trong cuộc sống tự nhiên, thực tế hằng ngày. Từ khoảng hai chục năm nay, nghĩa là từ thập niên 1990, một phương pháp quản trị xí nghiệp mới đã được thành hình, đó là phương pháp ‘Quản lý tri thức’ (Knowledge Management, Gestion des savoirs), mà mục tiêu không xa với phương pháp giáo dục bằng quan sát là bao xa. Quản lý tri thức ở ba cấp : từ dữ kiện, qua tin tức, đến tri thức. Và qua bốn hành động chính là tạo ra tri thức, ghi nhớ tri thức, chia sẻ tri thức và xử dụng tri thức. Trong bốn hành động này, một dụng cụ rất quan trọng là làm được một sổ liệt kê và ghi nhớ những kiến thức đã được tạo ra.
42. Cha mẹ làm sổ quan sát về ‘giáo dục con cái’
Chiều thứ sáu, ngày 18.11.2005, trong chương trình khoá học ‘CHUẨN BI HÔN NHÂN, khoá thứ 21, một cuộc quan sát về ‘Giáo dục Con cái’ đã đươc tổ chức tại Giáo Xứ Việt Nam Paris. 15 anh chị đang chuẩn bị đi vào hôn nhân đã đến tham dự buổi quan sát này. Áp dụng phương pháp quản lý tri thức, một biến thể mới của phương pháp giáo dục bằng quan sát, một tuần lễ trước, ngày thứ sáu 11.11.2005, tôi giới thiệu chung với các anh chị một sổ quan sát liệt kê những việc phải làm trong việc giáo dục con cái và đề nghị các anh chị, từng cặp, làm một sổ riêng theo những tâm tư ước nguyện của mình mà mình sẽ áp dụng cho chính mình và cho con cái mình, trong gia đình mà mình sẽ lập. Tôi xin các anh chị, từng cặp, vào tối 18.11.2005, sẽ trình bày cái sổ quan sát liệt kê những việc phải làm trong việc giáo dục con cái của mình để chia sẻ cho các cặp khác. Bốn cặp đã làm sổ liệt kê những việc phải làm trong việc giáo dục con cái. Ba cặp không đủ khả năng tiếng việt ; hiểu lõm bõm và nói ngập ngừng; trong đó, một cặp sau giờ học đến xin tôi làm bản dịch tiếng pháp. Để kết thúc buổi học, tôi hỏi các anh chị : ‘Nếu phải giữ một điều, thì là điều nào ?’ Sáu chữ đã được nêu lên : ‘Lễ, Nhân, Kính, Hiếu, Đức tin, Không quá nghiêm khắc.’ Sau đây là bản tổng hợp của bốn sổ liệt kê chỉ nam giáo dục mà bốn cặp đã làm.
Một sổ quan sát liệt kê những việc phải làm trong việc giáo dục con cái
1. Dạy con là trách nhiệm của cha mẹ, dẫu rằng thầy giáo giúp việc dạy học, chị ở giúp việc tắm rửa ăn mặc.
2. Dậy con là một việc đòi hỏi phải mất khá nhiều sức lực, tâm lực, trí lực, tài lực và phương pháp, dụng cụ.
3. Dạy con phải tuỳ vào giai đoạn phát triển, cá tính riêng biệt và hoàn cảnh môi trường. Và phải dạy con ngay từ lúc còn là thai nhi.
421. Dậy con từ lúc còn là thai nhi
4. Nguyên tắc giáo dục căn bản và quan trọng nhất trong việc giáo dục thời thai nhi là giáo dục bằng tâm tình.
5. Chín tháng cưu mang cũng là chín tháng giáo dục tâm hồn đứa nhỏ, tạo hình thân xác cho nó và tạo hình nhân cách cho nó.
6. Người mẹ trực tiếp ảnh hưởng trong việc giáo dục con cái rất nhiều. Phải dạy con ngay từ lúc chúng còn nằm trong bào thai.
7. Giữa thai nhi và mẹ có sự giao thông chặt chẽ : không chỉ bằng trao đổi máu huyết qua cuống nhau, nhưng bằng cả cảm xúc niềm vui nỗi buồn.
