LAÏCITE
CHỦ TRƯƠNG ‘THẾ TỤC’ CỦA PHÁP
Lm. Mai Ðức Vinh
CHỦ TRƯƠNG ‘THẾ TỤC’ CỦA PHÁP
Ngày 20.12.2007, tổng thống Pháp, ông Nicolas Sarkozy, đã đến thăm chính thức Ðức Giáo Hoàng Benoit XVI, nhằm mục đích ‘thiết lập với Giáo Hội Công Giáo những tương quan mới mẻ và xóa bỏ mặc cảm (décomplexées)’ đã tạo nên bởi cái gọi là ‘thế tục’ kể từ cách mạng 1789. Trong bài diễn văn đọc tại Vương Cung Thánh Ðường Saint-Jean-du-Latran, ông đã khẳng định : «Hoàn toàn giống như biến cố vua Clovis lãnh bí tích Rửa Tội, thế tục là một sự kiện không thể quay ngược lại được trong nước chúng tôi. Tôi biết những đau khổ người công giáo phải chịu đựng khi thực hiện chủ trương thế tục (…) Tôi biết việc chú giải luật 1905 như một bản văn của tự do, của bao dung, của hòa dịu, một phần là tái thiết lại quá khứ (…). Không ai chối rằng chủ trương thế tục của Pháp hiện nay là sự tự do : tự do tin tưởng và tự do không tin tưởng, tự do sống theo một tôn giáo và tự do thay đổi tôn giáo (…). Nước Pháp đã thay đổi rất nhiều, ngày nay người Pháp có nhiều xác tín hơn thời xưa. Bởi đó, thế tục được khẳng định như một sự cần thiết và một sự may mắn, nó đã trở thành một điều kiện tạo hòa bình dân sự (…). Như vậy, thế tục không có nghĩa là sự từ chối quá khứ. Thế tục không thể nhổ nước Pháp ra khỏi những cội rễ kitô giáo. Thế tục đã nhiều phen thử làm, nhưng không thành tựu (…) Chính vì thế, ước nguyện của tôi là phải tiến đến một thế tục tích cực, nghĩa là một thế tục luôn chủ trương tự do suy nghĩ, tự do tin tưởng và không tin tưởng, mà không coi các tôn giáo là nguy hiểm, nhưng là một duyên may (atout)» (Toàn bản văn, xin đọc Doc Cat. Số 2394).
Và mới đây, ngày 12. 09. 2008, tức là chín tháng sau bài diễn văn ở điện Latran (Roma), tổng thống Sarkozy đã đón tiếp đức giáo hoàng Biển Ðức XVI tại điện Elysée, và đã đọc một bài diễn văn khác, cũng muốn nhắc lại và quảng diễn thêm về đường hướng ‘thế tục tích cực’ ông theo đuổi. Ông khẳng định : « Thế tục tích cực là thế tục biết kính trọng, biết quy tụ, biết đối thoại chứ không phải là một thế tục loại trừ hay tố cáo. Ðặc điểm của thế tục tích cực là mở rộng, bao dung và đối thoại và kính trọng ».
Dầu sao đi nữa, những lời của tổng thống Sarkozy luôn chứng tỏ : Dân Pháp rất hãnh diện về ‘thế tục’ đã được tạo nên từ cách mạng 1789 và có thể nói, còn được nối tiếp bởi ‘cách mạng văn hóa tháng 5.1968’. Họ hãnh diện coi ‘thế tục’ là một điểm độc sáng của cách mạng 1789, có ảnh hưởng quốc tế và thành khuôn mẫu cho nhiều quốc gia, nhiều thể chế chính trị và xã hội hiện nay trên thế giới… Mặc dầu ngày nay ‘chủ trương thế tục đã biến thể và xuống cấp, cần mở rộng, bao dung và đối thoại…, nhưng như chúng ta thấy : ‘thế tục’ đã tạo nên bao ‘căng thẳng, đoạn tuyệt, mặc cảm’ giữa nhà nước Pháp với Giáo Hội; qua những biến cố lịch sử của các năm 1789, 1905, và 1968, Giáo Hội Công Giáo Pháp đã bị thiệt hại rất nhiều… Tình trạng ‘hóa giải kitô’ (déchtistianisation) mỗi ngày một gia trọng. Nhiều người Pháp, kể cả những nhà lãnh đạo, không muốn nhìn nhận ‘gia tài kitô giáo’ hay ‘gia tài tôn giáo’ của nước Pháp và của Âu Châu… Ông Sarkozy là vị tổng thống đầu tiên muốn và dám ‘canh tân’ chủ trương thế tục của Pháp.
Nghĩ rằng, đang sống trong ‘một nước Pháp thế tục’, chúng ta cần nắm bắt phần nào ‘những nguyên nhân, những diễn tiến lịch sử, những thành công, những tác hại và những thay đổi của chủ trương thế tục, ’ hầu chúng ta hiểu rõ hơn não trạng của người Pháp, thể chế của nước Pháp và của xã hội pháp, nhất là chia sẻ tình trạng hiện nay của Giáo hội Pháp, đồng thời chính chúng ta được trưởng thành trong đức tin hầu hướng dẫn đức tin của con cháu chúng ta. Ðó là mục đích của bài viết này. Bài này sẽ gồm bốn phần chính :
. A. Chủ trương thế tục của cách mạng 1789
. B. Cách mạng văn hóa 1968
. C. Chủ trương thế tục tích cực của tổng thống Sarkozy.
. D. Giáo Hội Công Giáo không đứng ngoài cuộc.
A. CHỦ TRƯƠNG THẾ TỤC CỦA CÁCH MẠNG 1789
I. Cần nắm vững một số từ
‘Thế tục’ hay ‘LAÏCITÉ’ vừa là một danh từ (terme) vừa là một ý niệm (concept). Do đó cần tìm hiểu nguồn gốc của danh từ (étymologie) và nghĩa đặïc biệt của ý niệm.
1. Một nguyên ngữ mơ hồ.
Từ ‘Laicité’ phát sinh bởi từ ‘laïc’. Từ ‘laïc’ có gốc từ chữ hy lạp ‘laos’ chỉ nghĩa ‘dân chúng’, ‘dân tộc’, ‘quần chúng’ (peuple) được coi như một tổng thể bất khả phân chia và không thể khác biệt. Từ này không chỉ nghĩa về dân tộc trong phạm vi chính trị. Vì thế trong tiếng latinh của Giáo Hội, từ ‘laic’ chính là từ ‘laicus’ chỉ một ‘người đời’, ‘một giáo dân’ thuộc Giáo Hội, khác với ‘Clericus’ (Clerc) là ‘giáo sĩ’ (xem K.207,1). Vào giữa thế kỷ XIX, ông Edgard Quinet nói về việc giảng dạy thế tục hay về các trường công là để đối lập lại việc giảng dạy của các dòng tu hay về các trường công giáo. Mãi tới năm 1871 thể từ (substantif) mới mang một ý niệm rộng rãi : các tham vọng của các chiến sĩ cộng hòa là chống lại chủ thuyết giáo sĩ bảo thủ.
2. Tìm kiếm những từ xem ra đồng nghĩa
‘Bao dung tôn giáo’ (Tollérance religieuse) đã được đề cao tại Pháp và Algérie bởi một số các triết gia hầu chấm dứt chiến tranh tôn giáo. Tuy nhiên, dù đã được ghi đậm một số thành công (tiêu biểu là sắc lệnh Nantes năm 1598), ‘bao dung tôn giáo’ bị coi là một ‘sự nể vì nào đó thôi’ (une certaine condescendance), người bao dung vẫn giữ ‘thái độ trịch thượng’ về xác tín tôn giáo của họ. ‘Bao dung tôn giáo’ không tuyệt đối cần thiết : chỉ cần có những cách xử trí hay những xác tín xứng hợp là đủ (Sắc lệnh Nantes không nói gì đến Do Thái Giáo, ông John Locke không muốn bao dung đối với thuyết vô thần). Muốn tiến gần đến quan niệm thế tục, ‘bao dung tôn giáo’ phải khẳng định sự bình đẳng giữa các ‘xác tín tôn giáo khác nhau’.
Ðàng khác, ‘thế tục’ (laïcité) đồng nghĩa với ‘tục hóa’, ‘hoàn tục’ (Sécularisation). Từ này chỉ về những thực tại rõ ràng khác nhau. Có khi nó diễn tả sự tiến bộ của ảnh hưởng xã hội tôn giáo, có khi nó đề cập đến những chuyển trao cho chính quyền dân sự các năng quyền (compétences) mà từ xưa vốn thuộc về tôn giáo. Cả hai cách diễn tả này đều không quân xứng với tính cách thế tục. Cách diễn tả thứ nhất chỉ có tính cách xã hội học, cách diễn tả thứ hai chỉ là một phân tích thuần tuý hình thức.
3. Một nội dung còn mờ ảo
Sau vụ thất bại, năm 1984, trong dự án thiết lập ‘đại công vụ thống nhất và thế tục của nền giáo dục quốc gia’ của chính phủ xã hội Fr. Mitterand, năm 1986, người ta đã tổ chức tại Lille những buổi thảo luận hầu đào sâu ý nghĩa của thế tục. Nhiều từ định tính (qualificatifs) được nêu lên: ‘thế tục đa dạng’ (laicité pluriel), ‘tân thế tục’ (Nouvelle laicité), ‘thế tục mở rộng’ (laicité ouverte), ‘minh ước mới về thế tục’ (nouveau pacte laique). Không một định tính nào cho thấy một nội dung rõ ràng về thế tục. Thế tục vẫn mang một nội dung hàm hồ và đáng bàn cãi, lại còn nguy hiểm và khó ăn nói khi muốn vận động với dân chúng… Nhiều khi ‘thế tục’ không phân biệt được giữa truyền thống văn hóa và giáo lý của tôn giáo
4. Những điều kiện của ‘thế tục’.
Ðể thực sự có thế tục, trước tiên phải có một khoảng giới công cộng (espace public) làm nôi sinh cho ‘res publica’ (công việc chung). Trong cái khoảng giới công cộng này mỗi người được nhìn nhận như là cá thể, độc lập hoàn toàn với những xác tín mà cá thể ấy muốn tiếp nhận từ nơi khác. Ðó là ‘khoảng giới riêng tư’. Cả hai khoảng giới phải tách rời nhau. Sự tách rời này không cho phép Nhà Nước xen mình vào khoảng giới riêng tư . Sự tách rời này được gọi là trật tự công cộng. Cũng vậy, con người phải được tự do về niềm tin và cách phát biểu trong khoảng giới riêng tư. Nhà Nước cũng phải hoàn toàn tự do như vậy đối với mọi xác tín tôn giáo. Tóm lại mọi người phải được nhìn nhận bình đẳng về quyền lợi. Ðược xây trên một sự bình đẳng về quyền lợi và trên sự tự do chắc chắn và tuyệt đối về lương tâm, tính cách thế tục được bảo đảm bởi sự phân tách khoảng giới công cộng với khoảng giới riêng tư. Nhà Nước có bổn phận kiểm soát sự tách rời này.
