Kết hợp hai tính chất biến hoá theo thời gian và môi trường và hệ thống hữu cơ của văn hoá, sau đây ta sẽ lần lượt xem xét nội dung văn hoá gia đình Việt Nam qua những điểm sau đây :
. Những nhận thức quá khứ về gia đình còn được bảo tồn
. Những nhận thức hiên tại về gia đình đang xung đột
. Những tổ chức quá khứ về gia đình còn được bảo tồn và những tổ chức mới đang xâm nhập và gây xung đột
. Những ứng xử đang được thiết kế về gia đình
♥♥♥♥♥
♥♥♥
♥
3. NHỮNG NHẬN THỨC QUÁ KHỨ VỀ GIA ÐÌNH CÒN ÐƯỢC BẢO TỒN
31. Nhận thức gồm những dữ kiện đã thâu nhận, để biến thành tin tức và tạo thành trí thức hoặc hệ thống tư tưởng.
Trong lịch sử văn hoá tổng quát của Việt Nam , năm trào lưu tư tưởng đã được thiết kế, tiếp cận, giao lưu và hội nhập vào văn hoá và văn hoá gia đình Việt Nam. Đó là hệ tư tưởng Âu Lạc, Hệ tư tưởng Ấn Phật, hệ tư tưởng Lão giáo, hệ tư tưởng Khổng giáo và hệ tư tưởng Âu Mỹ Thiên Chúa giáo.
Hệ tư tưởng Âu Lạc mang lại ba tư tưởng chủ yếu vun tưới tác phong tập thể và cá nhân của người Việt Nam, mạch sống của văn hóa Việt Nam. Đó là mạch huynh đệ, tương thân tương trợ, khiến tất cả mọi người Việt Nam đều nhìn biết nhau là đồng hương, đồng bào. Mạch ‘Đức giả lạc sơn’ : người đức độ thì ưa thích (và vững chắc như) núi, noi theo tính chung thủy, đức độ của mẹ chung là Âu Cơ, dòng dõi thần tiên, đã dẫn 50 con lên núi, khiến sự tiếp đãi, giao thiệp luôn được trên kính dưới nhường. Mạch ‘Trí giả lạc thủy’ : người mưu lược thì ưa thích (và biến báo như) nước, thừa hưởng được tính thông minh, biến báo của cha chung là Lạc Long Quân, dòng dõi rồng, đã đưa 50 con xuống biển Nam Hải, khiến sự tiếp xúc được hòa thuận với từng người và hòa hợp với môi trường chung quanh.
Hệ tư tưởng Ấn Phật với cái nhìn hư vô về thế giới ; với tứ diệu đế : khổ, dục, diệt , đạo, đã đưa cho người Việt Nam cách cư xử siêu thoát với thế tục, xả kỷ với mình, để từ bi với chúng sinh.
Hệ tư tưởng Lão Trang trình bầy cái gốc Đạo là nguyên ủy của sự tạo hóa. Vạn vật đều bởi Đạo mà sinh ra. Vậy, sửa mình và trị nước cần phải noi theo Đạo, phải điềm tĩnh, phải vô vi, phải tự nhiên, không dùng trí lực. Tính hiếu hòa, tính an nhiên của người Việt Nam phải chăng bắt nguồn từ Đạo giáo ? Ngoài cái học thuyết cao siêu về Đạo, về vô vi ấy nơi những bậc hiền triết, Đạo giáo còn được phổ biến nơi kẻ bình dân với những cái dị đoan mê tín, những thuật tướng số, phù thủy, đi tìm sự tu luyện để được cái trường sinh bất tử.
Còn như hệ tư tưởng Khổng Mạnh, thì cả nền luân lý xã hội của ta đều lấy sức từ đấy và qua đấy. Trong cách sống của người Việt Nam, tam cương : quân thần, phụ tử, phu thê vẫn được tôn kính ; ngũ thường : nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, vẫn được dùng làm nguyên tắc cư xử. Chữ tam tòng không còn hợp thời lắm, nhưng chữ tứ đức : công, dung, ngôn, hạnh, vẫn được nhiều phụ nữ vun trồng. Ba cái cương lãnh : minh đức, tân dân, chỉ chí thiện, vẫn luôn làm người Việt Nam lưu ý và tuân giữ. Còn như bát điền mục : cách vật, trí tri, thành ý, chánh tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ, thì ai nấy vẫn cố gắng áp dụng trong các sinh hoạt và hoàn cảnh cá biệt của mình. Nhiều người Việt Nam sống ở ngoại quốc nhận định rằng luân lý Khổng Mạnh vẫn rất rõ rệt và rất mạnh mẽ trong cách sống và suy nghĩ của mình. Hy vọng rằng nhận định này không đến từ một giấc mơ, nhưng từ một quan sát thực tại.
Và sau cùng là hệ tư tưởng Âu Mỹ Thiên Chúa giáo. Hệ tư tưởng này dẫn vào văn hoá Việt nam ba chất sống mới. Chất sống nhân bản với tiêu chuẩn rằng con người và bản tính của con người có một giá trị tuyệt đối. Tất cả phải do và vì con người. Chất sống này thổi vào ba luồng gió mới là tự do, bình đẳng và công lý. Ba luồng gió này đã một thời xáo trộn xã hội cương thường, cấp bậc và quan liêu xưa của Việt Nam. Chất sống thuần lý với nguyên lý rằng ‘chỉ có ánh sáng tự nhiên của lý trí mới có khả năng đưa con người tiến bộ về hiểu biết, về khôn ngoan’, Lý trí, do đó, trở thành một đức tin mới. Thực nghiệm và canh tân là phương pháp và mục tiêu quan trọng. Khế ước xã hội, luật pháp là những phương tiện tổ chức của một xã hội tân tiến. Khoa học, kỹ thuật, kiến thức bách khoa là những khả năng mà ai cũng phải trau dồi. Người Việt Nam ngày nay được nuôi dưỡng nhiều bằng hai chất sống nhân bản và thuần lý này. Chất sống Thượng Đế với niềm tin có một Thượng Đế duy nhất, tạo dựng đất trời vạn vật, đã giúp cho luân lý Tam giáo, đặc biệt là Khổng giáo có một cơ sở siêu hình học vững chắc. Thượng Đế ấy là Cha nhân từ và toàn năng đã dựng nên trời đất muôn loài, trong đó có con người. Lạm dụng tự do, con người đã chống lại Thượng Đế và đã đi vào đường lầm lạc tội lỗi. Để cứu chuộc nhân loại, Thượng đế ấy đã giáng sinh nhập thể, đã chịu nạn khổ hình, chết trên thập giá, và đã phục sinh, rồi lên trời. Ngài sẽ trở lại vào ngày tận thế để phán xét kẻ dữ người lành. Thượng Đế ấy, từ muôn đời và cho đến muôn đời, vẫn sống với nhân loại bằng sự hướng dẫn soi sáng của Thánh linh. Qua sự giáng sinh nhập thể, Thiên Chúa đã lập Giáo Hội, một Giáo Hội duy nhất, thánh thiện, vững bền. Qua Ngôi Hai nhập thể, ngôi Ba Thánh Linh và Giáo Hội, Thiên Chúa đã mạc khải cho con người biết rằng nó được tạo thành với một thân xác có thể hư nát và một linh hồn bất tử. Thân xác này sẽ sống lại. Con người tội lỗi sẽ được tha thứ, nếu nó biết ăn năn hối cải.
32. Trong lãnh vực văn hoá gia đình, vai trò và ảnh hưởng của năm hệ tư tưởng này không đồng đều. Hệ tư tưởng Âu Lạc dùng hình ảnh gia đình trong ý niệm tạo lập và tổ chức xã hội, có nhiều nhân tính. Rõ rệt nó là hệ tư tưởng gốc trong văn hoá và văn hoá gia đình Việt Nam . Đây vừa là một xác tín, vừa là một dữ kiện lịch sử xã hội. Từ yếu tố di truyền nguyên thủy Âu Lạc, một cách cư xử căn bản đã dần dần thành hình, cô đọng qua những tiếp cận, phản ứng và kinh nghiệm sống với môi trường địa lý thiên nhiên. Cách cư xử này đã được xây dựng trên ba đức tính : trí, đức và dũng, mà ta có thể gọi là trí việt, đức việt, và dũng việt. Đó là ba chân kiềng của văn hoá nguyên thủy gia đình Âu Lạc. Từ ba chân kiềng này, phát sinh một nền văn hoá Bách Việt quay quanh ba trụ chính : việt tính, việt học và việt lý . Ba chân kiềng trí việt, đức việt và dũng việt, cùng với ba trụ việt tính, việt học và việt lý là những yếu tố căn bản của văn hoá nguyên thủy Việt Nam, văn hoá Âu Lạc Bách Việt. Nền văn hoá này nền tảng đặt trong gia đình. Âu lạc là tên của một cặp hôn nhân thủy tổ của dòng giống Việt Nam. Gia đình bởi vậy giữ một vai trò quan trọng trong tiềm thức suy lý, trong sinh hoạt tổ chức và trong sáng tạo ứng xử của mỗi cá nhân người Việt và của xã hội Việt Nam. Tinh thần gia đình này được biểu lộ một cách rõ rệt qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ Việt Nam là một ngôn ngữ gia đình. Những thứ bậc, vị trí gia đình, từ cố cụ, ông bà, bác chú, cô dì, anh chị em, con cháu,... đều đã được xử dụng để gọi thưa, xưng hỏi trong ngôn ngữ thông thường hàng ngày với tất cả mọi người, thân quen hay xa lạ.
Nền văn hoá gia đình nguyên thủy này đã dần dà, trong dòng lịch sử, mở ra với môi trường xã hội thế giới. Đầu tiên là những tiếp xúc với văn hoá Trung Hoa, qua đó, ba hệ tư tưởng mới đã xâm nhập vào Việt Nam đó là Ấn Phãt, đạo Lão và đạo Khổng. Chắc hẳn lúc đàu đã có những va chạm, xung khắc. Nhưng sau gần 2000 năm chung sống, ba hệ tư tưởng này đã góp phần vào việc tạo hình cho văn hoá Việt Nam, trên nền tảng văn hoá nguyên thủy Âu Lạc Bách Việt. Đến nỗi ngày nay đã trở thành những yếu tố cơ cấu của văn hoá Việt Nam. Trong mỗi cá nhân người việt và trong xã hội Việt Nam, đâu đó, đều có ít nhiều ‘phật tính’, ‘lão tính’ và ‘khổng tính’. Trong các hệ tư tưởng, có lẽ hệ tư tưởng Khổng Mạnh là hệ tư tưởng bén rễ sâu nhất trong nhận thức gia đình Việt Nam. Có thể bảo rằng trong mỗi con người Việt Nam đều có một lượng ‘khổng tính’ quan trọng. Hệ tư tưởng Khổng giáo đã chiếm một chỗ đứng hầu như độc tôn trong văn hoá gia đình Việt Nam. Nó đã tạo ra cả một tổ chức cho xã hội , trên căn bản của những liên lạc gia đình với những yếu tố chính yếu như sau :
- Gia đình căn bản là đại gia đình ;
- Mỗi phần tử có một chỗ đứng nhất định, có một cư xử mẫu cho những hoàn cảnh chính yếu, mà tam cương ngũ thường là những nguyên tắc căn bản ;
- Hai chức vụ uy quyền quan trọng là gia trưởng và tộc trưởng ;
- Những lễ nghi chính yếu đã được định thức cho những cuộc hội họp gặp gỡ chính yếu về cưới hỏi, tang chế, cúng giỗ, hội đồng gia đình, hội đồng gia tộc ;
- Những văn bản quan trọng đã được thiết kế, biên soạn và bảo trì, từ gia phả, gia lễ, gia phong, đến pháp luật gia đình, phong tục gia đình, luân lý gia đình, văn học gia đình,..