8. Ảnh hưởng xấu tốt của người mẹ trong lúc mang thai sẽ kéo dài suốt đời đứa nhỏ : khoẻ mạnh hay bệnh tật, bình tĩnh hay nóng nảy, thông minh hay lú lẫn.
9. Thai nhi trong bụng mẹ, dẫu hạn chế về tri thức, nhưng sự cảm xúc đã bắt đầu : do đó, khi mẹ vui tươi hạnh phúc thì thai nhi cũng bình an thoải mái, tim đập nhịp nhàng bình thường ; khi mẹ buồn phiền, nóng giận thì thai nhi cũng xốn xáo, tim đập nhanh.
10. Nơi ăn chốn ở, trang nhã, đẹp đẽ làm cho tâm tư, tình cảm bà mẹ thoải mái sẽ có nhiều ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm và tính tình của đứa trẻ sau này. Phối trí, mầu sắc, yên tĩnh của chỗ ở, hình ảnh trang hoàng vui nhộn, hay êm đềm đều ảnh hưởng đến đứa trẻ.
11. Bầu khí gia đình hoà thuận, đầm ấm, vui vẻ, hạnh phúc sẽ giúp thai nhi phát triển thuận lợi.
12. Tâm tính của đứa trẻ có tự tin, có bản lãnh, phần lớn nhờ vào tình yêu của cha mẹ và ngay từ khi còn là thai nhi : mẹ trò tryện, yêu mến âu yếm, thoa nắn thai nhi.
13. Ngược lại, thái độ lạnh nhạt, dửng dưng hoặc oán hờn, chán ghét của người mẹ với thai nhi, sẽ tạo cho thai nhi và đứa trẻ sau này có nhiều hoài nghi, tự ti, tủi phận, bất mãn, nổi loạn,...
14. Nếu bà mẹ mang thai đạo hạnh, sốt sắng cầu nguyện, siêng năng chịu các bí tích, tin cậy vào Chúa, thì đứa nhỏ sẽ có nhiều triển vọng có được tâm tình đạo đức.
15. Việc ăn uống của bà mẹ rất là quan trọng cho dứa nhỏ cũng như cho chính bà trong giai đoạn mang thai.
16. Dẫu giai đoạn này, đôi khi có hiện tượng mà Việt Nam ta gọi là ‘ăn rở’, khi có thai các bà mẹ không nên ăn quá nhiều chất béo, chất mỡ ; nhưng nên dùng nhiều chất bột, chất đường, ăn nhiều rau trái ; uống nhiều nước, nhưng nên kiêng cữ các loại rượu bia.
17. Ba tháng đầu mang thai là thời kỳ hình thành và quan trọng nhất cho bào thai : có thể bị sẩy thai, hoặc hình thành ngoài tử cung.
18. Ba tháng giữa là thời kỳ tăng trưởng của thai nhi, tương đối an toàn cho cả con lẫn mẹ.
19. Ba tháng cuối, thai phát triển già dặn, vài biến chứng có thể xảy ra như băng huyết, .
20. Trong suốt thời kỳ mang thai, sự săn sóc và theo dõi y khoa trong các xứ Âu Mỹ tương đối kỹ lưỡng và đầy đủ ;
21. Nhưng việc luyện thân, vận động thân thể bằng thể duc, thể thao, đi bộ, làm việc nội trợ,.. thì các bà mẹ cần lưu tâm nhiều hơn để giữ sức khoẻ cho mình và cho con.
22. Và việc luyện tâm làm cho tinh thần được bình an, thư thái, gạt bỏ xúc động, lo âu, tránh buồn phiền giận dữ là điều quan trọng cho việc đào tạo sinh lý và tâm lý cho đứa nhỏ.
422. Dậy con lúc hài nhi, từ 0 đến 6 tuổi
Tổng quát
23. Nguyên tắc giáo dục căn bản và quan trọng nhất trong việc giáo dục ở lứa tuổi hài nhi là giáo dục bằng tâm tình.
24. Hãy làm mọi việc thường ngày và cụ thể, như thay tã, tắm rửa, cho ăn, ru ngủ với tình yêu thương, với con tim của bà mẹ, của người cha.