II. Những khối óc thế tục
Trong lịch sử đã có nhiều tư tưởng gia suy tư về thế tục, nhưng thường khi họ lại đoạn tuyệt với thời đại. Cũng có những người hoạt động quyết liệt hầu hình thành những cải cách mà họ cho là cần thiết để đạt tới ‘chủ trương thế tục’.
1. Những tư tưởng gia về ‘thế tục’.
Nhân vật phải nhắc đến đầu tiên là ông Condorcet (1743-1794). Là một nhà toán học sáng giá trước thời cách mạng, ông lại là một trong những người giàu tư tưởng triết học. Ngay trong chế độ cũ, nhiều lần ông đã cổ động bãi bỏ chế độ nô lệ, bãi bỏ các quyền lợi phong kiến và đã thực thi sự bình đẳng giữa người với người. Năm 1764, ông là chủ tịch của Hội Bạn Người Da Đen. Nếu ông chấp nhận ‘bản Tuyên Ngôn năm 1789 về quyền lợi của con người và của công dân’, thì chính ông lại lên tiếng cảnh cáo rằng : trong bản Tuyên ngôn, người ta đã quên giới phụ nữ. Ông cũng lấy làm tiếc về việc khơng nghĩ đến ‘quyền phổ thông đầu phiếu’. Phương án giáo dục phổ thông mà ông trình bày trước Quốc Hội Lập Pháp ngày 20-21. 04.1792, báo trước những cải tổ ngành giáo dục mà nửa thế kỷ sau mới được thực hiện. Vì cương quyết chống án tử hình, ông đã không bỏ phiếu xử tử vua Louis XVI. Ông đã kết liễu đời sống như một người bị khai trừ, như một nạn nhân của sự can đảm và minh mẫn của ông. Ông tự tử hay bị hành quyết, đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Qua những điểm ông đã vạch ra về những tiến bộ của tinh thần nhân bản, quả thật, ông đã để lại một chúc thư chính trị của thế kỷ XVIII. Tư tưởng của ông được phản ảnh rõ nét nơi nhân cách và sự nghiệp của Auguste Comte (1798-1857). Ông này đáng mang danh là người khai mào và phổ biến khoa xã hội học tân tiến. Ông dùng những dữ kiện khoa học để phân tích các hiện tượng xã hội. Được nối tiếp bởi Émile Littré (1801-1881), tư tưởng của Concordet và Auguste Comte đã tạo nên những ảnh hưởng quyết liệt về tính cách thế tục, đặc biệt vào cuối thế kỷ XIX. Một nhân vật khác phải nhắc tới là ông Charles Renouvier (1815-1903). Điểm nổi bật trong tư tưởng của ông là phục hồi sự công bằng cho những người bị lãng quên. Ông đem lại cho thuyết tất định duy thực (déterminisme positiste) một phạm trù duy chí (dimension volontariste) mượn lấy từ chủ nghĩa phê bình của Kant. Sự tiến bộ là cần thiết, nhưng trước tiên là việc chọn lựa luân lý. Việc chọn lựa này cho phép ông khẳng định rằng xét về luân lý đạo đức thì Nhà Nước có quyền ưu thế trên các tôn giáo.
2. Những nhân vật hoạt động cho thế tục.
Người được nêu danh đầu tiên là ông Jean Macé (1815-1896). Xuất thân từ một gia đình hạ lưu, có khuynh hướng cực tả, đối lập Ðệ Nhị Ðế Chế. Năm 1866, ông đã kêu gọi quy tụ những người muốn đóng góp vào công trình giáo dục đại chúng. Do lời kêu gọi của ông mà hình thành Liên Minh Giảng Huấn (ligue d’enseignement). Theo gót Jean Macé là Jules Ferry, ông này đã gây nên phong trào thế tục hóa công trình giảng huấn ; Paul Bert (1833-1886), bộ trưởng bộ Giáo Dục và Phụng Tự trong hai năm 1881-1882, đã huy động cho các văn kiện cơ bản về trường công được Quốc Hội biểu quyết chấp thuận; Ferdinand Buisson (1841-1932) được bổ nhiệm làm giám đốc ngành tiểu học tại bộ Giáo Dục (1879), đã hoạt động hăng say lập nên Liên Minh Nhân Quyền năm 1898.
Sau cùng, trong thời gian bàn thảo về việc tách rời Giáo Hội và Nhà Nước, Eùmile Combes (1835-1921), cho dù bị nhóm ‘thân giáo sĩ’ tấn công ác liệt và bị các bạn bè bỏ rơi, đã biết xử dụng lợi khí luật 1901 về các hội đoàn, vận động yêu cầu Quốc Hội biểu quyết ‘luật tách rời’ (loi de séparation) năm 1905.
3. Ông Jules Ferry
Jules Ferry đã trở thành biểu tượng chính yếu cho mọi hoạt động nhằm ‘thế tục hóa hệ thống học đường’. Năm 1891, ông tuyên bố : «Tôi là người dung hòa. Tôi luôn tự nhủ mình như vậy. Với cả danh dự của một công dân, tôi mong muốn mở thật lớn mọi cánh cửa của Nền Cộng Hòa». Jules Ferry (1832-1893), trước tiên là đối lập với Ðệ Nhị Ðế Chế và chính trong danh nghĩa này mà ông được trúng cử thành nghị sĩ trong Ban Lập Pháp (Corps Législatif). Léon Gambetta (1838-1882) đã tổng hợp các lời hứa của ông thành một chương trình của nhóm cực đoan và được biểu quyết tại Belleville năm 1869. Tiếp theo, Jules Ferry được chọn vào Quốc Hội (Assemblée Nationale), rồi giữ ghế Trưởng Phòng Dân Biểu (Chambre des Députés), trước khi trở thành Thượng nghị sĩ và Chủ Tịch Thượng Viện trong hai tháng. Ông giữ chức bộ trưởng Giáo Dục từ năm 1879. Hai lần làm chủ tịch Hội Ðồng (Coseil), từ 9.1880 đến 11.1881 và từ tháng 01 đến tháng 07 năm 1882 : Ðiều ông quan tâm nhất và được kể là thành công là giải quyết các vấn đề học đường, mở rộng lối ‘thế tục hóa việc giảng dạy’.
Giống Gambetta, Jules Ferry là chiến sĩ Nền Cộng Hòa và chủ trương mọi canh tân cần phải có thời gian. Trái với khuynh hướng xã hội là muốn đốt thời gian, đi mau, đi mạnh. Jules Ferry thuộc nhóm Tam Ðiểm cùng với Émile Littré (1801-1881), chủ trương đi tìm một lương tâm nhân bản thoát khỏi mọi cưỡng bách thần học, tự do đi chinh phục thế giới. Thừa hưởng tư tưởng của Kant, Condorcet, Comte, Edgar Quinet và Renouvier, ông Jules Ferry muốn thực hiện cho được giấc mơ ‘trường học không có linh mục, không có giáo lý’ (une école sans prêtres et sans catéchisme).
III. Diễn tiến lịch sử của ‘chủ trương thế tục’
1. Con đuờng dài tiến đến tự do
Từ ‘LAÏCITÉ của Pháp có nghĩa là ‘tính tục, tục tính, đời, ngoài tôn giáo, phi tôn giáo, ngoài giáo hội…’. Từ này được xử dụng từ năm 1882, khi có phong trào ‘giải phóng giáo dục học đường’ do các ông Ferdinand Buisson và Jules Ferry chủ xướng : đòi quốc hữu hóa các trường tư hiện nằm trong tay của Giáo Hội, của các dòng tu, đồng thời ‘Bó buộc các trẻ em phải đi học, học miễn phí, và ở ngoài ảnh hưởng tôn giáo‘. Nói tắt : họ chủ trương ‘một hệ thống học đường bó buộc, miễn phí và thế tục (système scolaire obligatoire, gratuit et laique).
Phải qua một con đường dài, quyền phê phán mới được nhìn nhận. Tinh thần thế tục phải được coi là thành quả của cuộc tranh đấu lâu dài để giải phóng con người khỏi những áp bức của nguyên tắc quyền bính’. Phải nhiều thế kỷ mới đạt được ‘quyền tự do phê bình’. Người tiêu biểu xa xưa cho cuộc tranh đấu này là ông Socrate, triết gia Hy Lạp (470-399 trước công nguyên). Ông chủ trương con người cần có lương tâm phê phán (Conscience critique). Nhưng sắc lệnh Diopeithes ban hành tại Athènes năm 432 trước công nguyên, cho phép trừng phạt những người không tin vào các thần minh đã được quốc gia công nhận. Người ta đã căn cứ vào sắc lệnh này để tố cáo và xử tử triết gia Socrate. Nối nghiệp triết gia Socrate là ông Aristote (384-322 trước Công nguyên), ông này đưa ra một cái nhìn mới về lý trí, coi lý trí như một dụng cụ tốt để am tường các biến cố và sự biến chuyển của chúng. Ông không bảo lý trí có khả năng cắt nghĩa được hết mọi biến cố, mọi vấn đề, nhưng nó cống hiến một phương pháp đơn giản giúp am tường sự thực (réel), phương pháp này dựa trên một nền tảng luân lý khả dĩ đối với con người.