Hệ tư tưởng Khổng Mạnh đã biết đưa ra những giá trị vĩnh hằng, tựa vào một quan niệm xã hội có phẩm trật, có luân thường để đi tìm hạnh phúc vừa có tầm tâm linh vừa có tầm vật chất, trong hoà thuận, yên vui, thịnh vượng, ấm no. Rõ rệt những nhận thức, những quan niệm, những nguyên tắc của Khổng Mạnh vẫn còn ảnh hưởng mạnh và được bảo tồn kỹ trong văn hoá gia đình Việt Nam. Giáo sư Vũ Ngọc Khánh, và đa số các nhà nghiên cứu cũng sẽ đồng ý với ông để xác định như vậy. Ông viết : ‘Có một nét rất đặc biệt của Nho Giáo, là nó có thể ngự trị trong văn hoá gia đình Việt Nam, gợi ra được cảm giác là nó đồng hoá được tất cả những khuynh hướng triết học, tôn giáo khác. Nho, Phật, Lão có những cuộc đấu tranh tư tưởng, rồi cùng với Thiên Chúa Giáo có những kỳ thị, không cảm thông nào đó, là ở những lãnh vực khác chứ không phải ở trong gia đình. Văn hoá gia đình thu nhận tất cả và đều qui vào những quan niệm gia giáo của đạo Nho. Ở những trường hợp, những qui tắc tập tục có thể khác nhau và gây mâu thuẫn, nặng nề nhất là những ngày mới tiếp xúc, song dần dần vấn đề cũng được an bài - (đến nay thì ổn thỏa). Còn ở phần cơ bản, những vấn đề như đạo hiếu thảo, phép tề gia, thì các gia đình dù theo tôn giáo nào cũng đều xử lý như nhau’ .
♥♥♥♥♥
♥♥♥
♥
4. NHỮNG NHẬN THỨC HIỆN TẠI VỀ GIA ÐÌNH ÐANG XUNG ÐỘT
Hệ tư tưởng Âu Mỹ Thiên Chúa giáo tuy là hệ tư tưởng sau cùng du nhập vào văn hoá Việt Nam, nhưng ảnh hưởng hiện tại của nó rất mạnh. Thứ nhất vì hệ tư tưởng này có rất nhiều biến thái. Một trong những biến thái đó là hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa kiểu cộng sản Mác Xít Lê Nin. Hệ tư tưởng này hiện đang là chủ đạo chính thức và độc tôn trong tổ chức chính trị, kinh tế và văn hoá của nước Cộng Hoà Xã Hội chủ nghĩa Việt Nam. Thứ hai vì hệ tư tưởng này, nhờ sức mạnh vũ khí, kỹ thuật, tiền bạc, tiện nghi,... đã dùng chiêu bài ‘ánh sáng văn minh’ để xâm chiếm bốn châu khác, trong đó hai châu Mỹ và Úc đã bị họ tiêu diệt hầu như hoàn toàn, mà chiếm đất và chiếm quyền ; Và hiện nay, nó đang như cơn bão mạnh, dùng luồng gió ‘toàn cầu hoá’, thổi vào khắp các châu lục, để chiếm ảnh hưởng và chiếm quyền (ở Trung Đông).
41. Đồng ý rằng gia đình là một trong những nét đặc trưng của văn hoá Việt Nam, đức hồng y Phạm Minh Mẫn nêu ra ba ‘Thách đố hiện tại’ cho nhận thức văn hoá Việt Nam : 1- chủ nghĩa cộng sản và nến kinh tế thị trường; 2- thang giá trị đảo lộn và 3- Sự đảo lộn này đương nhiên tác động lên cấu trúc văn hóa Việt Nam một cách cụ thể. Ngài viết :
‘Những thách đố hiện tại : Lịch sử Việt Nam trong hậu bán thế kỷ 20 chịu tác động bởi hai luồng tư tưởng lớn có ảnh hưỡng rất mạnh mẽ :
1. Chủ nghĩa cộng sản : Tại miền Bắc từ năm 1954, tại miền Nam từ 1975. Chủ nghĩa này không đơn thuần là chủ nghĩa kinh tế nhưng còn là một hệ tư tưởng muốn chi phối và định hình lại toàn bộ văn hóa Việt Nam. - Nền kinh tế thị trường : (từ năm 1990) với những biến động (đô thị hóa, xã hội hóa, tình trạng di dân...). Ðồng thời, tiến trình toàn cầu hóa (qua sinh hoạt kinh tế và mạng lưới truyền thông), không xuất hiện như một hệ ý thức nhưng tác động rất mạnh trên lối sống của cả nước. Michel Schooyans cho rằng hàm ẩn trong tiến trình toàn cầu hóa là một thứ Triết Lý loại trừ, loại trừ người nghèo, người yếu thế và như thế cũng là một thứ chủ nghĩa chủng tộc (x. L’Evangile en face du désordre mondial).
2. Thang giá trị bị đảo lộn. Các nhà xã hội học cho thấy : trong tiến trình toàn cầu hóa hiện tại, thang giá trị trong cuộc sống con người dần dần bị đảo lộn, không riêng tại Việt Nam nhưng tại hầu hết các quốc gia thuộc thế giới thứ ba.
Biểu đồ cụ thể :
3- Sự đảo lộn này đương nhiên tác động lên cấu trúc văn hóa Việt Nam. Một cách cụ thể: Gia đình không còn cấu trúc bền vững như xưa: tình trạng ly hôn gia tăng rất nhanh, những tệ nạn gắn liền với đời sống gia đinh như ngoại tình, mãi dâm, lối sống buông thả trong giới trẻ... Phẩm trật xã hội (và cả trong Giáo Hội) bị đặt thành vấn đề tuy chưa đến mức bùng nổ. Cảm thức tôn giáo bùng nổ (tại những nơi bị đàn áp nặng nề trước đây, ngay cả trong giới ngoài Công giáo, hiện tượng khấn vái, đi chùa... trong giới trẻ), tuy nhiên, có thể là những tâm tình lệch lạc chứ không phải niềm tin đích thực’
42. Phân tích ảnh hưởng của môi trường xã hội và đặc biệt là xã hội kinh tế thị trường trên văn hoá, giáo sư Trần Ngọc Thêm khẳng định ‘Văn hoá cổ truyền Việt Nam buộc phải đối mặt với kinh tế thị trường’. Ông viết :
‘Trong giai đoạn hiện nay, khi sự giao lưu với phương Tây đem lại những biến đổi ngày càng mạnh mẽ về mọi phương diện, thì cơ chế bao cấp quan liêu đã không còn đáp ứng được những nhu cầu cấp bách của thời đại. Kết quả là, đứng trước cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, văn hoá cổ truyền Việt Nam buộc phải đối mặt với kinh tế thị trường. Trong cuộc đối mặt này, có cái hay cái dở, cái được cái mất, có cái xuất hiện và cái tiêu vong, có cái ta sẽ thoát khỏi và có cái ta sẽ nhiễm phải. Những nét phác thảo của bức tranh này có thể thấy qua bảng K1.
CÁI HAY
|
CÁI DỞ
|
Cái được (thêm)
|
Cái thoát khỏi
|
Cái mất (giảm)
|
Cái nhiễm phải
|
1
|
Ðô thị, công nghiệp phát triển
|
Ðô thị bị nông thôn khống chế
|
Môi trường tự nhiên
|
Nạn ô nhiễm môi trường
|
2
|
Ðời sống vật chất cao, tiện nghi đầy đủ
|
Sự nghèo nàn, thiếu thốn
|
Lối sống tình nghĩa
|
Lối sống thực dụng
|
3
|
Vai
trò cá nhân nâng cao
|
Thói
dụa dẫm, bệnh bảo thủ
|
Tính
tập thể, ổn định gia đình
|
Lối
sống cá nhân chủ nghĩa
|
4
|
Tinh thần tự do phê phán
|
Thói gia trưởng
|
Nền nếp, chữ ‘lễ’
|
Lối sống ‘cá đối bằng đầu’
|
5
|
Sự
liên kết quốc tế rộng rãi
|
Óc
địa phương chủ nghĩa
|
Tính
tự trị giảm
|
Những
hiện tượng đồi trụy
|
Bảng K1 : Văn hoá cổ truyền với kinh tế thị trường - cái hay cái dở
Nhiều cái hay, cái dở, cái được, cái mất này đã thấy ngay trước mắt. Chưa bao giờ đô thị và công thương nghiệp lại phát triển với tốc độ nhanh chóng như những năm gần đây. Nhưng cùng với nó, tiếng ồn và bụi bặm các loại đang ngày càng trở thành nỗi khổ của người dân đô thị. Chất thải công nghiệp từ thành phố đang tràn ra tấn công vùng nông thôn. Cũng trong những năm gần đây, đời sống vật chất được nâng cao với những tiện nghi hiện đại nhất, mức sống của người dân được cải thiện trông thấy. Nhưng cùng với nó, lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền cũng có nguy cơ phát triển. Nhịp sống đô thị ngày càng căng thẳng đang khiến quan hệ gia đình trở nên lỏng lẻo, cha con, vợ chồng ít quan tâm đến nhau hơn’ .