25. Trong mọi việc, hãy là gương mẫu sống động cho con. Giáo dục, tiếng bình dân gọi là ‘DẬY DỖ’ ; lúc thì phải dạy, lúc lại phải dỗ.
26. Tránh sửa phạt con theo cơn nóng giận của mình. Đó chỉ là thỏa tính nóng giận của mình chứ không phải là giáo dục.
27. Khi con sai lỗi, bình tâm chỉ dạy.
28. Giáo dục trong tự do, không gò bó trẻ quá, nhưng có kiểm soát.
29. Không nên dạy con bằng khiếp sợ.
30. Nếu con bướng bỉnh, hờn giận, cần phải kiên nhẫn bỏ qua ; ít phút sau trở lại, cắt nghĩa phải trái và tập nó phải xin lỗi
Thể lý
31. Nuôi con bằng sữa mẹ là tặng cho con một tình yêu an bình, một lòng tự tin mạnh mẽ.
32. Lãnh vực giáo dục quan trọng nhất trong lứa tuổi hài nhi là giáo dục thể lý, như ăn uống, đi đứng.
33. Mục tiêu quan trọng là làm sao cho con khoẻ mạnh, không bị yếu đau, tật nguyền.
34. Dần dà tập cho con biết tự làm lấy một số việc, như làm vệ sinh, đánh răng rửa mặt
35. Dậy cho con biết sạch sẽ, trật tự và ngăn nắp
36. Tập thói quen đi tiêu, đi tiểu đúng giờ, ăn ngủ điều độ, có giờ giấc
37. Ở giai đoạn một hai tuổi trẻ phải trải qua nhiều giai đoạn phát triển thể lí quan trọng như mọc răng, rồi tập lẫy, tập bò, tập ngồi, tập đi, tập chạy, tập nhảy,..
38. Trong những biến đổi này, trẻ ngặt mình khó chịu, mẹ phải biết chiều con đúng lúc.
39. Nhưng không nên nuông chiều quá mức để trẻ quen thói, e rằng sau này sẽ khó uấn lại.
40. ‘Cháu còn bé quá, không biết gì‘.Đó là một lầm tưởng.
41. Nên để những vật dụng nguy hiểm ngoài tầm tay con, như lửa, thuốc, dao kéo,...
42. Tập cho con biết quan sát và yêu mến thiên nhiên, biết quí trọng môi trường thiên nhiên với cỏ hoa, cây cối, chim cá,..
Đức tin
43. Tìm cách chia sẻ đức tin với con, càng sớm càng tốt, ngay ngững giây phút đầu đời của con, bằng mọi hình thức và hoạt động có thể, như bế đi nhà thờ, làm dấu thánh giá cho con.., dâng con cho Đức Mẹ.
44. Làm dáu thánh giá trên trán cho con mỗi tối trước khi đi ngủ và nói với con ‘Chúa chúc lành và gìn giữ con’
Luân lý xã hội
45. Nói tiếng Việt với con
46. Dậy cho con biết tươi mặt khi nói truyện, không nhăn nhó, không lắp bắp,
47. Nói cho rõ ràng, dễ hiểu, không gay gắt
48. Tập cho con biết chào hỏi lễ phép, biết cám ơn, biết xin lỗi.
49. Dậy con biết chào hỏi ông bà mỗi sáng dậy và mỗi tối đi ngủ, biết ra hỏi vào thưa với cha mẹ
50. Tính trẻ hay bắt chước ; Tránh cãi lộn, chửi thề trước mặt con
51. Ở tuổi ba bốn, trẻ biết nghe, biết hiểu và biết bắt chước.
52. Cách ăn nói của cha mẹ sẽ được trẻ bắt chước y rặt. Cha mẹ cần ý tứ và cẩn trọng trong lời nói.
53. Ở tuổi năm sáu, một số thái độ đã được thành hình, tốt có, xấu có, trong đó, một số diều trẻ làm là theo gương đã học được ở cha mẹ.