Từ khi Kitô Giáo được công nhận là quốc giáo, người ta bỏ quên gia tài triết lý cổ thời. Phải đợi tới thế kỷ XI, XII, nhờ các nhà tư tưởng Ảrập như Avicenne và Averroès, người ta mới bắt đầu khám phá lại kho tàng bị lãng quên : Ðức tin và lý trí, niềm tin và triết học là hai cách hiểu biết khác biệt nhau.
2. Thế kỷ Phục Hưng và Ánh Sáng
Chúng ta biết, năm 312 hoàng đế Constantin trở lại Kitô giáo, nhưng đến triều đại của Theodose Kitô giáo mới trở thành quốc giáo trong đế quốc Roma. Từ khi đó, niềm tin Kitô giáo là tuyêït đối, không ai có quyền đưa ra bàn cãi. Phải đợi đến thời Phục Hưng và Ánh Sáng (La Renaissance et les Lumières), tức là kể từ thế kỷ XVI, mới chấm dứt quan niệm một chiều về ‘niềm tin không thể bàn cãi’ (croyance indiscutable). Nếu trước đó Kitô giáo lo âu về sự bành trướng của Hồi Giáo, thậm chí xâm chiếm cả nước Tây Ban Nha công giáo, thì nay, ngay trong lòng Kitô giáo bùng nổ nhiều xao xuyến với những hình thức canh tân của Tin Lành, và các luồng tư tưởng Kitô giáo Âu Châu dần dần trở thành nhân bản hoạt động. Trong nhiều phạm vi khác nhau, các ông Erasme, Pic de la Mirandole và Rabelais đã gây nhiều ảnh hưởng về ‘quan niệm thế tục hoá’. Do đó tự do tư tưởng đã dần dà thắng thế và những hình thức sùng đạo quá đáng đã lui bước. Chính trị không còn được quan niệm như một ‘cách thức hoạt động do Thiên Chúa an bài’ nữa. Sự tiến bộ về khoa học và kỹ thuật của thế kỷ XV và XVI với Ambroise Paré, Copernic và Képler hay Galilée thi nhau chứng minh rằng lý trí có khả năng khám phá riêng biệt. Càng có nhiều chân lý tuyệt đối, thì càng có nhiều giả thuyết tương đối. Với Descartes (1596 – 1650), ngay sự hồ nghi cũng trở thành phương pháp khám phá. Các nhà trí thức thế giá của thời đại Ánh Sáng suy nghĩ nhiều về ‘con người nắm vai trò chủ chốt trong công trình kiến tạo văn minh’. Vì thế một hướng đi mới ra đời : Con người phải lăn mình vào lịch sử và tìm cách uốn nắn lịch sử đang đi.
3. Ý niệm về Quốc Gia và quyền công dân
Giữa những đảo lộn do phong trào Phục Hưng gây nên, người ta thấy ngoi lên dần một cuộc cách mạng, trong đó nhà nước muốn dành quyền tối cao, muốn chấm dứt chế độ thần quyền chen lấn và điều khiển thế quyền. Những ý tưởng ‘quyền dân sự’ phải độc lập đối với ‘quyền tôn giáo’ đã được các ông Dante, Marsile de Padoue, Guillaume d’Occam và nhiều luật gia cố vấn của Philippe le Bel ủng hộ. Niềm xác tín này được đào sâu và hệ thống hóa bởi các ông Machiavel, Hobbes và Bodin. Vào cuối thế kỷ XV, quyền dân sự trở nên hiển nhiên đối với Nhà Nước. Người ta đã nhận thức được thế nào là dân chủ, thế nào là tự quyết và thế nào là ‘tranh đấu và bảo thủ quyền bính’. Từ nay quyền dân sự hiện hữu như quyền lực tự quyết (puissance autonome).
Thực ra đường hướng tự do này đã manh nha từ lâu, rõ rệt nhất là từ thời Thẩm Tra (Inquisition) với những người bị thiêu sống như ông Calas (1762), hiệp sĩ vùng Barne (1766) trong thế kỷ Ánh Sáng. Dần dần, những xác tín tự do này chia nuớc Pháp thành hai khuynh hướng đối lập : Khuynh huớng Cách Mạng chủ trương Nền Cộng Hòa thế tục chống giáo sĩ (République laique anticlérical), và khuynh hướng theo Chế Ðộ Cũ gắn liền ngai vua với bàn thờ (en mariage du trône et de l’autel) phò hoàng gia và Giáo Hội.
4. Thời gian khổ ải và việc khám phá lòng bao dung.
Ðối đầu với những chỉ trích của phong trào Canh Tân và với thủy triều bất tín mỗi ngày một lên cao, Giáo Hội Công Giáo đã phản ứng một cách mạnh mẽ với những cấm đoán và đôi khi tàn bạo bằng những vụ thiêu đốt. Chính trong bối cảnh này mà nhiều người hoài bão tinh thần bao dung.
1) Quá lo sợ trước sự khác biệt.
Tòa thẩm tra được thiết lập năm 1231 theo sáng kiến của đức Grégoire IX để chống lại các tà giáo. Toà thẩm tra được tái diễn dưới triều đức Paul IV (1555-1559) hầu trừng trị những người phản đối các tín điều và những thực hành tôn giáo. Sau công đồng Trente (1545-1563) Tòa thẩm tra được tổ chức lại với danh xưng mới là ‘Chống-canh tân’ (Contre Réforme). Nếu một trong những mục tiêu muốn đạt tới là cải biến Giáo Hội, thì phương pháp đã xử dụng lại thu hẹp vào một cuôïc đấu tranh nhiều khi tàn ác chống lại mọi sai lạc về giáo thuyết. Hệ thống cổ xưa của Ptolémée (thếù kỷ II) coi trái đất như là trung tâm bất biến của vũ trụ, còn được dùng để cắt nghĩa thế giới và cấu trúc vật lý của nó. Thiên nhiên bị buộc phải theo các quy luật mà các bản văn tôn giáo áp đặt. Không ai có quyền đặt lại vấn đề các diễn tả thế giới theo Thánh Kinh. Chỉ có một vấn đề cứu độ là quan trọng. Tất cả những người cả gan đăït lại vấn đề phải thề bỏ sự sai lầm (như trường hợp ông Galilée), nếu không sẽ bị thiệt vong. Danh sách những người bị hành hạ vì tội hồ nghi, nghịch đạo (impitié), tư tưởng phóng khoáng rất là dài. Etienne Dolé bị thiêu củi tại Paris (1546), Vanini bị đốt tại Toulouse (1619), Giodarno bị thiêu tại Campo dei Flori, gần Roma, năm 1600 vì chủ trương vũ trụ vật chất là trường cửu và dung chứa một thế giới vô tận. Hiệp sĩ Barre, năm1766, lúc 16 tuổi đã có tinh thần phóng khoáng, đã bị kết án trảm quyết vì tội không bỏ mũ xuống khi có đám rước đi qua và dám chặt nát một cây thánh giá. Về sau người ta dựng một đài kỷ niệm cho hiệp sĩ tại góc đường Nadar, Paris. Nhưng năm 1941, chính phủ Vichy đã phá huỷ đài kỷ niệm, và năm 2001, người ta lại đặt một tượng nhỏ cũng tại góc đường Nadar. Một số người bị tòa án ra lệnh trục xuất, nhất là những người thuộc nhóm Calvin, họ bị đày qua Genève. Ngay Jacques Gruet, xưng mình là người bất tín (incroyant) (1547) và Michel Servet (1553) đều đã bị hành hình. Sau cùng, ông Calas bị hành quyết ở Toulouse (1762)… Tất cả những vụ việc ở trên đều chứng tỏ tính cách ‘bất khoan dung của thời đại.
2) Khoan dung chấp nhận sự khác biệt.
Tính cách đa dạng về tôn giáo mà phong trào Canh Tân áp đặt đòi hỏi việc thiết lập những điều kiện chung sống khả dĩ chấp nhận. Tại Pháp, đó là cái mà sắc chỉ Nantes, thực hiện từ năm 1598 đến 1685. Nhưng đàng sau những giải pháp cụ thể, chúng ta phải quan tâm đến những luồng tư tưởng đi trước : Spinoza đã nhân danh ‘quyền tự do phán đoán của mỗi người’ mà nhận định rằng con người có khả năng tiếp nhận sự cần thiết của một giao ước chính trị, sáng lập ‘Cộng hòa tự do’ biết tôn trọng quyền tự do tư tưởng và phát biểu. Pierre Bayle cương quyết phá đổ tinh thần thuần chất, chính thống nhân danh tính cách tương đối của niềm tin. Locke đã nhân danh tinh thần khoan dung tôn giáo mà dấn thân chiến đấu bên cạnh Voltaire và kêu gọi hủy bỏ mọi kiểu hành nhục. Nhiều nhà biên tập bách khoa làm nổi bật đòi hỏi này.
3) Căn cứ vào quyền lợi
Bản ‘Tuyên ngôn về các quyền lợi của con người và của công dân’ năm 1789 củng cố sự đòi hỏi về tự do luơng tâm. Qua bản Tuyên ngôn, ‘quyền tự nhiên (nature) và quyền chư dân (gens) được nhìn nhận. Ý niệm này được ông Pufendorf (1632-1694) quảng diễn, đã giải phóng quyền lợi tự nhiên mà cho đến bấy giờ vẫn quy chiếu về thần học. Ông Montesquieu chủ trương chỉ quyền lợi (droit) mới đủ sức đánh phủ đầu quyền bính (pouvoir) và vượt lên trên quyền bính của các mệnh lệnh tôn giáo. Còn phải xác nhận rằng mọi người đều bình đẳng về quyền lợi và khi con người nhất trí với nhau, sẽ làm nảy sinh ý chí chung, có sức sáng tạo quyền bính đã lãnh nhận. Và đó là quan điểm của Jean-Jacques Rousseau trình bày trong cuốn ‘Khế ước xã hội’ (Contrat Social).