Qua những ghi nhận trên đây, do quan sát của nhiều người ở nhiều cương vị khác nhau, hai luồng tư tưởng hiện đang gây nhiều xung đột trong nhận thức văn hoá gia đình Việt Nam là chủ nghĩa duy vật xã hội cộng sản và chủ nghĩa duy vật kinh tế thị trường. Chủ nghĩa thứ nhất hiện đang đến từ bên trong, từ quốc nội, có sức mạnh công an, chính trị. Nguy hiểm của nó là, như lời đức hồng y Phạm Minh Mẫn, ‘Chủ nghĩa cộng sản : Tại miền Bắc từ năm 1954, tại miền Nam từ năm 1975. Chủ nghĩa này không đơn thuần là chủ nghĩa kinh tế nhưng còn là một hệ tư tưởng muốn chi phối và định hình lại toàn bộ văn hóa Việt Nam’. Chủ nghĩa thứ hai đến từ bên ngoài, có sức lôi cuốn của tiền bạc, tiện nghi vật chất. Nguy hiểm của nó là, như lời Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, ‘kéo theo những xáo trộn trong sinh hoạt gia đình, làm ảnh hưởng đến nề nếp gia phong như lôi cuốn một số người đến chỗ hưởng thụ ích kỷ, và xa hơn đến lối sống buông thả sa đọa ; du nhập những lối sống thiếu lành mạnh, tác hại đến nếp sống đạo đức gia đình như tự do luyến ái, sống chung không cưới xin, dễ dàng sử dụng bạo lực...’
♥♥♥♥♥
♥♥♥
♥
5. NHỮNG TỔ CHỨC QUÁ KHỨ VỀ GIA ÐÌNH CÒN ÐƯỢC BẢO TỒN VÀ NHỮNG TỔ CHỨC MỚI ÐANG XÂM NHẬP VÀ GÂY XUNG ÐỘT
Trước hai hệ tư tưởng đang thống trị xã hội Việt Nam như ta vừa thấy ở trên, là duy vật xã hội cộng sản và duy vật kinh tế thị trường, vấn đề phải đặt ra là từ những chủ thuyết có nhiều mãnh lực này, những tổ chức quá khứ của văn hoá gia đình Việt Nam có còn được xử dụng và thực hiện không ? Cái gì còn được bảo tồn, được bảo tồn thế nào, kiên cố hay lỏng lẻo ? Cái gì mới đã được xử dụng, xử dụng phổ biến hay xử dụng giới hạn ?
Nói đến tổ chức là nói đến những cơ quan, những đơn vị tổ chức của một xã hội, như chính quyền (lập pháp, hành pháp, tư pháp), làng xã, tôn giáo, đảng phái, hội đoàn. Nhưng nói đến tổ chức cũng là nói đến những định chế (dòng họ, tổ tiên, đại gia đình, tiểu gia đình, gia trưởng, gia phong, gia pháp, gia huấn,...), lễ nghi (lễ cưới, lễ hỏi, lễ tang, lễ giỗ,...), vai trò (người cha, người chồng, người vợ, người mẹ, người con, người cháu, người anh, người em, con trai, con gái,...). Giống như trong xí nghiệp, khi nói đến tổ chức, người ta nghĩ ngay đến sơ đồ tổ chức, đến những tiến trình thực hiện, đến hệ thống thư liệu ghi thành văn, đến những chức năng và vai trò của từng bộ phận, từng nhân viên. Trong bài nghiên cứu nhỏ này, tôi xin dùng nghĩa thứ hai của tổ chức.
51. Để có một mấu điểm so sánh, tôi xin khởi đầu với bức tranh mô tả văn hoá gia đình Việt Nam vào năm 1938 đã được Đào Duy Anh phác họa .
Trước nhất ông nêu ra tám đề mục tổ chức văn hoá gia đình, mà ông gọi là ‘Gia tộc’, còn được bảo tồn. Đó là Thân thích (nội ngọai), Gia trưởng và tộc trưởng, Địa vị đàn bà, Địa vị con cái, Hôn nhân, Kế thừa - Hương hỏa, Chế độ nô tỳ và Nhiệm vụ của gia đình. Và để kết thúc, Đào Duy Anh đã ghi nhận một số những cải tạo gia tộc sau đây :
‘Từ khi vì ảnh hưởng Âu hoá mà trạng thái xã hội nước ta thay đổi thì trong xã hội phát minh nhiều vấn đề, mà vấn đề gia đình là một điều rất trọng yếu. Những nguyên nhân khiến vấn đề gia đình phát sinh; đại khái như sau này :
1) Về phương diện kinh tế, từ khi có chế độ công xưởng khiến một số đông người ở thành thị, trước kia chỉ làm thủ công ở gia đình, phải vào làm thuê trong công xưởng : đàn bà con gái trước kia phần nhiều chỉ ở nhà coi sóc việc gia chánh, cũng phải bỏ xó buồng góc bếp mà đi làm công; vì thế đại gia đình lần lần lìa tan mà thành số nhiều tiểu gia đình, rồi nhân đó phát sinh những vấn đề khác, như vấn đề phân cư, vấn đề phụ nữ lao động v.v...
2) Lại thêm học thuật, luân lý, phong tục cũng lần lần chịu ảnh hưởng của Âu châu mà đổi mới, những thanh niên nam nữ đối với văn hoá cũ có thái độ hoài nghi và đối với những điều chuyên chế của gia trưởng sinh lòng phản đối, nhân thế mà những vấn đề cá nhân tư cách, tử nữ quyền lợi, tự do luyến ái, tự do kết hôn, nam nữ bình đẳng, lần lượt phát sinh.
3) Nhân ảnh hưởng tư tưởng và văn hoá mới, nên thái độ của thanh niên đối với nhiều quan niệm ở gia đình cũ, như trọng nam khinh nữ, nam nữ hữu biệt, cùng những tập tục cũ, như việc xuất thê, nạp thiếp, lập tự v.v... có cái thái độ khác hẳn xưa, thái độ ấy làm cho vấn đề gia đình càng thêm nghiêm thiết.
Hiện nay nhất là ở thành thị, ta thường thấy vấn đề gia đình biểu hiện bằng những cuộc xung đột của con cái và cha mẹ, những cuộc để vợ của đàn ông làm nên, những vụ trai gái trốn nhà, những án tự sát của thanh niên nam nữ. Những việc ấy trên nhật báo và tạp chí thường thấy đăng luôn. Các tiểu thuyết xuất bản gần đây, một số nhiều cũng lấy vấn đề gia đình làm đề mục. Cứ hiện trạng ấy thì ta thấy rằng chế độ gia đình nước ta cần phải cải tạo mới thích hợp với thời đại mới này ’.
Biểu đồ sau đây tóm tắt bức tranh tổ chức văn hoá gia đình mà Đào Duy Anh đã phác họa vào năm 1938 ở Hà Nội, với hai ngăn quan trọng : cái cũ được bảo tồn và cái mới thay vào :
Ðề mục tổ chức
|
CÁI CŨ
ÐƯỢC BẢO TỒN
|
CÁI MỚI THAY VÀO
|
1. Thân thích
|
Người cùng họ nội không được lấy nhau. Ðó là tội loạn luân.
Về họ
ngoại, con cô con cậu, hay đôi con dì cũng không có phép lấy nhau
Nhưng
từ bực cháu trở đi thì không có lệ cấm nữa
|
|
2. Gia trưởng và gia tộc
|
gia trưởng có uy quyến tuyệt đối ở trong nhà;
ông là một chủ nhân chuyên chế
Gia trưởng có quyền sở hữu và quản lý tài sản
của gia đình
Gia trưởng có quyền sở hữu đối với vợ con và
có thể bắt đi làm thuê hay đem bán đi được
Gia trưởng có quyền độc đoán về việc hôn nhân
của con cái và quyền sinh sát nữa
Nếu gia trưởng chết đi, thì các con trai, từ
con trưởng đến con thứ, nếu có vợ có con rồi thì khi ấy mỗi người thành gia
trưởng của một gia đình riêng
Người con trai trưởng, ngoài sự làm chủ gia
đình riêng, lại còn có tư cách làm trưởng chi họ
Tất cả những chi họ ấy họp lại thành họ lớn,
tức là đại gia tộc, người đứng đầu chi trưởng gọi là tộc trưởng
Ở Nam Việt thì tộc trưởng là người lớn tuổi
hoặc có đức vọng hơn hết trong họ; ở Bắc và Trung Việt thì theo nguyên tắc
đích trưởng
Tộc trưởng phải phụng sự tổ tiên
Có quyền dự tất cả cuộc hội nghị gia tộc của
các chi họ
Phân xử những việc tranh chấp trong họ
Ðịnh đoạt hoặc khuyên bảo khi họ hàng có việc
hôn tang hoặc việc quan hệ lợi hại khác
|
Ðại gia đình lần lần lìa tan mà thành số nhiều
tiểu gia đình
Những thanh niên nam nữ đối với những điều
chuyên chế của gia trưởng sinh lòng phản đối
|
3. Ðịa vị đàn bà
|
Trọng nam khinh nữ
Ðàn bà suốt đời phải tùy thuộc vào đàn ông
Ðàn ông có 7 cớ để bỏ vợ
Vợ không bao giờ được kiện chồng
Nếu chồng chết, vợ phải thủ tiết, ở vậy nuôi
con
Nếu tái giá, người đàn bà sẽ dứt hết quan hệ
với gia đình chồng và con cái
|
Trong thực tế, ở gia đình, phong tục hòa hoãn
hơn đối với đàn bà, như việc bỏ vợ; có ba trường hợp
người chồng không được bỏ vợ: nếu vợ đã để tang cha mẹ chồng, đã làm nên giầu
có, nếu không có chỗ nương tựa khác
Vợ có địa vị tương đương với chồng trong thực
tế, nhất là trong việc quản lý tài sản
Khi chồng chết, quyền của chủ phụ lại rõ rệt:
mẹ góa quản lý gia chính và giám đốc con cái
Nếu gia đình chỉ có con gái, thì các con gái
vẫn được hưởng di sản; con gái trưởng được giữ của hương hỏa và thờ phụng cha
mẹ tổ tiên như con trai trưởng
Luật Gia long phạt những người thất kính với
đàn bà
Ðàn bà con gái đi làm công
Vấn đề phụ nữ lao động
Nhân thế mà những vấn đề cá nhân tư cách, tử
nữ quyền lợi
Nam nữ bình đẳng, lần lượt phát sinh
|
4. Ðịa vị con cái
|
Con
cái là sở hữu của cha. Cha không những có quyền bán con, mà có khi đánh chết
con cũng không có tội
Cha là
cương của con, theo luân lý tam cương ngũ thường
Chữ
hiếu đứng đầu trăm nết hiếu
là ‘cha
sống
thì lấy lễ mà thờ, chết thì lấy lễ mà táng, lấy lễ mà tế, và cha còn thì phải
xem cái chí của cha, cha mất rồi phải xem việc làm của cha, trong ba năm
không được đổi đạo của cha’
Dẫu có
kết hôn, con trưởng phải ở một nhà với cha, cha có bằng lòng mới được ở riêng
Về
việc hôn nhân của con cái thì cha mẹ có quyền độc đoán
Con
cái không có quyền truy tố cha mẹ, không được thất kính, lăng mạ cha mẹ
Cha mẹ
già yếu thì con cái phải phụng dưỡng
Cha mẹ
còn sống, thì con cái không được chia gia sản, trừ khi cha mẹ tự chia. Cha mẹ
chết thì phải chờ ba năm mãn tang mới được chia
|
Thực
tế khoan dung hơn : cha mà đánh chết con thì bị phạt 100 trượng ;
khi con đã trưởng thành hoặc đã kết hôn thì cha không có quyền quản lý tài
sản của con thứ nữa
Con
trai vốn quí hơn con gái, nhất là con trưởng. Nhưng thực tế, trừ một phần
hương hỏa về con trai trưởng, ngoài ra trai gái đều được chia phần đều nhau,
bất kỳ lớn, nhỏ, con vợ chính, vợ hầu
Thấy
vấn đề gia đình biểu hiện bằng những cuộc xung đột của con cái và cha mẹ
Những
vụ trai gái trốn nhà
Những
án tự sát của thanh niên nam nữ. Những việc ấy trên nhật báo và tạp chí
thường thấy đăng luôn. Các tiểu thuyết xuất bản gần đây, một số nhiều cũng
lấy vấn đề gia đình làm đề mục
|
5. Hôn nhân
|
Mục đích hôn nhân là duy trì gia thống, cho
nên việc hôn nhân là việc chung của gia tộc, chứ không phải việc riêng của
con cái
Mục đích thứ hai của hôn nhân là kinh tế
Môn đăng hộ đối là cần
Tệ tảo hôn, tục chi phúc hôn
Nghĩa vụ đối với gia tộc tổ tiên là phải
truyền giống về sau để vĩnh truyền tông tộc, cho nên người vô hậu là bất hiếu
to
Ðàn ông ai cũng phải lấy vợ để sinh con, độc
thân chủ nghĩa là đắc tội với tổ tiên và gia tộc
Cái hy vọng lớn nhất của một cặp vợ chồng là
sinh được con trai cho nên nếu vợ lấy đã lâu mà không có con thì chồng có
quyền để ra hay lấy vợ lẽ
Theo thói thường khi vợ chính không con hay là
lấy chồng lâu mà không có con trai, thì tự mình đi hỏi và cưới thiếp cho
chồng
Người vọ không những là người phải đẻ con cho
gia đình chồng, mà lại còn là người phải làm lụng và coi sóc việc nhà cho cha
mẹ chồng.