54. Nếu cha mẹ không muốn con nói dối thì đừng bao giờ nói dối nó.
55. Nếu cha mẹ muốn con tin tưởng nơi mình thì phải luôn giữ lới hứa vói nó.
56. Phải nghiêm khắc dậy con, nhưng luôn luôn trong và bằng yêu thương.
57. Và phải biết dạy con yêu kính cha mẹ, để chúng dễ tuân phục các điều hay lẽ phải mà mình truyền dạy.
58. Không nên dạy con bằng khiếp sợ
59. Nhưng tập cho nó tính bạo dạn.
60. Tập cho trẻ biết tôn trọng người khác và sự yên tĩnh của họ.
61. Tránh cho xem phim ảnh bạo lực , lố lăng
62. Tránh thiên vị, thương con này ghét con khác để tránh chúng ghen tị nhau.
63. Tập cho trẻ biết nhận lỗi và xin lỗi
64. Tập cho trẻ biết kiềm chế tính thô bạo mà nhân hậu với các loài sinh vật
65. Dậy con biết tiết kiệm
66. Dậy con biết chịu khó học tập
67. Khuyên con chọn bạn mà chơi
68. Giúp con luôn sống hồn nhiên vui tươi
423. Dậy con tuổi ấu thiếu, từ 6 đến 12 tuổi
Tổng quát
69. Nguyên tắc giáo dục căn bản và quan trọng nhất trong việc giáo dục ở lứa tuổi ấu thiếu là giáo dục bằng nhân ái và nguyên tắc.
70. Lãnh vực giáo dục quan trọng nhất trong lứa tuổi ấu thiếu là trí dục, đức dục, đức tin và luân lý xã hội.
71. Tuổi này, con cái bắt đầu xa dần cha mẹ, để tiếp cận với học đường, đoàn thể, xã hội
72. Đây cũng là tuổi tò mò và bắt chước, việc giáo dục quan trọng là chỉ bảo, gương lành và thói quen
73. Khi con sai lầm, vấp ngả, phải nâng đỡ, chứ không xỉ nhục, nhất là xỉ nhục trước mặt người khác
74. Sửa phạt, phải công minh, chứ không công thẳng. Tránh sửa phạt theo nóng giận quát tháo, đánh đập. Con sợ hãi, những lần sau sẽ chối lỗi vì sợ bị phạt
75. Tìm những lúc thân tình cho con thỏ thẻ, tâm tình
76. Không nên bênh vực con quá đáng. Nhà trường, hàng xóm, giáo xứ khuyến cáo thì xét lại hoặc nghe theo, chứ đừng cứ bênh vực con một cách mù quáng
77. Bữa cơm không phải là lúc đay nghiến, chửi bới con cái.
Thể lý, thiên nhiên
78. Cho ăn mặc sạch sẽ, ăn uống điều độ
79. Giúp con khám phá các bí mật của thiên nhiên, thưởng thức những cảnh ngoạn mục, những nơi kỳ thú.
80. Cho con dịp nhìn thấy các loài hoa cỏ thảo mc, các giống động vật quen thuộc
81. Giúp con quan sát cách sinh sống của những loài động thực vật ấy
Đức tin
82. Nếu con làm điều sai, thì dẫu có lợi, cũng nên ngăn cản, giải thich và chỉ bảo.
83. Lo cho con no ăn, ấm mặc đã vậy, nhưng cũng đừng quên dạy dỗ, răn bảo khi chúng trễ nải việc Chúa.
84. Cần phải phó thác vào Chúa, cầu nguyện xin Chúa soi đường chỉ lối, biết cách dậy con nên người.
Luân lý xã hội
85. Một trẻ sinh sống tại Âu Mỹ, không am tường văn hoá dân tộc, chưa hẳn đã là một đứa trẻ xấu.
86. Đời sống Âu Mỹ đơn giản, cách chào hỏi cũng đơn sơ hơn ở Việt Nam.