3. Ðoạn tuyệt vào năm 1789
Cách mạng 1789 không phải là ‘cách mạng chống tôn giáo’. Tuy nhiên nhờ cách mạng, một xã hội và một quan niệm mới về quyền bính đã được khai sinh với những nguyên tắc hoàn toàn mới mẻ.
1) Thế tục (laicité) là nền tảng của quyền bính.
Khỏan 3 của bản tuyên ngôn khẳng định rằng : « Nguyên tắc của mọi quyền tối cao chính yếu nằm trong chủ quyền quốc gia ». Bản tuyên ngôn về ‘Nhân Quyền và Quyền Công Dân’ được biểu quyết ngày 26. 08. 1789 tạo nên mối giao ước giữa quyền nhà vua và quyền của Giáo Hội và do đó đã biến Nước Pháp của Chế Ðộ Cũ thành một Nhà nước tuyên tín (état confessionnel). Nguyên tắc về hợp pháp tính của quyền bính, được xây trên sự an bài thần linh của hoàng gia không còn hợp thời nữa. Từ nay quyền bính đặt trên nền tảng lý trí. Ðạo Công Giáo không còn là quốc giáo nữa, và mọi người được hưởng quyền tự do lương tâm: ‘Tưï do và bình đẳng về quyền lợi’. Năm 1792, người ta đã ban hành một cuốn lịch mới. Khi thành lập các đơn vị hành chánh mới với những tên gọi mới, người ta loại bỏ các danh xưng có màu sắc tôn giáo.
Việc thế tục hoá nền tảng quyền bính không đưa ngay đến việc tách biệt Giáo Hội và Quốc Gia. Những nhà cách mạng bấy giờ muốn Giáo Hội Công Giáo Pháp độc lập đối với Toà Thánh hơn là tách biệt ra khỏi Quốc Gia. Hiến Pháp dân sự của hàng giáo sĩ đòi hỏi các linh mục phải thề theo Hiến Pháp đã nối dài truyền thống cổ xưa của chế độ quân chủ là ‘duy trì giáo hội pháp độc lập’ (L’église gallicane). Ngoài ra Giáo Hội Công Giáo từ nay mất ‘tính cách độc quyền’ như đã từng có ở Chế Ðộ Cũ, mà phải chung sống và bình đẳng quyền lợi với các tôn giáo khác. Chính sự đối lập của giáo sĩ ngoan cố, rồi cuộc nổi loạn ở Vendée đã dẫn đến việc ‘tách biệt đầu tiên giữa Nhà Nước với các Giáo Hội’ năm 1795.
2) Thế tục hóa quy chế dân sự.
Dưới Chế Ðộ Cũ, đạo Công Giáo có quyền quán xuyến các giấy tờ tương quan đến đời sống dân sự của một người dân, từ lúc sinh ra đến lúc tạ thế. Kể từ khi áp dụng sắc lệnh Nantes (1598) cũng gọi là sắc lệnh bao dung (édit de tolérance) (1787), quyền này đã bị cắt xén đi dần dần, đặc biệt với những người không công giáo. Tuy nhiên quan điểm cho rằng phần lớn các chứng thư dân sự, đặc biệt về hôn phối, tương quan đến các bí tích, lại cản ngăn việc thế tục hoá đời sống dân sự. Hiến Pháp 1791 chấm dứt tình trạng cụ thể này. Từø nay hôn phối được coi như một khế ước dân sự. Ít lâu sau, sắc lệnh tháng 8. 1792 dành quyền cử hành hôn phối cho nhân viên hành chánh cấp xã, và do đó, xã có quyền riêng đón nhận và bảo quản các giấy tờ về khai sinh, hôn phối và khai tử. Một khi đã thành một khế ước dân sự đơn thuần, hôn phối mất đi tính cách bất khả phân ly và việc ly dị được nhìn nhận (1792).
3) Thế tục hóa việc giảng dạy.
Dưới ảnh hưởng của Condorcet, người ta bắt đầu tìm cách đưa việc giảng dạy ở trường học ra khỏi ảnh huởng của Giáo Hội. Ông đề nghị “không chấp nhận dạy giáo lý của các tôn giáo trong các trường công”. Năm 1793 các trường học của Giáo Hội bị cắt hết nguồn lợi, nhân sự chỉ dành cho các giáo sĩ tuyên thệ theo cách mạng. Vào năm 1793, các dòng tu bị cấm mở trường dạy học. Niên khóa 1976, theo sự thúc đẩy của Joseph Lakanal, nhà nước bắt đầu mở các trường tỉnh. Tuy nhiên, bên cạnh trường công nhà nước vẫn để cho các trường tư hoạt động và phát triển theo Quy Chế (1795-1799).
4. Napoléon đã giảng hòa bằng chế độ Hòa Ước:
Việc Ðức Giáo Hoàng phủ nhận Hiến Chế dân sự của giáo sĩ và chiến tranh ở Vendée đã dẫn tới sự đoạn tuyệt giữa cách mạng và Giáo Hội Công Giáo. Nhưng Napolén đã giảng hòa đôi bên bằng chế độ Hòa Ước.
1) Chủ yếu của việc điều đình.
Sau vụ đảo chính 18.11.1799, Napoléon Bonaparte lên nắm chính quyền nhờ phong trào phục hưng chịu ảnh hưởng của Giáo Hội. Lợi dụng lực lượng của đối phương, Napoléon tìm cách dùng Giáo Hội như một khí cụ củng cố quyền hành. Vừa không muốn để chế độ cũ nắm quyền, vừa không để Giáo Hội phải chịu quyền Nhà Nước, Napoléon muốn các cuộc điều đình phải giải quyết cho được ba vấn đề: Quy chế của Giáo Hội Công Giáo, chỗ đứng của các giám mục tại chức, tài sản của quốc gia. Về vấn đề thứ nhất, giải pháp là ‘Giáo Hội Công Giáo được nhìn nhận là tôn giáo của đa số dân chúng’; Về các giám mục tại chức, dù đã tuyên thệ hay còn chống cách mạng, đều phải từ chức rồi Bonaparle bổ nhiệm lại; giải pháp thứ ba là ‘Ðức Giáo Hoàng không đòi lại nữa những tài sản giáo hội đã thành tài sản quốc gia’. Thay vì nhận một tỉ bạc tiền bồi thường, Giáo Hội đề nghị Nhà nước phải lo trả lương cho các linh mục.
2) Nội dung của bản văn.
Nền hiệp nhất của Giáo Hội Công Giáo Pháp được tái lập và kinh nghiệm cách mạng bị gạt bỏ. Các giám mục mới được bổ nhiệm bởi Thủ Tướng (Premier Consul) và được Ðức Giáo Hoàng chấp nhận theo giáo luật. Giáo Hội nhìn nhận quyền tối cao của Quốc gia và bảo chứng những tiến triển cơ bản trong bộ Dân Luật. Các linh mục cũng phải được Nhà Nước bổ nhiệm theo sự đề nghị của giám mục truyền chức. Các thừa tác viên được Nhà Nước trả lương và các xứ đạo trở thành cơ sở công cộng. Ngoài ra, Giáo Hội Công Giáo phải hứng chịu nhiều hy sinh đã được cài vào trong các khoản của Hoà Ước và còn chua thêm trong các văn kiện điều đình. Những sự kiện này đã khiến Giáo Hội trở thành khí cụ của quyền bính và vinh quang của Napoléon. Tuy nhiên Giáo Hội Công Giáo cũng phục hồi nhiều quyền lợi. Chỉ có một điều mà Giáo Hội Công Giáo phải ép buộc chấp nhận, là cộng tác với các ‘nhóm tôn giáo khác’. Họ cũng được nhìn nhận bởi luật pháp và được tổ chức thành Giáo Hội Calvin, Luther, Do Thái.
3) Những cái nhìn khác nhau
Mặc dầu đã mất một thời gian lâu dài để điều đình và phải nhiều đắn đo mới được phê nhận, Hòa Ước quy định những tương quan giữa Giáo Hội Công giáo và Nhà Nước chỉ áp dụng từ 1905. Giáo Hội xét theo là một tổ chức có tài sản lớn lao đã thành quá thời, đồng thời mơ ước của cách mạng muốn thiết lập lại nền tôn giáo cũng vụt tắt. Ngày nay, Hòa Ước còn được áp dụng trong các vùng Alsace, Moselle và Luxembourg. Mặc dầu được áp dụng lâu dài, Hòa Ước bị một số người đối lập trung thành với lý tưởng cách mạng 1789, coi như một bản văn phản bội các nạn nhân chiến tranh Vendée và ngược lại, những nhóm bảo hoàng cực đoan coi Hòa Ước như một văn bản đầu hàng.
5. Phản ứng của giáo sĩ.
Việc phục hưng của nhà Bourbons năm 1815, tạo nên một tinh thần ‘phục thù tôn giáo’. Cho dù Hòa Ước không bị phản bác, trở thành một giao ước mới giữa Chế Ðộ và Giáo Hội.
1) Từ tinh thần cực đoan đến Trật tự luân lý.
Louis XVIII, con người dung hòa, đã mong ước không làm ‘vua của hai dân tộc’. Nhưng những người ‘quân chủ cực đoan’ mà đứng đầu là Charles X (anh của vua) lại muốn phá tan tành những gì là tiêu biểu cho gia tài cách mạng. Chí hướng phục thù này mang màu sắc một chủ thuyết ‘giáo sĩ chiến đấu’ (cléricarisme de combat) theo tinh thần của Félicité de Lamennais được trình bày rõ ràng trong cuốn ‘Tiểu luận về sự dửng dưng tôn giáo’ (Essai sur l’indifférence en matière religieuse) (1817-1843). Tính cách hợp pháp của uy quyền nhà vua lại một lần nữa dựa trên uy quyền thần linh. Charles X được tấn phong tại Reims một cách trang trọng theo nghi lễ cổ điển của Chế Ðộ Cũ. Nhiều khỏan luật được ban hành cho thấy bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi một ý thức hệ chống cách mạng và phục hồi những quyền lợi tiêu biểu nhất của các chế độ cũ. Chẳng hạn luật ‘trả một tỷ đồng’ (milliard des émigrés) cho các đại chủ ông trước kia, mà không nói gì đến việc hoàn trả lại các tài sản quốc gia. Cũng vậy, luật về các hội dòng nữ. Cách mạng 1830 không thể cản ngăn cuộc tấn công của giáo sĩ. Trái lại, nhờ thế lực của Louis-Philippe I, phong trào giáo sĩ mỗi ngày một tỏ rõ thái độ bảo thủ và chống cách mạng. Phải nhận rằng, dưới thời của Ðức Piô IX, Giáo Hội khép mình trong thái độ ‘chống tân thời thuyết’ (antimodermisme) cách triệt để. Tiêu biểu cho thái độ này là văn kiện Syllabus (1864).