Những nhà giầu có cần nhiều người làm việc,
đàn ông thường lấy nhiều vợ hầu giúp dỡ công việc gia đình để khỏi phải nuôi
đầy tớ.
Thói thường nhiều vợ lắm con là vinh dự, cho
nên ở các nhà giầu sang đàn ông thường lấy nhiều vợ lẽ.
Có khi đàn ông lấy vợ lẽ vì lý do tình yêu hay
tình dục
Lấy thiếp không cần phải làm lễ cưới
Nhất thiết vợ lẽ phải phục tùng vợ chính
Thực ra người thiếp chỉ là người đàn bà mà
chồng hay vợ chính xuất tiền mua về để sai làm việc nhà và bắt sinh đẻ, cho
nên có thể đem đi tặng, hay là bán lại cho người khác được.
|
Tự do luyến ái, tự do kết hôn
Thái độ của thanh niên đối với nhiều quan niệm
ở gia đình cũ, như trọng nam khinh nữ, nam nữ hữu biệt, cùng những tập quán
cũ, như việc xuất thê, nạp thiếp, lập tự v.v... có cái thái độ khác hẳn xưa,
thái độ ấy làm cho vấn đề gia đình càng thêm nghiêm thiết.
Những cuộc để vợ của đàn ông làm nên... Những
việc ấy trên nhật báo và tạp chí thường thấy đăng luôn. Các tiểu thuyết xuất
bản gần đây, một số nhiều cũng lấy vấn đề gia đình làm đề mục
|
6. Kế thừa hương hỏa
|
Kế thừa di thống thuộc về con trai ở giòng
đích, mà đích trường là trước hết
Trách nhiệm của đích trưởng là tế tự tổ tiên
và lưu truyền huyết thống
Do đó, việc lập tự và lập đích là lẽ thường
Kế thừa di sản cũng lấy con trai làm chủ, nhất
là con trai trưởng; nhưng luật pháp và phong tục nước ta không giữ đúng theo
nguyên lý ấy, mà cho các con trai khác cũng như con gái, đều có quyền cùng
chia di sản với con trưởng.
Trong di sản có một phần không ai được chia mà
chỉ người tộc trưởng được giữ để tế tự tổ tiên, tức là phần hhương hỏa.
Hương hỏa là của chung của cả họ; người tộc
trưởng chỉ được giữ mà hưởng hoa lợi, chứ không có quyền sở hữu
Hương hỏa không thể nhường hay bán cho ai
được; trừ phi hội đồng gia tộc thuận tình để lấy tiền làm công việc chung cho
họ.
|
|
7. Chế độ nô
tỳ
|
Chế độ nô tỳ không còn nữa. Song các đầy tớ
trai gái cũng không được pháp luật xem là bình đẳng với lương dân
|
|
8. Nhiệm vụ của gia đình
|
Gia đình là cơ sở của xã hội và có nhiệm vụ
nặng nề với xã hội, mà cá nhân chỉ là những phần tử vô danh ở trong gia đình
Gia trưởng phải chịu trách nhiệm trước pháp
luật về hết thảy hành vi của người trong nhà
Nếu gia trưởng phạm tội, thì tùy nặng nhẹ, con
cái bị bắt làm nô tỳ, bị tộc tru, hay tru di tam tộc.
Nếu đàn ông bị tội lưu đày, thì pháp luật bắt
cả vợ chính, vợ hầu đều phải đi theo để gia đình khỏi bị chia lìa.
Quyền uy của gia đình và gia trưởng được pháp
luật bảo vệ: đánh chửi, mưu giết ông bà, cha mẹ, bác chú, cô dì đều bị xử tử
hính.
Chia gia sản lúc cha mẹ còn sống, không phụng
dưỡng cha mẹ già yếu, vui chơi khi có tang... đều là những tội xếp vào thập
ác.
|
Thực tế khoan dung hơn: người bị án tử hình mà
có cha mẹ già quá 70 tuổi thì được tha tội để ở nhà nuôi cha mẹ.
Nếu tất cả anh em một nhà đều bị án tử hình,
thì có một người được miễn tội để nuôi cha mẹ
|
52. Sánh với bức tranh tổ chức văn hoá gia đình mà Đào Duy Anh đã phác họa vào năm 1938, những gì đã thay đổi tính đến ngày nay trong văn hoá gia đình Việt Nam ?
Giai đoạn này, lịch sử nước ta có nhiều xáo trộn về chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội. Các phong trào yêu nước kháng chiến nổi lên, mạnh nhất là đảng Cộng sản với Nguyễn Ái Quốc từ năm 1927 và Quốc Dân đảng với Nguyễn Thái Học từ năm 1930. Năm 1954 hiệp định Genève chia Việt Nam làm hai, miền Bắc với chính thể độc đảng cộng sản, miền Nam với chế độ quốc gia tự do. Khoảng 800 000 người di cư từ Bắc vào Nam. Năm 1975 quân đội cộng sản miền Bắc thắng trận và thống nhất đất nước trong chính thể độc đảng cộng sản khép kín. Khoảng hai triệu người Việt Nam tự do bỏ nước trốn ra ngoại quốc, đến Mỹ châu, Âu châu và Úc châu. Năm 1986 một chính sách mới đã được quyết định để hé mở cánh cửa tự do và kinh tế thị trường. Trong suốt thời kỳ này, nhiều thay đổi lớn đã xâm nhập vào tổ chức văn hoá gia đình Việt Nam. Những thay đổi này thực ra chỉ là sự bành trướng và khuếch trương của những thay đổi đã được Đào Duy Anh ghi nhận từ 1938. Tất cả đều do sức đẩy của hai tư tưởng chủ lực là tự do và bình đẳng của Văn hoá Âu Mỹ Thiên Chúa giáo và đặc biệt qua hai chi nhánh áp dụng của nó, là chính thể cộng sản và kinh tế thị trường.
521. Dưới chính thể cộng sản, hai thay đổi lớn về tổ chức văn hoá gia đình ở Việt Nam đã được áp dụng. Thay đổi thứ nhất là sự xen lấn quan trọng của Nhà nước vào việc chọn lựa và tổ chức hôn nhân. Trong tập nghiên cứu ‘Hôn lễ xưa & nay ở Việt Nam’, hai nhà nghiên cứu Lê Như Hoa và Bùi Quang Thắng đã ghi nhận rằng : ‘Có lẽ phải từ sau 1945, khi cả dân tộc ta bước vào cuộc kháng chiến 9 năm (chống thực dân Pháp) thì mới có sự đột biến trong quan niệm - nếp nghĩ của nhiều người dân Việt Nam về hôn nhân. Thời ấy, cuộc kháng chiến đầy gian khổ nhưng hào hùng ấy đã chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống của toàn dân tộc, dường như nó thấm vào tất cả mọi lãnh vực của đời sống xã hội. (Đến nỗi đã có nhiều nhà nghiên cứu đề nghị phải gọi tên văn hoá thời ấy là văn hoá kháng chiến). Hôn nhân, hôn lễ thời kỳ ấy cũng chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc của ‘văn hoá kháng chiến’ ấy. Người ta yêu nhau và cưới nhau không phân biệt giầu nghèo, sang hèn; thậm chí không hiếm người cưới nhau không cần đến sự đồng ý của cha mẹ hai bên (hoặc là tự tìm hiểu rồi báo với tổ chức hoặc tổ chức, cấp trên môi giới rồi tổ chức cho họ,...). Thực ra, mô hình hôn nhân này lúc đầu chỉ thực hiện ở những người tham gia kháng chiến hay ở chiến khu, nhưng sau này nó đã lan tỏa rộng khắp ở phạm vi toàn xã hội. (Nhất là ở khu vực miền Bắc Việt Nam, nhiều người còn coi đó là ‘mode’ của thời bấy giờ). Xu hướng này còn được đặc biệt nhân rộng trong những năm từ 1954 đến 1986.
Trong luận án phó tiến sỹ xã hội hoc, nhà nghiên cứu Khuất Thu Hồng đã nhận định về thực trạng hôn nhân trong chế độ Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thời kỳ 1954-1986 như sau : ‘Về mặt lý thuyết, các cá nhân có toàn quyền trong việc lựa chọn và quyết định ai. Gia đình đã không còn giữ vị trí độc tôn trong việc hôn nhân của các thành viên của mình. Bên cạnh gia đình, lúc này đã có thêm một nhân vật mới nữa, đó là cơ quan Nhà Nước và các đoàn thể. Không chỉ bằng giáo dục và tuyên truyền về tình yêu, hôn nhân và gia đình trong xã hội Xã hội Chủ nghĩa, trong nhiều trường hợp, cơ quan đoàn thể còn trực tiếp tham gia vào quá trình lựa chọn bạn đời và tổ chức hôn lễ cho cá nhân, gần như thay thế hoàn toàn vai trò của gia đình ’.