87. Hãy gắng làm cho trẻ yêu quí Việt Nam và người Việt Nam hơn.
88. Mẫu giáo dục tối thiểu phải đạt là làm lành, tránh dữ ; làm tốt tránh xấu.
89. Cần phải giáo dục sự ngay thẳng, lời nói và việc làm đi song đôi nhau
424. Dậy con tuổi dậy thì, từ 12 đến 16 tuổi và thanh niên, từ 17 đến 20 tuổi
Tổng quát chung cho cả trai lẫn gái
90. Nguyên tắc giáo dục căn bản và quan trọng nhất trong việc giáo dục ở lứa tuổi dậy thì là giáo dục bằng nhẫn nại.
91. Lãnh vực giáo dục quan trọng nhất trong lứa tuổi dậy thì là xã hội, giáo hội, đoàn thể.
92. Nếu không cần thiết, không nên lập lại những điều đã dạy trước kia
93. Không nên nhắc lại nhiều lần những nết xấu của trẻ khi còn bé
94. Trai hay gái, ở tuổi này, chúng đã biết nhận định trái phải, dẫu đôi khi vẫn còn khờ khạo
95. Dạy con biết yêu sự đạo đức và tránh xa những điều xấu xa, tội lỗi
96. Kể cho con nghe những truyện lành thánh
97. Lãnh vực giáo dục quan trọng nhất trong lứa tuổi thanh niên là hướng nghiệp và chọn nghề.
98. Nguyên tắc giáo dục căn bản và quan trọng nhất trong việc giáo dục ở lứa tuổi thanh niên là giáo dục bằng tin tưởng.
99. Dạy con biết sống giản dị, khiêm tốn và siêng năng làm việc
100. Dạy con biết trách nhiệm, biết chăm làm, chăm học để mở mang kiến thức, phát huy trí tuệ hầu có ích cho bản thân, gia đình và xã hội
101. Phương pháp giáo dục độc đáo ở giai đoạn này là theo tâm lý giới tính
Trẻ trai
102. Ở tuổi dậy thì, cảnh ấm cúng gia đình có khi không đủ hấp dẫn nữa, trẻ trai thích ra ngoài dong chơi, nhất là vào những cuối tuần. Dĩ nhiên không thể khép kín con trong nhà; nhưng cho phép trong một kỷ luật nhất định
103. Tránh bao bọc, che chở quá đáng, khiến chúng ỷ lại vào sức mạnh, tiền tài cha mẹ cung phụng
104. Cho con vui chơi có mức độ, có giờ giấc
105. Cho con tự do, nhưng phải có giới hạn và tùy tính tình mỗi đứa
106. Cho con dong chơi suốt đêm là vô tình dung túng đưa con vào con đường xấu
107. Cách tốt nhất giữ con ở nhà vẫn là bầu khí gia đình hoà thuận, sung sướng, hạnh phúc
108. Dạy con biết tìm những thú vui thuần khiết, cao thượng và tránh xa những thú vui xấu xa tội lỗi
109. Nếu có khả năng, nên giúp con và tham gia vào chương trình sinh hoạt buổi tối trong gia đình, như chơi chung ván cờ, ván bài, coi chung một cuốn phim, ca chung một bản nhạc,...