2) Những kẽ hở của Hòa Ước.
Không đủ khả năng tố cáo Hòa Ước của Napoléon, các chế độ về sau tìm kiếm những kẽ hở hay tìm cách bóp méo những sơ hở của Hòa Ước. Người ta thường nêu lên những kẽ hở sau đây: - Trong khi đòi hỏi tự do tôn giáo, hiêÙn chương 1814 lại tái thiết Giáo Hội Công Giáo như một tôn giáo quốc gia. - Hòa Ước không áp dụng cho các linh mục dòng hay cho các tu hội. Sự yên lặng này được lợi dụng tối đa cho việc khuếch trương các dòng tu. - Chính trong phạm vi giáo dục mà các phản ứng của giáo sĩ mới bộc lộ cách dữ dội. Nếu việc độc quyền đại học mà Bonaparte đã chỉnh đốn, thì trên nền tảng không bị tố cáo, nhưng cũng phải chịu nhiều sửa đổi, như luật 1875 cho giáo sĩ có quyền giảng dạy, luật 1824 đòi các giáo viên phải có chứng chỉ về môn học tôn giáo, luật 1933 nhìn nhận chỉ Giáo Hội và Nhà Nước mới là những thế lực hữu hiệu trong việc giảng dạy, việc dạy ở trường công trở thành phổ thông, dạy luân lý và tôn giáo là môn bó buộc, giáo sĩ buộc phải có bằng cấp nhưng không lệ thuộc Nhà Nước. Luật Falloux được biểu quyết năm 1850 đã củng cố vai trò giảng dạy của Giáo Hội, theo đó, Giáo Hội có ảnh hưởng trên việc giảng dạy ở trường công và được tự do mở các trường tư.
IV. Mục tiêu của ‘chủ trương thế tục’.
1. Tự nó, thế tục hóa là chống giáo sĩ.
Ðối phó với những phản ứng của giáo sĩ và những kẽ hở của Hòa Ước, ‘cuộc chiến thế tục hóa’ thay đổi mục tiêu: Giáo Hội chiến thắng trở thành một thù địch mà ‘thế tục’ muốn đánh cho bại lụi về tư tưởng cũng như trong mọi hành động.
1) Hai Nuớc Pháp
Ðối diện với Giáo Hội Công Giáo có bề thế vững vàng, người ta họa ra một thế giới được tẩy sạch mọi dấu vết tôn giáo. Dưới triều đại Ðức Grégoire XVI (1831-1846) và đức Pie IX (1846-1878), Giáo Hội, tại Pháp đã bị tẩy xóa bởi Louis Veuillot trong tờ báo L’Univers của ông, lại tỏ ra không kham nổi thế giới tân tiến. Ngược lại, thế giới này cứ âm thầm triển nở với những khám phá mới và nêu bật quyền tự quyết cá nhân. Vì thế, ‘chống giáo sĩ’ là câu trả lời tự nhiên và cần thiết cho những ai tiếp tục tin vào ‘tư tưởng mới mẻ này’ như một sự tiến bộ và những ai muốn dành quyền ưu thắng chính trị cho sự nghiệp Cách Mạng Pháp vào đầu kỷ nguyên mới. Những người theo thuyết thần đạo, các triết gia vào đầu thế kỷ XIX có khuynh hướng chống giáo sĩ dần dần trở thành quá khích và đôi khi trở thành vô thần. Như đối với Proudhon ‘Thiên Chúa là sự dữ’ (Dieu est le mal). Lamenais, quay về với những điều ông đoan ước trước kia, lớn tiếng đòi phải tách rời Giáo Hội với Nhà Nước và giải tán hàng giáo sĩ. Bản dịch cuốn ‘Nguồn gốc các loài vật của Darwin’ (L’Origine des espèces de Darwin) đã gây nên tiếng vang ‘muốn đặt lại vấn đề về các phép lạ ở Lộ Ðức’. Một thuyết chống giáo sĩ của giới trí thức khai mào từ các ghế giảng dạy ở đại học và ở trường cao học Pháp với Jules Michelet hay Edgar Quinet. Họ chê bai những cách thức chống giáo sĩ của giới bình dân và hung hăng chống lại các nhân vật đại diện Giáo Hội.
2) Những chủ đề mà những người chống giáo sĩ quen xử dụng.
Giáo Hội không gây dựng một xã hội giống như các xã hội khác. Chỉ biết tuân theo các quy luật và tín điều riêng của mình, Giáo Hội chỉ tuân hành các luật lệ chung không trái ngược với quy luật của Giáo Hội. Những chỉ trích mạnh mẽ nhất đều chĩa mũi dùi vào quy chế giáo sĩ. Các dòng tu, mà đặc biệt là dòng Tên, cũng bị chỉ trích. Người chỉ trích táo bạo nhất là Béranger, nhà thơ trào phúng. Giáo sĩ bị tố cáo là lũng đoạn Quốc Gia đe dọa nền thống nhất và độc lập của Dân Tộc Pháp. Người ta cũng phiền trách Giáo Hội giảng dạy một thứ ‘luân lý lụy phục’ (une morale de soumission), khiến các giáo sĩ sợ sệt không dám vượt qua lằn ranh bó buộc. Sự hiệp nhất của gia đình, tương lai của giới trẻ bị ứ đọng dưới ảnh hưởng của Giáo Hội. Ngay từ đầu thế kỷ, người ta đã rêu rao công thức : Phải đòi cho được việc tách rời Giáo Hội khỏi Nhà Nước. Nhà chính trị và văn sĩ Benjamin Constant (1767-1830) khôn khéo tuyên truyền tư tưởng này . Còn Edgar Quinet dựa trên công thức trên để đòi hỏi mở trường học thế tục (école laique).
Phong trào chống giáo sĩ thành hình mau chóng. Suốt thế kỷ XIX người ta dùng báo chí để bày tỏ lập trường. Sống dài vắn khác nhau, những tờ báo sau đây được coi là những cái loa to miệng và có nhiều cây bút nổi tiếng đóng góp : La Trbune, Le Globe, Liberté de Penser, La Presse, Le Siècle et l’Avenir. Những nhân vật tiêu biểu của phong trào là Émile Girandin, Eugène Pelletin, Victor Hugo, Béranger…
2. Song song với việc chống giáo sĩ là ‘quốc hữu hóa và thế tục hóa học đường’
1) Một hệ thống học đường bó buộc, miễn phí và thế tục.
Nếu Gambetta là người đầu tiên dành ưu thế cho nền cộng hòa, thì Jules Ferry mới là người trung kiên kiến tạo nền tảng cho hệ thống giáo dục tại Pháp kể từ 1879. Mọi cấp bậc giảng dạy đều được quan tâm tới. Trong cấp bậc cao đẳng thì luật 18.03.1880 cấm chỉ các trường tư mang danh xưng đại học. Quốc Gia độc quyền cấp bằng đại học. Trong cấp trung học, thì luật 21.12.1880 thiết lập trường học cho thanh nữ. Ông Jules Ferry lại quan tâm nhiều hơn đến cấp tiểu học vì đây là cấp giảng dạy giúp cho mọi người hết mù chữ, thành người công dân tốt. Vì thế luật 16.06.1881 bắt đầu các lớp tiểu học miễn phí và luật 28.03.1882 buộc phải cho các trẻ em đi học. Tiếp đến là thế tục hóa các trường học bằng việc bỏ dạy giáo lý. Sau cùng luật 30. 08.1886, bắt buộc ban giáo sư của trường công chỉ là những người thế tục chứ không chấp nhận bóng dáng các linh mục hay tu sĩ.
2) Thế tục hoá quy chế nhân sự và đời sống xã hội.
Việc thế tục hóa mở rộng qua các phạm vi khác của đời sống xã hội. Luật cho vợ chồng li dị một thời đã bị bãi bỏ (1816) đến năm 1884 được tái lập lại. Về việc ma chay thì luật 1881 bỏ việc phải đăng ký người quá cố thuộc tôn giáo nào, và luật 1887 cho hoàn toàn tự do tổ chức ma chay. Trong các bệnh viện các y tá đời dần dần thay thế các tu sĩ y tá. Ðồng thời quyền tự do phụng tự (liberté de culte) được khẳng định lại bởi luật năm 1901. Luật này cũng cho phép tự do lập các hội đoàn. Riêng các dòng tu, trước kia Hòa Ước không đả động đến, nhưng nay buộc phải theo quy chế các hội đoàn.
3) Dẫn tới việc tách rời Giáo Hội và Nhà Nước.
Ông Jules Ferry cũng như những người theo khuynh hướng cộng hòa trung dung không muốn có sự tách rời Giáo Hội với Nhà Nước. Theo họ cần phải phổ thông hóa hệ thống giảng dạy thế tục hầu thay đổi não trạng hầu thoát khỏi chế độ hòa ước. Ngược lại, những chiến sĩ tự do tư tưởng đòi hỏi phải mau chóng và dứt khoát tách Giáo Hội ra khỏi Nhà Nước. Dĩ nhiên Giáo Hội Công Giáo cương quyết đối lập với việc thế tục hóa học đường, Vatican chống lại việc áp dụng luật 1901 vào các dòng tu. Cả hai thái độ trên đây dẫn tới một hậu quả không thể tránh được là ‘sự tách rời’. Dự luật do chính phủ Combes soạn thảo và được Quốc Hội biểu quyết dưới thời chính phủ Rouvier, ngày 9.12.1905. Aristide Briand trình bày dự luật và Jean Jaurès trình bày một bản văn khắc phục những người công giáo dung hòa chấp nhận. Khỏan một của luật 1905 là «Nước Cộng Hòa không nhìn nhận, không trả lương, không trợ cấp cho một tôn giáo nào » (La République ne reconnait, ni salarie, ni subventionne aucun culte).