Thay đổi thứ hai là ‘sự đơn giản hoá lễ nghi’ đến nỗi thiếu cái bản sắc văn hoá hôn nhân của người Việt. Trong cũng một tập nghiên cứu ‘Hôn lễ xưa & nay ở Việt Nam’, hai nhà nghiên cứu Lê Như Hoa và Bùi Quang Thắng cho hay rằng : ‘Có thể nói, ở miền Bắc vào thời kỳ 1954 đến 1986 là thời kỳ mà hôn lễ có những thay đổi có tính chất đột biến, thì lễ rước dâu (dẫn cưới) cũng vẫn được coi trọng. Tuy nhiên, do những quan niệm còn hạn chế của thời kỳ này về các nghi lễ của hôn nhân (coi những nghi lễ cổ truyền là phong kiến, lạc hậu) nên các nghi lễ trước - sau lễ cưới đều không được khuyến khích và người ta đã tập trung vào việc tổ chức lễ cưới với tinh thần chủ đạo là : vui vẻ, giản dị, tiết kiệm. Vì thế, trong thời kỳ này, đám cưới thường trở thành một cuộc vui công cộng : ai biết pha trò hay hát, hát hay trong làng xóm (cơ quan, khối phố) đều tham gia vào góp vui cho đám cưới.... Có lẽ chiến tranh là một nguyên nhân căn bản khiến các lễ này bị giảm thiểu. Nhưng những quan niệm về nghi lễ cũng đóng 1 vai trò rất quan trọng trong việc đơn giản hoá này : ví dụ phong trào vận động nếp sống mới đã khiến cho nhân dân hiểu rằng : cái gì cũ là lạc hậu. Những năm 1970 có phong trào thực hiện đám cưới theo ‘đời sống mới’ (không được giết lợn để làm đám cưới, tiệc mặn không được khuyến khích, thay vào đó là tiệc ngọt, bạn bè tham gia văn nghệ góp vui... trang phục cưới giản dị’ .
522. Còn như sức đẩy của kinh tế thị trường, mà cá nhân chủ nghĩa, lợi nhuận, tiện nghi, thú vui,... là những động lực mạnh mẽ, thì nhiều tổ chức cũ của văn hoá gia đình đang gặp xung đột. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam tỏ ra rất ưu tư về những xung đột trong văn hoá gia đình Việt Nam hiện nay, đặc biệt trong ba xung đột về ly dị, giáo dục con cái và tự do luyến ái. Các ngài viết :
‘Hiện tình Hôn nhân và Gia đình tại Việt Nam
2. Anh chị em thân mến, Nói đến gia đình Việt Nam, người ta nghĩ ngay tới một nề nếp gia phong rất gần gũi với giáo lý đức tin. Gia đình ấy coi chữ Hiếu làm đầu nên rất sẵn sàng đón nhận ánh sáng Phúc Âm, trong đó điều răn phải thảo kính cha mẹ được xếp ngay sau ba điều răn quy định việc thờ phượng Thiên Chúa. Gia đình ấy xem chữ Tín làm trọng nên dễ dàng gặp thấy nơi điều răn thứ sáu và thứ chín tiếng nói chung nhằm bảo vệ đời sống hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly. Gia đình ấy gồm có ông bà cha mẹ con cháu trên thuận dưới hoà trong một mái nhà đầm ấm, được xem như một môi trường tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển đức tin, nhất là cho việc xưng tụng Thiên Chúa là Cha và coi mọi người như anh chị em. Gia đình ấy sống liên đới với các gia đình khác trong tình làng nghĩa xóm hiệp thông cầu nguyện khi vui cũng như lúc buồn, dần dà tạo nên một hình ảnh đẹp và cụ thể để diễn tả tình huynh đệ Kitô giáo. Chính vì thế, Hội Thánh dù được định nghĩa như là "Dân Thiên Chúa, Thân Mình Chúa Kitô, Ðền Thờ Chúa Thánh Thần" thường được người Việt Nam hình dung như một gia đình.
3. Tuy nhiên, hình ảnh đẹp về gia đình Việt Nam hiện nay đang có nguy cơ mờ nhạt dần đi. Nguyên do dễ thấy nhất là tiến trình "công nghiệp hoá, đô thị hoá". Tiến trình này tự nó đem lại nhiều phúc lợi cho xã hội như những tiện nghi vật chất và cuộc sống văn minh, nhưng đồng thời cũng kéo theo những xáo trộn trong sinh hoạt gia đình, làm ảnh hưởng đến nề nếp gia phong như lôi cuốn một số người đến chỗ hưởng thụ ích kỷ, và xa hơn đến lối sống buông thả sa đà, từ đó làm gia tăng những trường hợp ly dị và làm suy giảm ý thức về phẩm giá sự sống.
Cùng với tiến trình này là hiện tượng di dân ồ ạt về các thành phố lớn để tìm việc làm. Hậu quả là một số cha mẹ phải sống xa con cái, nên việc giáo dục cơ bản không được lưu tâm đúng mức; một số người trẻ phải rời gia đình đến làm việc ở nơi xa lạ, nên dễ bị bóc lột sức lao động và mắc phải những tệ nạn xã hội như xì ke, ma tuý hay rơi vào những hoàn cảnh trong đó nhân phẩm bị coi thường; một số trẻ em bị đẩy ra đường phố sống lang thang.
Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng và đa dạng các phương tiện truyền thông xã hội, một mặt cung cấp những thông tin hữu ích giúp thăng tiến con người, nhưng mặt khác lại du nhập những lối sống thiếu lành mạnh, tác hại đến nếp sống đạo đức gia đình như tự do luyến ái, sống chung không cưới xin, dễ dàng sử dụng bạo lực...’
♥♥♥♥♥
♥♥♥
♥
6. NHỮNG ỨNG XỬ ÐANG ÐƯỢC THIẾT KẾ VỀ GIA ÐÌNH
Trên kia, khi nói về tính chất thứ hai của văn hoá, tức là ‘tính chất hệ thống hữu cơ’, tôi có đề cập đến ba bộ phận chức năng chính của văn hoá là 1- thiết kế nhận thức, 2- hành động tổ chức và 3- cải tiến ứng xử. Ba bộ phận này liên lạc mật thiết và tùy thuộc lẫn lộn vào nhau. Câu hỏi được đặt ra ở đây là ‘Văn hoá gia đình Việt Nam đã được thiết kế do năm hệ tư tưởng Âu Lạc, Ấn Phật, Lão giáo, Khổng giáo và Âu Mỹ Thiên Chúa giáo; Hệ tư tưởng nào là nền tảng hơn cả đã đưa ra những tổ chức, để sáng tạo những cải tiến ứng xử cho văn hoá Việt Nam và văn hoá gia đình Việt Nam ?’
61. Nghĩ rằng hệ tư tưởng Âu Lạc là nền tảng hơn cả, trong bài khảo cứu ‘Cây văn hoá Việt Nam trồng tại Giáo xứ Paris’ in trong cuốn ‘Văn hoá và đức tin’, tôi đã viết : ‘Hệ tư tưởng Âu Lạc, dưới khía canh quốc gia Bách Việt, còn chuyên chở ba chất không thể thiếu để thiết lập và nuôi dưỡng một nền văn hóa Việt Nam. Chất "Việt tính" tạo ra tính chất độc đáo của mỗi người Việt Nam và của quốc gia Việt Nam, mà đặc biệt là tính tự lực tự cường, như cổ tích Phù Đổng Thiên Vương đã nêu rõ. Chất ‘Việt ngữ’, biểu diễn, gói ghém và chuyên chở những thói tục, những văn minh, những tổ chức, những kinh nghiệm từ người này cho người kia, từ nơi này sang nơi nọ, từ thời này sang thời kia. Ngôn ngữ ấy chuyên chở bốn ngàn năm văn hiến Bách Việt. Nó ghi nhận, bảo tồn và chuyển trao cho các thế hệ mai sau cái văn hóa Việt Nam chẳng những bằng lời nói mà cả bằng những ký hiệu chữ viết nữa, chẳng những trong các áng văn bình dân mà cả trong văn chương bác học nữa. Ba loại chữ viết đã xuất hiện để chuyên chở cái văn hóa Bách Việt này: chữ hán, chữ nôm và chữ quốc ngữ. Ngôn ngữ dính liền với văn tự. Văn tự và ngôn ngữ dính liền với văn hóa. Không thể có văn hóa riêng biệt nếu không có văn tự và ngôn ngữ riêng biệt. Chất ‘Việt lý’ bao gồm những cách quản lý, cách cai trị, cách tổ chức đã vậy mà còn chứa đựng những hành động, những định chế và những tổ chức. Việt lý là cách suy lý để hành động, hành động để bảo trì, phát triển và truyền thụ cái văn hóa Bách Việt cho các thế hệ con em mai sau. Suy lý và hành động làm sao để duy trì tiếng việt và làm cho nó trong sáng, làm sao để tình việt không bị lơ là, lu mò, mà càng ngày càng thân thiết, đặm đà ; làm sao để tộc việt được bảo tồn và nối dõi’ .
Trước những sức đẩy và sức ép đang dồn dập cưỡng bách và lôi cuốn các tổ chức văn hoá gia đình vào một cuộc xung đột mới cũ : những sáng tạo nào đang được chất ‘Việt lý’ đề ra để cải tiến ứng xử cho văn hoá Việt Nam và văn hoá gia đình Việt Nam ? Tôi ghi nhận hai thực hiện có tính cách hướng dẫn cải tiến ứng xử trong văn hoá gia đình Việt Nam.
62. Thực hiện thứ nhất có đường hướng chính trị hành chánh do Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam đưa ra, từ năm 1998. Sau thời kỳ ‘quan liêu bao cấp’, 1954-1986, mà ‘sự can thiệp quá sâu của cơ quan đoàn thể vào hôn nhân đã để lại không ít những bi kịch trong cuộc sống vợ chồng’ và ‘Cái mất lớn là những tổn thất lớn về phương diện phong hoá, do sự đơn giản hoá quá trớn các lễ nghi hôn nhân gây ra’, Đảng Cộng Sản và Nhà nước Việt Nam đã tỉnh thức và sửa đổi chính sách. Đó là điều mà hai nhà nghiên cứu Lê Như Hoa và Bùi Quang thắng đã ghi nhận qua những lời sau : ‘Rất may, trong những năm gần đây, Đảng và Nhà Nước ta đã nhận thấy rõ vị trí, tác dụng của văn hoá dân tộc trong phát triển và đã có những đường lối, chính sách đúng đắn để khuyến khích việc xây dựng một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (trong đó bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá dân tộc là một mục tiêu lớn). Chính vì thế, văn hoá nói chung và phong hoá nói riêng (trong đó có hôn lễ) ở Việt Nam đã dần dần được vận hành đúng với xu thế của thời đại cũng như đúng với qui luật nội tại của nó (tích hợp văn hoá). Những gì diễn ra trong thời kỳ đổi mới (từ 1986) sẽ là những minh họa tốt cho luận điểm trên’ .