110. Dạy con biết mỉm cười bỏ qua những cuộc vui chơi không cần thiết, nhất là khi không đủ phương tiện
111. Dạy con biết vượt thắng những dục vọng, bỏ qua được những thiếu thốn và tìm cách thăng tiến và vươn lên
112. Cần biết trẻ lại với con, biết gần gũi với con, chấp nhận cái mới của tuổi trẻ, biết cho chúng tự do thoải mái
113. Cần dạy tính quảng đại để đừng ỷ lớn ăn hiếp em
114. Làm cho chúng biết khoan dung và nhân nhượng với kẻ yếu thế
115. Giúp trẻ có một lý tưởng để vươn lên trong cuộc sống
116. Tạo cho con trai ý thức tự lực tự cường để về sau cáng đáng trách nhiệm với gia đình
117. Dạy con biết yêu chuộng sự công bằng, lẽ phải và khinh ghét sự luồn cúi, nịnh bợ
118. Dạy con biết tôn trọng danh dự bản thân và danh dự của người khác
119. Dạy con biết làm giầu một cách liêm chính, mà không bất chấp đạo lý, luật pháp
120. Khuyên con biết tránh những giao du lừa đảo, phá phách, tránh những danh lợi bất chính.
121. Dạy con có lòng vị tha và quảng đại, để nó biết yêu thương và giúp đỡ mọi người, nhờ đó, mọi người sẽ thương mến nó
Trẻ gái
122. Ở lứa tuổi dậy thì, tâm hồn trẻ gái có nhiều cảm xúc phức tạp, đòi hỏi cha mẹ, và nhất là mẹ nhiều quan tâm.
123. Con cần đến kinh nghiệm sống của mẹ
124. Mẹ cần cởi mở hoà mình với con, xem con như người bạn nhỏ, gây cho nó sự tin tưởng nơi mẹ, thích tâm sự với mẹ hơn là với lứa bạn cùng tuổi
125. Mẹ nên khéo léo giúp con có được những suy nghĩ chín chắn về tình yêu
126. Mẹ cần làm cho con hiểu vai trò quan trọng của một người vợ, một người mẹ đảm đang trong hạnh phúc của một gia đình, Á cũng như Âu, cổ cũng như tân, giầu cũng như nghèo.
127. Mẹ nên tập cho con làm những việc nhà, từ nấu nướng, thêu thùa, may vá, đến nội trợ, tề gia
128. Bằng mọi cách, mẹ phải tập cho con những việc làm cần thiết để mai sau trở thành một người vợ đảm đang, một người nội trợ giỏi và một người mẹ hiền
129. Mẹ không nên dùng quyền oai mà đòi hỏi con phải làm điều này, điều kia, nhưng biết chia sớt những tâm tình trắc ẩn của nó, giúp nó tháo gỡ những xáo trộn uẩn ức
130. ‘Trai tài, gái sắc’, ca ông bà vẫn bảo thế. Dung nhan, duyên sắc là một trong bốn đức của người nữ
131. Mẹ nên giúp con gái làm đẹp, biết trang điểm, ăn mặc hợp với thân hình và hoàn cảnh của mình, mà không lố lăng
132. Và giúp con hiểu rằng cái đẹp cần đi đôi với cái nết na duyên dáng. ‘Cái nết đánh chết cái đẹp’
133. Làm đẹp cho con rồi giúp con làm đẹp, không ai thay được mẹ
134. Mẹ nên giúp con nhận ra cái đẹp cái xấu của nó, mà giảm đi cái xấu, tăng thêm cái đẹp, cái duyên
135. Mẹ nên giúp con ý thức được vẻ đẹp của mình, mà không kiêu căng hoặc mặc cảm
136. ‘Ăn mặc giản dị, không làm bớt vẻ đẹp’, mẹ nên giúp con hiểu như vậy, tránh diêm dúa và cố vấn giúp con chọn lựa áo quần theo vóc dáng của nó
137. Mẹ cũng nên giúp con đừng quá giản dị, mà thành lôi thôi lếch thếch
138. Mẹ nên giúp con ý thức rằng cách ăn mặc biểu lộ tính tình và phẩm cách con người
139. Trang điểm là điều tự nhiên và cần thiết của con gái trong xã hội hôm nay
140. Mẹ nên giúp con trang điểm đúng lúc và dùng những mỹ phẩm có chất lượng để tránh làm hỏng da mặt
141. Khéo trang điểm sẽ làm tăng thêm vẻ đẹp. Nhưng trang điểm không đúng cách thành ra trò cười cho người khác.
142. Mẹ cũng nên giúp con hiểu rằng cái đẹp chỉ có giá trị nếu con khoẻ mạnh, cho nên thể dục, thể thao để giữ cho vóc dáng được lanh lẹ bảnh bao là điều cần.