V. ‘Thế tục’ thành tựu nhưng không trọn vẹn.
1. Ðược hiến pháp nhìn nhận.
Hậu quả của việc nhận chìm thuyết nhân bản và các nguyên tắc cộng hòa trong chế độ Vichy là hiến pháp phải nhìn nhận nguyên tắc thế tục hóa.
1) Hiến pháp 1946
Trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền được dùng làm lời mở đầu cho bản thảo đầu tiên của Hiến Pháp, thì tính cách thế tục của quyền bính, của trường công và sự tách biệt giữa Giáo Hội và Nhà Nước đã được nhắc đến cách rõ ràng. Những yếu tố này tạo nên một bảo đảm chính yếu về tự do lương tâm và tự do tín ngưỡng. Thế tục trở thành một phương thế phục vụ con người tự do. Công dụng đầu tiên của việc thế tục hóa là ‘tư nhân hoá’ (privatisation) niềm tin được trình bày trong luật 1905, nay được đánh bóng lại. Bản thảo này bị khước từ bởi một cuộc trưng cầu dân ý. Bản văn cuối cùng của Hiến Pháp, ra ngày 27.10.1946, được quy chiếu với quan điểm thế tục hóa đã nêu lên trước kia qua nhiều lần và nhiều cách khác nhau. Sau khi nhắc lại, trong đoạn mở đầu, việc cấm chỉ mọi phỉ báng (discrimation) về tôn giáo và xác định rõ rằng ‘việc tổ chức các trường công miễn phí và thế tục trong mọi cấp bậc là một bổn phận của Quốc Gia’, Hiến Pháp khẳng định trong khoản I rằng : «Nước Pháp là một Nước Cộng hòa không thể phân chia, thế tục, dân chủ và xã hội’. Bản văn mẫu trang trọng này, tuy được biểu quyết chấp nhận hầu như đồng loạt toàn bộ, không dấu hết những điểm lu mờ. Ðối với một số người, bản văn mẫu bị thu khép vào một sự trung lập cần thiết của Nhà Nước. Ðối với nhiều người khác, nó lại kéo dài luật 1905 về sự tách biệt Giáo Hội với Nhà Nước. Lịch sử của đệ tứ và đệ ngũ Cộng Hòa phải công nhận rằng sự cổ võ đường lối thế tục trong hiến pháp không chấm dứt những vụ tranh luận, đặc biệt về vấn đề thiếu hụt tài chánh trong các trường công.
2) Lập trường của Giáo Hội và của đảng Dân Chủ Kitô.
Năm 1945, khi chấp nhận tính cách thế tục, Giáo Hội Công Giáo nhấn mạnh rằng : ‘tính cách thế tục không thể được quan niệm như là thiện ý của Nhà Nước không muốn quy phục một trật luân lý cao siêu nào’. Ông Maurice Schumann, đại diện cho đảng Dân Chủ Kitô (Parti Démocrate-Chrétien) xác định lập trường : «Chừng nào quốc gia còn bao gồm những người không cùng một tín ngưỡng, thì Nhà Nước có bổn phận để cho mỗi công dân sống đúng những đòi hỏi của lương tâm»
3) Hiến pháp 1958.
Về việc công nhận tính cách thế tục, hiến pháp của đệ ngũ Cộng Hòa củng cố rộng rãi bản văn 1946. Trong phần mở đầu Hiến Pháp tuyên bố sự gắn bó của nhân dân Pháp vào những quyền lợi đã được minh định trong bản Tuyên ngôn 1789 và trong phần mở đầu của Hiến Pháp 1946, làm cho hai bản văn này thêm uy tín. Ðàng khác, Khoản thứ nhất lấy lại công thức đã có trong Hiến Pháp 1946, và xác định thêm rằng : «Nước Cộng Hòa bảo đảm sự bình đẳng trước pháp luật của người công dân, không phân biệt nguồn gốc, chủng tộc hay tôn giáo. Nước Cộng Hòa kính trọng mọi tín ngưỡng ». Mặc dầu lời văn rõ ràng, nhưng vì thiếu định nghĩa minh bạch về ý niệm thế tục, nên mỗi người hiểu một cách theo ý mình và người ta tự hỏi đâu là mức độ bó buộc theo pháp lý. Hội Ðồng Quốc Gia (Conseil d’État) nhiều lần đã quy chiếu về thế tục tính trong các sắc lệnh và văn kiện chính thức đặc biệt trong vụ ‘khăn trùm hồi giáo’. Trái lại Hội Ðồng Hiến Pháp (Conseil Constitutionnel), cho tới bây giờ vẫn giữ thái độ khôn ngoan bằng cách tựa trên những quan niệm truyền thống hơn, như quan niệm về bình đẳng. Thái độ dè dặt thái quá này biểu lộ đặc biệt khi cứu xét giá trị hiến pháp của những đề nghị pháp luật cho phép các địa phương trợ cấp các trường tư (13.01.1994).
2. Thế tục hóa học đường
1) Ðặc điểm của trường công
‘Trường học phải thoát ra khỏi ảnh hưởng tôn giáo’, đó là đòi hỏi lâu dài và dai dẳng từ luật Condorcet thời Cách Mạng cho đến các luật của Jules Ferry (1881-1882-1886) và lời mở đầu của Hiến Pháp 1946. Việc giáo dục học đường phải bó buộc, miễn phí, theo một chương trình hoàn toàn trung lập, và giáo viên, giáo sư không phải là linh mục hay tu sĩ của một tôn giáo nào.
2) Nhà Nước không thể độc quyền và trường tư mỗi ngày một mở rộng.
Vào giữa thế kỷ XIX, các đại diện công giáo bảo thủ quá khích (ultramontain) đã nhân danh quyền tự do đòi điều chỉnh lại ‘tính cách độc quyền về đại học theo luật Napoléon’. Trong khi đó, Nhà Nước lại tìm cách lấy lại ‘các phần đất học đường mà các dòng tu còn chiếm giữ’. Cuộc chiến về học đường lại bùng nổ, đặïc biệt dưới thời ‘soạn thảo luật 1901 về sự tự do lập hội đoàn’. Sau đệ nhị thế chiến, vấn đề tự do giảng dạy lại trở thành vấn đề Nhà Nước phải yểm trợ tài chánh cho các trường tư. Dưới ảnh hưởng của đảng Dân Chủ Kitô, Nhà Nước phải giúp đỡ các gia đình khó khăn về tài chánh, và bắt đầu hệ thống khế ước (système contactuel) học đường. Nhưng mãi tới thời ông Debré, một hòa ước học đường mới thực sự được ban hành ngày31.12.1959. Ba giải pháp đã được đề nghị cho các trường tư : hoặc theo quy chế khế ước, hoặc theo quy chế 1905 về các hội đoàn và Nhà Nước chỉ theo dõi chương trình học, hoặc Nhà Nước trợ cấp các phí tổn điều hành. Năm 1984, thời tổng thống xã hội Francois Mitterand, muốn tăng cường và mở rộng tính cách thế tục bằng cách thu hẹp trường tư và biến nền giáo dục thành ‘một đại công vụ’ (un grand service public), nhưng thất bại. Qua năm 1993. Nhà Nước lại lấy quỹ công đầu tư vào trường học.
3) Vấn đề dạy tôn giáo.
Trung thành với nguyên tắc trung lập, luật 28. 03. 1882 loại việc dạy tôn giáo ra khỏi chương trình tiểu học. Nhưng có thể dạy tôn giáo ở ngoài khuôn viên trường công. Riêng cấp trung học lại theo một quy chế mềm dẻo, là được thiết lập văn phòng tuyên úy để đảm nhiệm việc giảng dạy giáo lý. Ngày nay trong bối cảnh lịch sử và văn hoá, việc dạy tôn giáo lại trở thành vấn đề ‘phải có’ trong các trường công. Những người cố thủ tính cách thế tục chỉ muốn coi việc dạy tôn giáo như một ‘hình thức nhập đề của các môn lịch sử, triết học và nhân văn… thôi. Cụ thể, báo La Croix ngày 26.09.2008, cho biết : theo kết quả điều tra của ông Debray năm 2002, thì 1) 70% học sinh tuyên bố ‘đã học biết về một hay nhiều tôn giáo tại học đường’ (trong số đó, 76% học sinh đã thuộc về một tôn giáo) . 2) 68% học sinh quả quyết :‘nhờ học biết về nhiều tôn giáo nên các em thấy dễ dàng sống chung với nhau’ (trong số này, 74% các em đã thuộc về một tôn giáo).
3. Tách rời các Giáo Hội khỏi Nhà Nước.
Nếu luật Jules Ferry đã là khí cụ thế tục hĩa xã hội pháp, thì cho dù không dùng chính từ ‘thế tục’, luật Jules Ferry đã tạo nên một nền móng kiên cố xây dựng tinh thần thế tục của Nhà Nước.
1) Một bản văn đòi buộc do hoàn cảnh.