Nghị quyết về văn hoá, mang tiêu đề ‘Xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc’ do Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VIII ban hành vào năm 1998 biểu lộ một nhận thức thấu triệt hơn và một quan tâm sâu sắc hơn về vai trò của văn hoá trong quá trình phát triển đất nước. Ở phần thứ hai, nghị quyết đề xuất những nhiệm vụ cụ thể, mà nhiệm vụ đầu tiên là ‘Xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới với những đức tính sau :
- Có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vươn lên đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn lạc hậu, đoàn kết với nhân dân thế giới trong sự nghiệp đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
- Có ý thức tập thể, đoàn kết, phấn đấu vì lợi ích chung.
- Có lối sống lành mạnh, nếp sống văn minh, cần kiệm, trung thực, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương phép nước, qui ước của cộng đồng ; có ý thức bảo vệ và cải thiện môi trường sinh thái.
- Lao động chăm chỉ với lương tâm nghề nghiệp, có kỹ thuật, sáng tạo, năng xuất cao vì lợi ích của bản thân, gia đình, tập thể và xã hội.
- Thường xuyên học tập, nâng cao hiểu biết, trình độ chuyên môn, trình độ thẩm mỹ và thể lực’ .
Cùng năm 1998, ngày 28/03/1998, Ủy ban Nhân dân Thành phố Hà nội phổ biến
- Kế hoạch triển khai thực hiện : Quy ước về việc cưới : trang trọng, lành mạnh, tiết kiệm và
- Hướng dẫn thực hiện qui ước về việc cưới : trang trọng, lành mạnh, tiết kiệm
Ngày 11/07/1998, Bộ Văn hoá Thông tin ra
- Thông Tư ‘Hướng dẫn thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội’, trong đó những nguyên tắc chung và các tổ chức thực hiện đã được đề cập.
63. Thực hiện thứ hai có đường hướng tôn giáo do Hội Đồng Giám Mục Việt Nam phác thảo qua thư chung ngày 17/10/1998 và đặc biệt là thư chung ngày 11/10/2002. Với tựa đề là ‘Thánh hoá gia đình’, thư chung gồm ba phần. Phần thứ nhất đề cập đến Hiện tình Hôn nhân và Gia đình tại Việt Nam. Phần thứ hai nói về Hôn nhân và gia đình dưới ánh sáng mạc khải. Phần thứ ba gợi ra Những phương thế cụ thể và thiết thực. Như vậy, ở phần thứ ba rõ rệt các Giám Mục Việt Nam muốn đề ra những cải tiến ứng xử cho văn hoá gia đình Việt Nam, đặc biệt là cho những gia đình Việt Nam công giáo. Các ngài viết :
‘Chúng tôi biết rằng gia đình anh chị em đã phấn đấu rất nhiều trong mọi khó khăn của cuộc sống để gìn giữ nét đẹp gia đình Kitô giáo, theo khuôn mẫu đời sống hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tuy nhiên, để các gia đình tránh được những nguy cơ rình rập tàn phá, đồng thời ngày càng vững mạnh vươn lên, cũng như ngày càng tiến gần đến hình ảnh lý tưởng mà Chúa mong muốn, cần có sự nỗ lực góp sức của mọi thành phần dân Chúa.
Các vị hữu trách
Chúng ta hãy chọn hôn nhân và gia đình như mục tiêu ưu tiên của chương trình mục vụ trong năm 2003.
Cụ thể, các Giáo phận nên có Văn phòng Mục vụ về Hôn nhân và Gia đình.
Các Giáo xứ nên tổ chức các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình, dựa trên Tông huấn "Ðời sống gia đình" của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Ðể các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình được có kết quả tốt đẹp, cần soạn thảo một chương trình giáo lý hôn nhân, đào tạo một đội ngũ giáo lý viên vững vàng, kêu gọi sự cộng tác của giáo dân có khả năng chuyên môn và có kinh nghiệm trong các lãnh vực: tâm lý, xã hội, pháp luật, quản trị, y khoa...
Ban Mục vụ giáo xứ có một bộ phận chuyên trách về gia đình với sự cộng tác của các Hội đoàn quan tâm đến tình trạng các gia đình trong khu xóm, đặc biệt các gia đình nghèo khổ, bất hoà bất thuận và các gia đình di dân, để kịp thời giúp đỡ.
Những ngày lễ gia đình, ngày kỷ niệm thành hôn, những buổi giao lưu giữa các gia đình sẽ rất ích lợi nếu được chuẩn bị chu đáo với tinh thần cầu nguyện và học hỏi.
Các gia đình
Tuy nhiên, mục vụ gia đình chỉ thực sự có kết quả khi các gia đình tự ý thức, tích cực tham gia các chương trình học hỏi và nhất là chủ động canh tân đời sống gia đình bằng đổi mới chính bản thân.
Gia đình là chiếc nôi, là trường học đầu tiên, nơi con cái lớn lên cả về thể xác lẫn tinh thần, nơi con cái không chỉ được dạy dỗ bằng lời nói mà còn bằng gương sáng. Vì thế cha mẹ không chỉ lo cho con cái được rửa tội mà còn phải lo cho đức tin con cái được lớn lên trong bầu khí gia đình đạo đức chan hoà tình mến Chúa yêu người. Hướng dẫn con cái trân trọng tình liên đới trong mối liên hệ bác ái giữa các thành viên trong gia tộc.
Ðể con cái tiến bộ về mọi mặt, cha mẹ cần quan tâm làm trong sạch môi trường sách báo, phim ảnh, bạn bè của con cái mình.
Một gia đình Kitô hữu thực sự tốt đẹp không thể chỉ đóng kín trong những sinh hoạt riêng tư, nhưng cần mở rộng mối quan hệ với những gia đình chung quanh, để kính trọng yêu thương, trao đổi học hỏi và quan tâm giúp đỡ, góp phần phát triển nền văn minh tình thương.
Kết luận
"Tương lai nhân loại sẽ đến qua gia đình" (ÐSGÐ số 86). Vì thế, tất cả mọi người hữu trách và mọi người thiện chí đều phải quan tâm đến việc bảo vệ và thăng tiến các giá trị đời sống gia đình. Dẫu cho có những bóng tối và khó khăn che lấp đi phần nào sự cao đẹp của những giá trị hôn nhân và gia đình, nhưng các Kitô hữu vẫn luôn được mời gọi vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa để trở thành sứ giả loan báo Tin Mừng về gia đình cho thế giới hôm nay, và để các "gia đình Kitô hữu trở nên tin mừng cho Thiên niên kỷ thứ ba" .
64. Lời kêu gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam rằng ‘Chúng ta hãy chọn hôn nhân và gia đình như mục tiêu ưu tiên của chương trình mục vụ’, thực ra không chỉ đã được các xứ đạo Việt Nam thực hiện cho năm 2003, mà đã được thực hiện từ nhiều năm trước. Ở Giáo Xứ Việt Nam Paris, ‘Hôn nhân và gia đình là đề tài luôn luôn được Giáo Hội và giáo xứ coi trọng. Ở giáo dục khởi đầu, từ năm 1995 giáo xứ đã tổ chức những khóa chuẩn bị hôn nhân cho các thanh niên, nam nữ đang chuẩn bị bước vào hôn nhân. Ở giáo dục liên tục, việc bồi dưỡng đời sống hôn nhân và gia đình cũng đã được nghĩ đến và thực hiện. Khóa trình gia đình trẻ được thiết lập năm 1992. Khóa trình kỷ niệm hôn phối của phụ huynh được tổ chức từ 1996. Ngày gia đình từ năm 1999. Và lễ tạ ơn thượng thọ từ 1999’ .