143. Ăn uống điều độ, chứ đừng vì sợ mập mà kiêng cữ quá đáng thành suy nhược
144. Hoa quả, rau cỏ là những thức ăn giúp cho da dẻ được tươi tốt
145. Ngủ nghỉ chừng mực mà không ươn lười sẽ giúp cho tinh thần tỉnh táo, thân xác mạnh khoẻ, vóc dáng mặn mà.
146. Con gái từ tuổi dậy thì, kinh nguyệt là chuyện bình thường, mẹ nên giúp con đừng hoảng sợ, hoang mang, lo lắng lúc đầu và nhắc nhở nó về vệ sinh cần thiết, rửa ráy thường xuyên,..
147. Mẹ cũng nên bày cho con những việc phải tránh và nên làm trong thời kỳ kinh nguyệt, trong những việc ăn uống, may mặc, đi lại, chơi đùa, giải trí, thể dục, thể thao,..
148. Trong mọi việc giáo dục con, mẹ phải làm sao để con cảm thấy sung sướng và hạnh phúc khi ở bên mẹ và trên cõi đời này chẳng ai yêu thương nó bằng mẹ. Tình mẹ con thật là êm đềm, mật thiết
426. Dậy con tuổi trưởng thành, từ 20 tuổi trở lên
Tổng quát
149. Nguyên tắc giáo dục căn bản và quan trọng nhất trong việc giáo dục ở lứa tuổi trưởng thành là giáo dục bằng tin tưởng, cộng tác và đồng hành.
150. Lãnh vực giáo dục quan trọng nhất trong lứa tuổi trưởng thành là trách nhiệm, dấn thân.
151. Phương pháp giáo dục độc đáo ở giai đoạn này là theo vai trò giới tính : con trai làm chồng, con gái làm vợ.
Thanh nam
152. Một trang thanh niên không thể sống luồn cúi, mà phải ngẩng cao đầu lên, lãnh nhận lấy trách nhiệm
153. Sự hướng nghiệp đã được thực hiện từ lứa tuổi dậy thì. Ở giai đoạn trưởng thành, cha mẹ phải giúp con có công ăn việc làm và yêu thích nghề của nó.
154. Nếu cần phải đổi nghề, cha mẹ phải giúp con chọn đúng nghề của chúng hơn, tùy theo năng khiếu, sở thích và môi trường kinh tế.
155. Nhắc nhủ và tập cho con lãnh lấy trách nhiệm trước khi bước vào hôn nhân, biết tự lập, biết làm chủ, biết lập sự nghiệp, biết cách đối xử với vợ con, biết nghĩ đến việc đền đáp công ơn dưỡng dục, biết kính trọng cha mẹ ruột cũng như cha mẹ vợ.
156. Giúp cho đôi trẻ có đời sống dễ dãi, nhẹ nhàng, tươi mát và hạnh phúc.
Thanh nữ
157. Làm vợ và làm mẹ là những sứ mệnh cao trọng, cần một tâm địa hướng thiện, tấm lòng khiêm nhu, tâm hồn rộng mở, nhân hậu, tha thứ và biết hy sinh.
158. Đức hạnh và tiết hạnh của con gái đã được rèn luyện từ tuổi dậy thì. Ở giai đoạn trưởng thành, mẹ phải gần gũi và chia sẻ với con, hầu giúp nó giữ gìn bản thân và trái tim yếu đuối, hầu tránh những vấp ngã trước cạm bẫy của cuộc đời.
159. Mẹ hãy truyền lại cho con những kinh nghiệm bản thân trong thời kỳ làm dâu, làm vợ và làm mẹ. Đặc biệt là những tế nhị với mẹ chồng và thái độ kính yêu nên có
160. Mỗi gia đình có một gia phong khác nhau, mẹ phải vạch cho con biết chịu đựng và khắc phục những khác biệt ấy, đừng khinh khi những người nhà chồng, gợi ra tự ái, gây ra va chạm, bất hoà và bất hạnh. Sự nhẫn nhục của người dâu, trước sau cũng sẽ được biết đến và mến phục.