Buổi đầu, việc chấm dứt hệ thống hòa ước và nhìn nhận việc phụng tự công giáo và việc phụng tự của ba tôn giáo khác (tin lành, do thái, hồi giáo) là chuyện đòi buộc do hoàn cảnh, nhất là do thái độ căng thẳng ấm ức của công giáo. Chuẩn bị bởi Combes, thích ứng bởi Briand, bảo vệ bởi Jaurès, luật 1905 được đa số nghị viên biểu quyết. Luật đặt ra hai nguyên tắc : Một đàng nó khẳng định quyền tự do lương tâm và tự do phụng tự. Ðàng khác, nó gióng lên tiếng chuông báo tử của hệ thống hòa ước bằng câu : ‘Nước Cộng Hòa không nhìn nhận, không trả lương, không trợ giúp một tôn giáo nào’. Từ nay không còn một phụng tự nào được nhìn nhận, không còn quỹ dành cho việc phụng tự . Sinh hoạt tôn giáo không còn mang tính cách ‘công vụ’ (service public) mà chỉ là ‘sinh họat tư nhân thuần túy’ (activités purement privées) và buộc phải tôn trọng trật tự công cộng. Tuy nhiên các giáo hội còn giữ những nơi thờ tự. Và chính quyền yêu cầu các giáo hội thành lập các ‘hội đoàn phụng tự’ (Associations cultuelles) để quản lý các động sản (biens mobiliers). Giáo Hội Công Giáo phản đối cực lực việc thiết lập các hội này cũng như những việc kiểm kê để xác định những tài sản mà các hội đoàn có quyền quản lý.
2) Những dàn xếp hòa dịu.
Mặc dầu ‘Nhà Nước không nhìn nhận một tôn giáo nào’, trong việc áp dụng luật 1905 cũng đã có nhiều ‘dàn xếp êm đẹp’ : Giáo Hội và Nhà Nước vẫn có những liên hệ ‘bên lề pháp luật’ (en marge de la loi); dùng công quỹ để thiết lập các sở tuyên úy (học đường, quân đội…), năm 1920, chính Nhà Nước đã công khai nhìn nhận sự hy sinh của nhiều người Hồi Giáo trong Ðại Chiến thứ nhất, rồi Nhà Nước và Thành phố Paris đã yểm trợ xây một đền thờ lớn (Mosquée) ngay tại Paris; Từ 1983, trong ‘Uỷ Ban Quốc Gia Về Luân Lý’ (Comité National d’Éthique) luôn có đại diện sáng giá của các tôn giáo; Từ năm 1986, đài truyền hình 2 của Nhà Nước có ‘chương trình về các tôn giáo’. Từ năm 1987, Nhà Nước lại giảm thuế cho những người giúp tiền hay để tài sản lại cho Giáo Hội.
3) Có những miền không áp dụng ‘Luật tách rời Giáo Hội với Nhà Nước’.
Ðó là vùng Alsace và Moselle. Bị nước Ðức thôn tính năm 1871, quy chế phụng tự xác định trong Hòa Ước 1801 vẫn được duy trì. Qua năm 1919, khi nước Pháp lấy lại hai vùng này, Nghị Viện (Chambre) đã quyết định ‘Tạm giữ tình trạng cũ (statu quo) cho đến khi áp dụng các luật lệ của Pháp’. Qua năm 1924, nghị sĩ Cartel thuộc các đảng thiên tả trúng cử và hứa sẽ thay đổi thể chế, nhưng trước sự chống đối của dân chúng do giáo sĩ các tôn giáo thúc đẩy, ‘luật tạm thời trên đã thành luật cố định’. Năm1925, Hội Ðồng Quốc Gia (Conseil d’Eùtat) đã hợp pháp hóa sự lựa chọn chính trị của dân chúng hai vùng Alsace và Moselle. Ba giáo hội trong hai vùng được hưởng nhiều quyền lợi. Cụ thể là giám mục Strasbourg và Metz được bổ nhiệm bởi Tổng Thống sau khi thảo luận với Roma, các ngài được Nhà Nước trả lương trực tiếp cho dù các ngài không phải là công chức. Hơn thế, các trường học không ‘chịu hệ thống thế tục’, vẫn được dạy tôn giáo theo Hòa Ước 1801.
Ông Gambetta đã tuyên bố : «Chủ thuyết chống giáo sĩ không phải là món hàng xuất cảng» (L’anticléricalisme n’est pas un article d’exportation). Câu nói này cắt nghĩa việc xử dụng tôn giáo trong chính trị thuộc địa của Pháp. Tại Guyane, vẫn tiếp tục áp dụng sắc lệnh Charles X, ra 27.08.1827, và chỉ mình Ðạo Công Giáo được nhìn nhận thôi. Tại Mayotte, đa số dân là hồi giáo, nên quận trưởng (Préfet) bổ nhiệm chức sắc hồi giáo (mufti) và luật hồi giáo được coi như chính thức (officiel). Tại Saint-Pierre-et-Miquelon, Nouvelle-Calédonie và Polynésie vẫn tiếp tục áp dụng sắc lệnh Mandel ra ngày 16.01.1939, là thiết lập các Hội Ðồng Quản trị (Conseils d’Administration) để đại diện cho tôn giáo của họ trong các giấy tờ hành chánh và để quản lý tài sản riêng của tôn giáo. Tại các Ðất Hải Ngoại (territoires d’outre–mer), hành chánh địa phương ïcó quyền yểm trợ các thánh đường và cả các nhà xứ.
4. Những tổ chức thế tục.
Rất sớm, các chiến sĩ thế tục cảm thấy phải đoàn ngũ hóa để vừa bênh vực những xác tín của họ, vừa đòi hỏi áp dụng nghiêm chỉnh ‘những vụ việc liên quan đến thế tục’.
1) Hội Tam Ðiểm : thế tục tham vọng.
Thừa hưởng thuyết thần đạo và tư tưởng tự do, hội Tam Ðiểm ngay từ đầu, tức từ thế kỷ XVIII, đã nổi tiếng là thù nghịch với tôn giáo mạc khải. Theo bản Hiến Chương được soạn thảo bởi Anderson và được chấp nhận năm 1723, các thành viên tam điểm ‘chỉ qui phục một tôn giáo được mọi người nhất trí, là để cho mỗi người sống theo những quan điểm riêng của mình’. Tham vọng cách mạng này được Trung Ương Tam Ðiểm Pháp (Le grand Orient de France) xử dụng lại như một ‘thụ quyền chính yếu’ (principale obédience) của Tam Ðiểm Pháp. Năm 1877, Tam Ðiểm Pháp khẳng định rằng : các thành viên từ nay chấp nhận nguyên tắc tự do lương tâm tuyệt đối (la liberté absolue de conscience). Không cấm tin tưởng và Thiên Chúa, vì đó là chuyện cá nhân, nhưng cấm tuyên truyền. Phần lớn những người hoạt động cho nguyên tắc thế tục đều gia nhập Tam Ðiểm.
2) Hai Liên Minh lớn.
Thứ nhất là Liên Minh Giáo Chức do Macé có sáng kiến thành lập trước đây 135 năm, đã được coi như một nguồn nhân lực và tư tưởng tranh đấu cho ‘tinh thần thế tục’ trong quá khứ, thì từ nay lại được coi như một tổ chức đầu não huấn luyện công dân sống tinh thần thế tục, mà cốt yếu là ‘tinh thần phê phán’ và tự do lương tâm. Thứ hai là Liên Minh Nhân Quyền do thượng nghị sĩ Trarieux thành lập năm 1898. Liên Minh này dồn hết sinh lực vào việc bảo vệ ‘tự do lương tâm’.
3) Ủy ban quốc gia ‘Hành động thế tục’
Trong việc tái lập luật pháp nền cộng hòa sau Ðệ Nhị Thế Chiến, nhữõng người chủ trương ‘thế tục’ coi đây là thời điểm thuận lợi trở lại với công trình của Ðệ Tam Cộng Hòa. Như đã nói, sau Ðệ Nhị Thế Chiến, để bảo vệ trường công và chống việc yểm trợ tài chánh cho các trường tư, nhiều liên minh giáo chức ra đời: Nghiệp đoàn quốc gia các giáo viên (SNI: Syndicat National des Instituteurs), Liên Ðoàn Giáo Dục Quốc Gia (FEN, Fédération de l’Education Nationale), Liên Ðoàn các Hội Ðồng Phụ Huynh học sinh các Trường Công (FCPE, Fédération des Conseils des Parents d’élèves des Écoles publique). Các tổ chức này họp thành Ủy Ban Quốc Gia về Hành Ðộng Thế Tục (CNAL, Comité National d’Action Lai¨que) để chống lại luật Debré 1960. Họ đã làm một thư thỉnh nguyện với 11 triệu chữ ký. Nhưng không thành công. Ðến năm 1984, với phương án ‘Ðại Công Vụ Thống Nhất’ (grand service public unifié) của Savary, dưới thời tổng thống Francois Mitterand cũng thất bại.
4) Trăm hoa đua nở ‘các hội đoàn’.
Bên cạnh những tổ chức có tính cách triết học và các hội đoàn đã có pháp tính lịch sử, còn thêm cả ngàn hội đoàn khác quy tụ các ‘chiến sĩ thế tục’. Nổi bật nhất là: Hội các nhà duy lý (Union des Rationalistes) thành lập 1930 với tờ báo ‘Cahiers rationalistes’, hội Tự Do - Tư Tưởng (Libre-Pensée) với tờ ‘La Raison’, Trung Tâm Hoạt Ðộng Âu Châu Dân Chủ và Thế Tục (Centre d’Action Européenne Démocratique et Laique) với tờ ‘Europe et Laicité’ thành lập 1954.
VI. Ảnh hưởng hoàn vũ của chủ trương thế tục.
1. Tính cách ‘hòan vũ’ (universalité) của ‘chủ trương thế tục’.
‘Thế tục’ đôi khi được trình bày như là ‘một điểm đặc biệt của nuớc Pháp’, nó lại mang một sứ điệp vượt ra ngoài ranh giới của địa danh khởi đầu và phát triển.
1) ‘Thế tục’ là một đặc thù của Pháp.
Người ta tự hỏi về hoàn vũ tính của nguyên tắc thế tục và khả năng của nó có thể vượt ra khỏi biên giới Pháp. Ðiều rõ ràng là nguyên tắc thế tục đã trở thành một ‘cuộc tranh đấu ý thức hệ cứng nhắc’ đánh dấu hai triều đại giáo hoàng của đức Grégoire XVI và Pie IX. Bầu khí ngột ngạt này được giải tỏa nhờ một phần lớn các giám mục Pháp mà tiêu biểu nhất là đức cha Dupanloup, giám mục Orléans, một trong những thủ lãnh của ‘khối công giáo tự do’. Ðặc biệt là nguyên tắc thế tục của các trường học cũng dần dần ‘gây ảnh hưởng ở ngoài biên giới Pháp’, như chúng ta thấy ngày nay.