Những công việc mục vụ hôn nhân gia đình này đã được khởi sự và vẫn đang được tiếp tục tại Giáo Xứ. Và để đáp lại lời kêu gọi của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, cũng như thực hiện chương trình Mục Vụ Gia Đình 2005-2006 của Địa Phận Paris , đặc biệt trong khâu thiết kế các ứng xử văn hoá gia đình trong các môi trường hiện tại, Ban Mục Vụ Gia Đình đã đưa ra dự án biên soạn một cuốn sách về văn hoá gia đình Việt Nam. 12 chương đã được thiết kế như sau :
Chương 1 : Dẫn nhập vào Văn hoá Gia Đình Việt Nam /
Gs Trần Văn Cảnh
Chương 2 : Lập gia đình / Ông bà Long Hằng
Chương 3 : Văn hóa gia đình Việt Nam trong đời sống tại Pháp / Gs Tạ Thanh Minh Khánh
Chương 4 : Những trao truyền giữa các thế hệ /
Ptvv Phạm bá Nha
Chương 5 : Giáo dục con cái / Gs Trần Văn Cảnh
Chương 6 : Dòng dõi, thảo hiếu, tổ tiên / Ông bà Bình Huyên
Chương 7 : Gia đình Cộng đoàn và Giáo Hội / Bs Nguyễn Ngọc Đỉnh và Lm Mai Ðức Vinh
Chương 8 : Học thuyết Công giáo về gia đình trong thế kỷ XXI / Ls Lê Ðình Thông
Chương 9 : Góp ý về dinh dưỡng / Bs Tạ Thanh Minh
Chương 10 : Hôn nhân dị chủng / Lm Mai Đức Vinh
Chương 11 : Thiết lập Gia đình trong luật pháp /
Ls Nguyễn Thị Hảo
Chương 12 : Linh đạo gia đình / Lm Mai Đức Vinh
Hy vọng rằng cuốn sách này không những sẽ nêu bật ra được những nét độc đáo của Văn hoá Gia Đình Việt Nam, mà còn sẽ góp phần đưa ra được những phương thức cụ thể và thiết thực hầu thực hiện được ý nguyện "Tương lai nhân loại sẽ đến qua gia đình", mà trong đó, “gia đình Kitô hữu trở nên tin mừng cho Thiên niên kỷ thứ ba”
♥♥♥♥♥
♥♥♥
♥
Văn hoá gia đình Việt Nam, bản chất nó là một hệ thống hữu cơ được đọng lại trong các hệ tư tưởng đa diện, có mặt tôn giáo, mặt văn học, mặt nghệ thuật, mặt khoa học,... và đa nguồn, đa phương, đến từ kinh nghiệm sinh tồn dòng giống, từ những nước láng diềng hoặc xa lạ có mức độ cao, có sức mạnh lớn. Các hệ tư tưởng này, nếu đến từ gốc Việt Nam, thì vẫn được bảo trì và phát triển, đó là trường hợp hệ tư tưởng Âu Lạc Bách Việt ; nếu đến từ bên ngoài, láng diềng hay xa xôi, thì sau một thời gian tiếp cận, giao đảo, xung đột, đã được đồng hoá và ở lại với người Việt ; chúng đã được việt hoá. Phật giáo Ấn độ hay Trung hoa, khi vào Việt Nam đã biến thành Phật Giáo Việt Nam. Lão giáo và Khổng giáo Trung hoa, khi vào Việt Nam đã biến thành Lão giáo Việt Nam, Khổng giáo Việt Nam. Công giáo khi vào Việt Nam đã biến thành Công giáo Việt Nam. Thậm chí Cộng sản và Kinh tế thị trường, đang vào Việt Nam thì cũng đã đang biến thành Cộng sản Việt Nam và Kinh tế Việt Nam. Phương diện gốc đa phương này của văn hoá gia đình Việt Nam có cái hay mà cũng có cái dở. Hay là vì gốc có chiều phong phú đa diện, nên dễ thích nghi. Ở đâu thì gia đình Việt Nam cũng dễ thích ứng. Đúng như câu ‘Đáo giang tùy khúc’. Và vào gia dình nào, Tây, Tầu, Ấn, Mọi,... thì người Việt Nam, đàn ông cũng như đàn bà, đều dễ dàng hoà đồng. Đúng như câu ‘Nhập gia tùy tục’. Dở thì hơi nhiều. Thứ nhất, vì tính tiếp thu mạnh cho nên hay có thói ‘chuộng mới, nới cũ’ và thành ra vọng ngọai. Khuynh hướng hôn nhân dị giáo và dị chủng đang đi lên trong quốc nội cũng như ở hải ngọai. (Đó là ở mức độ tiểu gia đình, còn như ở mức độ đại gia đình, hay liên gia đình, hoặc trên gia đình, như ở mức độ làng xóm, quốc gia thì hai cái dở sau đây thật là rõ ràng). Thứ hai, vì đa năng, cho nên cái gì cũng biết, biết một tý, mà không cái gì biết cho sâu, thành ra nông cạn, khôn vặt, thậm chí thành lừa đảo, độc tài, vũ phu để che đậy cái dốt. Thứ ba, vì có nhiều nguồn gốc ảnh hưởng, mà ai ở gốc nào thì cho rằng chỉ gốc mình là đúng, cho nên hay chỉ trích cái dở của người khác, mà không biết nhìn ra cái hay của họ, thành ra ích kỷ, được chút quyền thì giữ khăng khăng cho mình, tìm cách ăn mảnh, thậm chí còn kiếm cách loại trừ người khác tư tưởng, khác đạo, khác chính đảng.
May thay, sức mạnh của hệ tư tưởng cái là Âu Lạc Bách Việt, với ba mạch huynh đệ, đức giả và trí giả, với ba chất việt tính, việt ngử và việt lý, đã tiêu nạp được những cái dở trên. Gia đình Việt Nam dầu theo đạo nào, ở nơi nào, thì cũng vẫn trước sau lộ ra được những nét đặc trưng căn bản là lòng biết ơn và tôn kính tổ tiên, trong hiếu ngoài trung, trên thuận dưới hoà, trước thủy sau chung. Gia đình Việt nam giầu hay nghèo, xưa hay nay, thì sứ mệnh cũng vẫn là sinh con đẻ cái để duy trì gia thống dòng tộc, và giáo dục chúng để thành thân thành người. Gia đình Việt Nam trong quốc nội hay ở hải ngoại thì bổn phận cũng vẫn là làm ăn để đạt chỉ tiêu thịnh vượng cho xã hội và ấm no cho gia đình. Những giá trị này đã khắc sâu vào tâm tư của từng người Việt Nam và được nhắc nhớ hàng ngày qua ca dao bình dân, như sau đây :
Vợ chồng là nghĩa tào khang,
Chồng hoà vợ thuận nhà thường yên vui.
Sinh con mới ra thân người,
Làm ăn thịnh vượng đời đời ấm no.
Ðôi lời về tác giả
Tác giả Trần Văn Cảnh Sinh năm 1943 tại Tân Chính, Nga Sơn, Thanh Hoá. Tốt nghiệp triết lý Giáo Hoàng Học Viện Piô X Đà lạt, cử nhân Sư phạm và Văn khoa giáo khoa triết Đại Học Đà Lạt, Tiến sĩ Khoa học giáo dục Đại Học Lyon Pháp, Thạc sĩ Quản lý chất lượng trường Kỹ sư cơ khí Saint-Ouen Pháp
1967-1973 : giáo sư triết Trung học Bình Tuy, rồi triết lý giáo dục và động lực đoàn thể Đại Học Sư Phạm Đà lạt. Phụ tá khoa trưởng đặc trách học vụ.
1973-1977 : Tu nghiệp về Khoa học giáo dục tại Lyon, Pháp.
1977-1997 : Giáo sư văn chương, phương pháp luận và kinh tế rồi giám đốc Trường chuyên nghiệp canh nông thực phẩm ANFOPAR tỉnh Oise, Pháp.
1997- Hôm nay (2006) : tư vấn quản lý chất lượng, giáo sư quản lý chất lượng, quản lý trí thức và kinh tế, rồi giám đốc học vụ và giám đốc nghiên cứu Trường Kỹ sư kiến trúc ECOTEC Paris
1973-1975 : Cố vấn Ban Đại Diện Sinh Viên Việt Nam Lyon
1983-2006 : - Biên tập viên báo Dân Chúa Âu Châu, rồi Giáo Xứ Paris
Cố vấn Hội Đồng Mục Vụ Giáo Xứ Paris
Giảng viên khoá trình Mục vụ hôn nhân về giáo dục gia đình
Bài đọc thêm
Thư Mục Vụ Của Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam Năm 2002
Thánh Hóa Gia Ðình
Gửi : các linh mục, tu sĩ nam nữ và anh chị em giáo dân
1. Chúng tôi, các Hồng Y, Tổng Giám mục, Giám mục và các linh mục Giám quản thuộc Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam, đang họp khoá thường niên tại Thủ đô Hà Nội, xin gửi tới anh chị em lời chào thăm và chúc bình an trong Chúa Kitô, Chúa chúng ta.
Trong Thư chung năm 2001, chúng tôi đã đề cập đến gia đình như một chương trình mục vụ cần lưu tâm trong Thiên niên kỷ mới. Năm nay, tiếp nối lời kêu gọi của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II trong Tông huấn "Ðời sống gia đình" (ƯSGƯ) ban hành năm 1981, đồng thời để chào đón cuộc gặp gỡ quốc tế của các gia đình sẽ được tổ chức tại Manila vào đầu năm tới, chúng tôi muốn dành Thư mục vụ này cho đề tài hôn nhân và gia đình.
I. Hiện tình Hôn nhân và Gia đình tại Việt Nam.
2. Anh chị em thân mến, Nói đến gia đình Việt Nam, người ta nghĩ ngay tới một nề nếp gia phong rất gần gũi với giáo lý đức tin. Gia đình ấy coi chữ Hiếu làm đầu nên rất sẵn sàng đón nhận ánh sáng Phúc Âm, trong đó điều răn phải thảo kính cha mẹ được xếp ngay sau ba điều răn quy định việc thờ phượng Thiên Chúa. Gia đình ấy xem chữ Tín làm trọng nên dễ dàng gặp thấy nơi điều răn thứ sáu và thứ chín tiếng nói chung nhằm bảo vệ đời sống hôn nhân một vợ một chồng bất khả phân ly. Gia đình ấy gồm có ông bà cha mẹ con cháu trên thuận dưới hoà trong một mái nhà đầm ấm, được xem như một môi trường tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển đức tin, nhất là cho việc xưng tụng Thiên Chúa là Cha và coi mọi người như anh chị em. Gia đình ấy sống liên đới với các gia đình khác trong tình làng nghĩa xóm hiệp thông cầu nguyện khi vui cũng như lúc buồn, dần dà tô nên một hình ảnh đẹp và cụ thể để diễn tả tình huynh đệ Kitô giáo. Chính vì thế, Hội Thánh dù được định nghĩa như là "Dân Thiên Chúa, Thân Mình Chúa Kitô, Ðền Thờ Chúa Thánh Thần" thường được người Việt Nam hình dung như một gia đình.
3. Tuy nhiên, hình ảnh đẹp về gia đình Việt Nam hiện nay đang có nguy cơ mờ nhạt dần đi. Nguyên do dễ thấy nhất là tiến trình "công nghiệp hoá, đô thị hoá". Tiến trình này tự nó đem lại nhiều phúc lợi cho xã hội như những tiện nghi vật chất và cuộc sống văn minh, nhưng đồng thời cũng kéo theo những xáo trộn trong sinh hoạt gia đình, làm ảnh hưởng đến nề nếp gia phong như lôi cuốn một số người đến chỗ hưởng thụ ích kỷ, và xa hơn đến lối sống buông thả sa đọa, từ đó làm gia tăng những trường hợp ly dị và làm suy giảm ý thức về phẩm giá sự sống.
Cùng với tiến trình này là hiện tượng di dân ồ ạt về các thành phố lớn để tìm việc làm. Hậu quả là một số cha mẹ phải sống xa con cái, nên việc giáo dục cơ bản không được lưu tâm đúng mức; một số người trẻ phải rời gia đình đến làm việc ở nơi xa lạ, nên dễ bị bóc lột sức lao động và mắc phải những tệ nạn xã hội như xì ke, ma tuý hay rơi vào những hoàn cảnh trong đó nhân phẩm bị coi thường; một số trẻ em bị đẩy ra đường phố sống lang thang.
Ngoài ra, sự phát triển nhanh chóng và đa dạng các phương tiện truyền thông xã hội, một mặt cung cấp những thông tin hữu ích giúp thăng tiến con người, nhưng mặt khác lại du nhập những lối sống thiếu lành mạnh, tác hại đến nếp sống đạo đức gia đình như tự do luyến ái, sống chung không cưới xin, dễ dàng sử dụng bạo lực...
II. Hôn nhân và gia đình dưới ánh sáng mạc khải.
4. Trước hiện tình nêu trên, là người Công giáo, chúng ta hãy nhìn đời sống hôn nhân và gia đình dưới ánh sáng Mạc khải nơi Tình Yêu tạo dựng và cứu độ của Thiên Chúa.