161. Muốn cho gia đình yên ấm, nhất định người vợ phải góp sức cùng chồng trong nội trợ và giáo dục con cái đã vậy, mà còn cả trong việc kinh tế, tiết kiệm, chi tiêu. Mẹ phải giúp con gái rõ được điều ấy.
162. Cuộc sống gia đình có những lúc gian lao thử thách, mẹ phải bày cho con biết can đảm giải quyết, mà không thụ động, ỷ lại.
163. Hạnh phúc của một gia đình phần lớn do bàn tay của người vợ và người mẹ.
♥♥♥♥♥
♥♥♥
♥
Đọc qua những dòng trên đây, rõ rệt chúng ta thấy rằng giáo dục con cái là sứ mệnh quan trọng của cha mẹ. Nó phát xuất một cách tự nhiên nơi bất cứ cha mẹ nào và có vẻ dễ dàng thực hiện. Nhưng hiệu quả không nhất thiết và không đồng đều vì tuỳ thuộc vào cách làm. Bởi vậy, phương pháp áp dụng là một điều quan trọng. Bốn phương pháp căn bản đã được ghi nhận và áp dụng khắp nơi. Đó là huấn dụ, đối thoại hỏi thưa, thực tế hoạt động và thực nghiệm quan sát. Bốn phương pháp này có thể áp dụng riêng rẽ hoặc chung một lúc.
Thực ra bốn phương pháp giáo dục này đã được thiết kế theo một tiến trình mà người ta gọi là tiến trình học tập. Nó được xây dựng theo bốn kết quả thực tế của việc học tập. Cấu trúc của nó không khác cấu trúc của một bài luận, có mở bài, thân bài và kết luận. Bất cứ một việc giáo dục nào, bao giờ việc nghe giảng giải cũng là việc cần thiết khởi đầu. Từ đó, muốn phát triển, người học phải đi tìm tòi để hiểu. Và một khi đã hiểu, phải mang ra áp dụng. Nếu áp dụng thành công, nên kết thúc bằng một bản đúc kết viết thành một chỉ nam hầu áp dụng mãi mãi về sau.
Bốn giai đoạn học tập đưa đến bốn giai đoạn hình thành tri thức : ý niệm sơ khởi, tìm tòi hỏi thăm, áp dụng thực hành và sau cùng đúc kết tổng quát. Trong bất cứ mức độ và lãnh vực nào, cụ thể hay trừu tượng, khoa học hay văn chương, xã hội hay kỹ nghệ, quản lý hay chính trị, một tri thức luôn luôn khởi đầu với sự ý thức và khái niệm sơ khai. Bao lâu tôi không biết rằng tôi không biết, thì bấy lâu tôi sẽ vẫn không biết. Nhưng lúc mà tôi biết rằng tôi không biết, thì lúc ấy tôi bắt đầu biết, ít nhất tôi biết rằng tôi không biết. Cái ý thức sơ khởi này thường được nhận ra nhờ đâu đó, ai đã cho ta một khái niệm. Từ một khái niệm sơ khai, tính tò mò thúc đẩy con người đi tìm tòi, đi hỏi han để hiểu hơn và nếu vấn đề vẫn hấp dẫn, thì nó sẽ mang ra thử nghiệm, áp dụng. Và nếu áp dụng thành công, thì nó sẽ tổng quát hoá cái mà nó đã có sơ niệm, hiểu rõ và thực hành. Chỉ ở mức độ này, kiến thức mới đích thực là kiến thức. Vì kiến thức không gì khác hơn là một xây dựng chủ quan về một vấn đề. Có được một tổng hợp những tư tưởng chủ quan về việc giáo dục con cái là có một quan niệm về giáo dục con cái. Và có một quan niệm về giáo dục con cái thì hẳn sẽ có một phương pháp giáo dục con cái vậy. Và quan niệm giáo dục con cái trong gia đình Việt Nam trọng tâm đặt ở lý tưởng ‘nên người’, như ca dao vẫn hằng nhắc nhở về bốn mục tiêu của hôn nhân rằng :
Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hòa vợ thuận nhà thường yên vui.
Sinh con mới ra thân người,
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.