Hôn nhân
Con người là hình ảnh của Thiên Chúa Tình Yêu (x.1Ga 4,8). Nếu bản chất của Thiên Chúa là yêu thương và Ngài đã tạo dựng con người theo hình ảnh của chính Ngài (St 1,26), thì bản chất của con người cũng giống bản chất của Thiên Chúa là yêu thương. Chỉ khi nào yêu thương và được yêu thương, con người mới hạnh phúc và đạt được mục tiêu của cuộc sống.
Và Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ. Cả nam và nữ đều là hình ảnh của Thiên Chúa (St 1,27) do đó tự bản chất con người có xã hội tính, và là hình ảnh của Tình Yêu Hiệp Thông Ba Ngôi Thiên Chúa.
Từ nền tảng trên, mọi tình yêu chân thật giữa con người với con người đều hướng tới sự hiệp thông khuôn mẫu này. Do đó, tình yêu trong hôn nhân và gia đình là tình yêu mang lại hạnh phúc vì làm cho con người được thông phần Tình Yêu Ba Ngôi Thiên Chúa một cách cụ thể tại trần gian.
5. Nhưng tình yêu giữa Thiên Chúa và con người trong lịch sử cứu độ đã được diễn tả bằng hôn ước, nghĩa là dấu chỉ biểu lộ tương quan giữa Thiên Chúa với Dân Người. Ðó là một tương quan yêu thương, sâu đậm, thắm thiết, mà nhiều trang Kinh Thánh Cựu Ước đã dùng những hình ảnh phu thê để diễn tả.
Giao ước ấy đạt đến tột điểm trong mầu nhiệm Nhập Thể Cứu Chuộc. Nơi Chúa Giê-su, Tình Yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại, được biểu lộ cách trọn vẹn - Thiên Chúa yêu thương nhân loại đến mức độ tự hiến bản thân mình nơi Người Con Một là Ðức Giêsu Kitô (Ga 3,16). Thiên Chúa yêu thương đến nỗi mặc lấy bản tính con người, để tự hạ, phục vụ và hiến thân cho con người qua cái chết trên thập giá.
Bí tích Hôn phối là hình ảnh của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại nói chung, và Hội Thánh nói riêng. Như Ðức Kitô đã yêu thương Hội Thánh thế nào thì trong hôn nhân, người ta cũng được mời gọi để hiến thân, hy sinh, quên mình, phục vụ nhau như thế.
Gia đình
6. Ngoài ra, theo ý định của Thiên Chúa, hôn nhân là nền tảng cho một cộng đoàn rộng lớn hơn, tức là gia đình. Nhờ hôn nhân mà đôi bạn trở thành cha mẹ, lãnh nhận nơi Thiên Chúa quà tặng là những người con. Khi cha mẹ yêu thương con cái, họ trở thành dấu chỉ hữu hình của Tình Yêu Thiên Chúa đối với con người. Khi cha mẹ chăm sóc con cái, họ làm thành một cộng đồng hiệp thông những ngôi vị. Chính sự hiệp thông mật thiết trong gia đình Kitô giáo là hình ảnh sự hiệp thông giữa Ba Ngôi Thiên Chúa : Yêu nhau và nên một với nhau mà vẫn hoàn toàn tôn trọng sự khác biệt giữa các ngôi vị.
Từ ý nghĩa ấy, ngay giữa lòng cuộc sống hôn nhân và gia đình, toàn bộ những tương quan liên vị như tình vợ chồng, tình phụ mẫu, tình con thảo, tình anh em được kết dệt, và nhờ đó, mỗi ngôi vị được dẫn đưa vào trong "gia đình nhân loại" và "gia đình Thiên Chúa" là Hội Thánh (ÐSGÐ số 15).
III. Những phương thế cụ thể và thiết thực.
7. Chúng tôi biết rằng gia đình anh chị em đã phấn đấu rất nhiều trong mọi khó khăn của cuộc sống để gìn giữ nét đẹp gia đình Kitô giáo, theo khuôn mẫu đời sống hiệp thông của Ba Ngôi Thiên Chúa. Tuy nhiên, để các gia đình tránh được những nguy cơ rình rập tàn phá, đồng thời ngày càng vững mạnh vươn lên, cũng như ngày càng tiến gần đến hình ảnh lý tưởng mà Chúa mong muốn, cần có sự nỗ lực góp sức của mọi thành phần dân Chúa.
Các vị hữu trách
Chúng ta hãy chọn hôn nhân và gia đình như mục tiêu ưu tiên của chương trình mục vụ trong năm 2003.
Cụ thể, các Giáo phận nên có Văn phòng Mục vụ về Hôn nhân và Gia đình.
Các Giáo xứ nên tổ chức các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình, dựa trên Tông huấn "Ðời sống gia đình" của Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II.
Ðể các lớp học hỏi về hôn nhân và gia đình được có kết quả tốt đẹp, cần soạn thảo một chương trình giáo lý hôn nhân, đào tạo một đội ngũ giáo lý viên vững vàng, kêu gọi sự cộng tác của giáo dân có khả năng chuyên môn và có kinh nghiệm trong các lãnh vực: tâm lý, xã hội, pháp luật, quản trị, y khoa...
Ban Mục vụ giáo xứ có một bộ phận chuyên trách về gia đình với sự cộng tác của các Hội đoàn quan tâm đến tình trạng các gia đình trong khu xóm, đặc biệt các gia đình nghèo khổ, bất hoà bất thuận và các gia đình di dân, để kịp thời giúp đỡ.
Những ngày lễ gia đình, ngày kỷ niệm thành hôn, những buổi giao lưu giữa các gia đình sẽ rất ích lợi nếu được chuẩn bị chu đáo với tinh thần cầu nguyện và học hỏi.
Các gia đình
8. Tuy nhiên, mục vụ gia đình chỉ thực sự có kết quả khi các gia đình tự ý thức, tích cực tham gia các chương trình học hỏi và nhất là chủ động canh tân đời sống gia đình bằng đổi mới chính bản thân.
Gia đình là chiếc nôi, là trường học đầu tiên, nơi con cái lớn lên cả về thể xác lẫn tinh thần, nơi con cái không chỉ được dạy dỗ bằng lời nói mà còn bằng gương sáng. Vì thế cha mẹ không chỉ lo cho con cái được rửa tội mà còn phải lo cho đức tin con cái được lớn lên trong bầu khí gia đình đạo đức chan hoà tình mến Chúa yêu người. Hướng dẫn con cái trân trọng tình liên đới trong mối liên hệ bác ái giữa các thành viên trong gia tộc.
Ðể con cái tiến bộ về mọi mặt, cha mẹ cần quan tâm làm trong sạch môi trường sách báo, phim ảnh, bạn bè của con cái mình.
Một gia đình Kitô hữu thực sự tốt đẹp không thể chỉ đóng kín trong những sinh hoạt riêng tư, nhưng cần mở rộng mối quan hệ với những gia đình chung quanh, để kính trọng yêu thương, trao đổi học hỏi và quan tâm giúp đỡ, góp phần phát triển nền văn minh tình thương.
Kết luận
9. "Tương lai nhân loại sẽ đến qua gia đình" (ÐSGÐ số 86). Vì thế, tất cả mọi người hữu trách và mọi người thiện chí đều phải quan tâm đến việc bảo vệ và thăng tiến các giá trị đời sống gia đình. Dẫu cho có những bóng tối và khó khăn che lấp đi phần nào sự cao đẹp của những giá trị hôn nhân và gia đình, nhưng các Kitô hữu vẫn luôn được mời gọi vững tin vào quyền năng của Thiên Chúa để trở thành sứ giả loan báo Tin Mừng về gia đình cho thế giới hôm nay, và để các "gia đình Kitô hữu trở nên tin mừng cho Thiên niên kỷ thứ ba".
Trước khi kết thúc, chúng ta hãy nhìn lên Thánh Gia Thất ở Nazareth như nguyên mẫu và tấm gương của mọi gia đình Kitô hữu. Thánh Gia Thất đã sống khiêm tốn, khó nghèo, đã bị thử thách, bị bắt bớ, bị lưu đầy, nhưng các Ngài đã vượt qua nhờ lòng tín thác vào Thiên Chúa. Các Ngài vẫn luôn bảo trợ và giúp đỡ các gia đình chúng ta. Chúng ta hãy năng cầu nguyện cùng các Ngài.
10. "Lạy Thánh Gia Nazareth, là gương mẫu của đời sống thánh thiện, công bình và yêu thương, xin cho gia đình chúng con trở nên nơi đào tạo nhân đức, trong hiền hoà, phục vụ và cầu nguyện. Xin cho chúng con xây dựng gia đình, thành nơi an ủi cho cuộc đời đầy thử thách. Xin cho chúng con biết làm cho mọi người trong gia đình, được thăng tiến để góp phần vào việc phát triển xã hội, và cộng tác trong việc xây dựng Giáo Hội.
Xin Ba Ðấng luôn hiện diện trong gia đình chúng con, khi vui cũng như lúc buồn, khi làm việc cũng như lúc nghỉ ngơi, khi lo âu cũng như lúc hi vọng, khi sinh con cũng như lúc có kẻ qua đời, để khi trải qua mọi thăng trầm của cuộc sống, chúng con luôn luôn chúc tụng Chúa, cho đến ngày được sum họp với Ba Ðấng trong Nước Trời. Amen".
Hà Nội, ngày 11 tháng 10 năm 2002
TM/ Hội Ðồng Giám Mục Việt Nam
Ðức Cha Phaolô Nguyễn Văn Hoà, Chủ tịch
Ðức Cha Phêrô Nguyễn Soạn, Tổng Thư kí
Ðức Cha Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm
Ðức Cha Nguyễn Minh Nhật
Ðức Cha Emmanuel Lê Phong Thuận
Ðức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn
Ðức Cha Gioan.B. Phạm Minh Mẫn
Ðức Cha Nicola Huỳnh Văn Nghi
Ðức Cha Giuse Nguyễn Tích Ưức
Ðức Cha Phêrô Trần Thanh Chung
Ðức Cha Phêrô Nguyễn Văn Nho
Ðức Cha Phaolô Cao Ðình Thuyên
Ðức Cha Phaolô Nguyễn Bình Tĩnh
Ðức Cha Giuse Nguyễn Văn Yến
Ðức Cha Giuse Nguyễn Quang Tuyến
Ðức Cha Giuse Trần Văn Tiếu
Ðức Cha Giuse Ngô Quang Kiệt
Ðức Cha Tôma Nguyễn Văn Trâm
Ðức Cha Tôma Nguyễn Văn Tân
Ðức Cha Giuse Hoàng Văn Tiệm
Ðức Cha Phaolô Bùi Văn Ðọc
Ðức Cha Phaolô Nguyễn Thanh Hoan
Ðức Cha Vũ Duy Thống
Ðức Cha Phêrô Trần Ðình Tứ