2) Thế giới tỉnh ngộ.
Theo Max Weber, con người phải đặt lại vấn đề trong mọi phạm trù kỳ diệu của mình, không những trong xã hội mà cả trong tôn giáo. Ðể xác định ý tưởng này, ông đã nói ‘con người phải tỉnh ngộ’ (désenchantement). Nhận định của Max Weber có thể đúng một phần ở Pháp, nhưng không mấy đúng trong thế giới mà ông cho là đã tỉnh ngộ. Max Weber là một trong những người đầu tiên nhấn mạnh rằng: Nhà Nước xây dựng nên những tiến bộ bằng cách xác định công ích và quyền lợi chung. Cũng theo ông, phải đợi một thời gian lâu dài mới thấy được ‘thành quả của thế tục hóa’. ‘Thành quả của chủ trương thế tục’ được tạo nên trong lịch sử nhân loại chính là sự tiến bộ của xã hội. Và như vậy là ‘thế giới tỉnh ngộ’ rồi! Max Weber còn nói thêm: Tự nó và từ nguồn gốc Pháp, chủ trương thế tục đã tạo nên một nền tảng có tầm mức phổ quát và hoàn vũ về nhân cách của con người.
2. Nhưng dần dần bị mất gía.
1) Thế tục xét theo địa dư và thể chế chính trị
Nếu lấy ‘chủ trương thế tục của Pháp làm kiểu mẫu thì hiếm có những quốc gia đáng gọi là ‘thế tục’. Dầu vậy, việc phân tích các văn kiện và những lời tuyên bố chính thức, cũng cho thấy những thực tại tiến bộ, những tình thế cụ thể thay đổi tương đối thôi: Chủ thuyết thế tục của đệ nhị Cộng Hòa Tây Ban Nha đã không chống lại cuộc tấn công của hàng giáo sĩ thân tổng thống Franco; tại Hoa kỳ, việc tách rời giữa các Giáo Hội và Nhà Nước lại thích ứng với một xã hội được tổ chức theo khuôn mẫu cộng đồng (mode communautiste) còn sâu đậm màu sắc tôn giáo.
Cho dù chọn lựa tiêu chuẩn nào đi nữa (cộng sản hay quốc gia, dân chủ hay quân chủ) ít có những nước khả dĩ được coi là quốc gia thế tục. Kể cả nước Albanie, dưới chế độ cộng sản theo đường lối Staline, do Enver Hodja điều hành trong quãng 1945 đến 1985, đã xưng danh là nước vô thần đầu tiên trên thế giới. Chúng ta còn phải ghi nhận: Vào cuối năm 1950 chủ nghĩa quốc gia của nhiều nước Ả rập đã muốn thoát ra khỏi ảnh hưởng tôn giáo: ý thức hệ ‘bassiste’ tại Syrie và Irak, thuyết ‘nassérisme’ tại Ai Cập, tư tưởng ‘néo-Destour tại Tunisie đều là những bằng chứng về sự thất bại chính trị muốn hiện đại hóa theo khuôn mẫu Âu Châu. Hơn thế, cách mạng tại Iran với Khoménie, chế độ Taliban tại Afghanistan, chính trị quốc gia của Hindous tại Ấn đều làm cho những người chủ trương thế tục phải lo ngại không ít!
Sau cùng, chủ trương muốn ‘tẩy não’ khỏi tư tưởng tôn giáo đã thất bại. Câu nói của Mark ‘Tôn giáo là thuốc phiện mê dân’ đã tạo bầu khí đấu tranh sau ngày cách mạng 1917, dần dần mất giá. Tình hình tôn giáo hiện nay tại các nước ‘cựu cộng sản’ chứng tỏ ‘chương trình thế tục tận gốc’ của ông Mark đã thất bại. Sau khi bức tường Berlin sụp đổ, ‘nguyên tắc thế tục’ trở thành một hình thức bao dung tương hỗ được Nhà Nước bảo đảm bằng một đường lối trung lập. Hoạt động xã hội trước tiên được coi như những hình thức nối kết giữa Nhà Nước và các Giáo Hội. Cũng vậy, ‘thế tục’ triển nở nhờ hai yếu tố: nền dân chủ và bản nhân quyền.
2) Những kinh nghiệm không có ngày mai.
Những ảnh hưởng xào nấu giữa chủ trương thựïc nghiệm (positivisme), đặc biệt tại Chili và Brésil, với văn hoá Pháp, đặc biệt tại Trung Mỹ, vào đầu thế kỷ XX, đã làm nổi bật những khát vọng thế tục hóa. Nhưng công trình thể hiện thường gặp phải những hoàn cảnh rối loạn, chế độ chính trị thay đổi luôn và văn hóa dân chủ yếu kém. Hầu như mọi công trình đều chết yểu, đoản thời, không có ngày mai. Cũng vậy, nếu đệ nhất Cộng Hòa Bồ Ðào Nha được tuyên bố năm 1910, và Nhà Nước đã quyết định ly dị với Giáo Hội, thì chả bao lâu cuộc ly dị hay đoạn tuyệt này không còn tiếng vang! Từ năm 1926 Bồ Ðào Nha lại nằm dưới chế độ độc tài của Salazar. Chế độ này trả lại cho Giáo hội mọi ảnh hưởng xã hội và chính trị.
3) Thổ Nhĩ Kỳ (Turquie): gia tài của Kémal.
Người sáng lập nền Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ là Mustafa Kemal (1881-1938). Ngay khi tuyên bố độc lập, ông đã tỏ ý tha thiết muốn thành lập một quốc gia mới, với một nền chính trị tân tiến theo chủ thuyết thế tục (volontarisme laique). Trong thời gian 1922 và 1924, hoàng đế (sultanat) và quốc vương (califat) lần lượt bị truất phế và tiếp theo là Hồi Giáo mất địa vị quốc giáo. Một trong những biện pháp thay đổi não trạng bắt đầu thực hiện: buộc làm hôn thú dân sự, buộc đi học trường công miễn phí theo kiểu mẫu của Pháp, đàn ông cạo râu, lấy mẫu tự latinh thay mẫu tự ảrập. Hiến Chế công bố năm 1924 đã trân trọng xác định: “Thổ Nhĩ Kỳ là nước cộng hòa, quốc gia, vì dân, vì nước, thế tục và cách mạng” (État turc est républicain, nationaliste, populiste, étatiste, laique et révolutionnaire”. Căn cứ theo văn tự, Hiến Chương đâïm màu sắc cách mạng và tính cách thế tục được khẳng định. Và đây là một trường hợp độc đáo sáng lên giữa các nước Hồi giáo. Tuy nhiên trong thực hành không phải là không có những nguy hiểm, những giá đắt phải trả. Và vệ quân của gia tài thế tục ông Mustafa Kemal để lại luôn là quân đội.
4) Mễ Tây Cơ (Mexique)
Cho dù không dùng danh từ ‘thế tục’ (laicité) trong các văn bản, Mễ Tây Cơ, từ năm 1917 cho đến 1991, có thể được xếp vào số những quốc gia thế tục xét theo hiến chế. Ðược soạn thảo sau một thời gian rối loạn, Hiến Chế của Mễ Tây Cơ ghi đậm màu sắc ‘chống giáo sĩ’. Giáo Hội Công Giáo và các Dòng Tu không còn có sự hiện hữu chiếu luật nữa (existence légale), quyền tự do tin tưởng và phụng tự được khẳng định. Tuy nhiên chỉ các trường tiểu học và trung học mới là trường công và thế tục mà thôi.
5) Ấn Ðộï (inde) và Nhật bản (Japon): thế tục theo hoàn cảnh.
Năm 1946, Nhật Bản thất trận và buộc phải theo các quy luật dân chủ đa dạng. Sau nhiều tranh đấu căm go, Ấn Ðộ được độc lập năm 1947, và ngay sau đó cũng nhận ‘thể chế dân chủ đa dạng’. Tuy quan niệm ‘thế lực đế chế xây dựng trên nền tảng thần quyền’ không hoàn toàn bị tẩy xóa nhưng hướng đi và cơ cấu chính trị nhiều khi rõ ràng là thế tục. Cũng tương tự, Hiến Pháp đã giảm bớt quyền hành của các giáo sĩ Bàlamôn (Brahmanes) hầu thể hiện thể chế dân chủ đa ngôn ngữ, đa giai cấp (castes), đa văn hoá và đa tôn giáo. Tuy nhiên, gánh nặng hủ tục, quyền lợi cố thủ của Ấn giáo, sự bành trướng của các hệ Phật giáo… vẫn còn đó và thường xuyên gây bạo động.
3. Nhìn riêng về Âu Châu.
Ngược lại với những người muốn coi tính cách dị biệt của Âu Châu như gắn liền với truyền thống cộng hòa của Pháp, thì nhiều người khác, như Edgar Morin, lại thấy thế tục như một thực tại riêng của Âu châu.
1) Những nguyên nhân của dị biệt.
Chỉ thoáng nhìn lịch sử Âu Châu, đủ để thấy đặc tính chung cơ bản: nổi bật hiện tượng tôn giáo trong chiều kích ý thức hệ cũng như trong chiều kích cơ chế (institutionnelle). Mọi đoạn tuyệt hay kiến tạo hoặc nối kết đều là những biến cố tôn giáo. Vì thế, Âu Châu đã sớm trở thành châu lục phồn thịnh về ‘chính sách đa tôn giáo’ là nguyên tố làm nảy sinh các nền văn hóa dị biệt và đôi khi tranh luận (polémiques). Những màu sắc tôn giáo chính yếu vẫn là Do Thái Giáo, Chính Thống Giáo, Công Giáo và các hệ Tin Lành và Hồi Giáo. Tuy mực độ không đều nhau, đường hướng chống giáo sĩ luôn là tiến trình của thế tục hóa, và mục tiêu của thế tục là vô hiệu hóa (neutraliser) thế lực của tôn giáo.
2) Không thể đưa ra một kiểu mẫu tiêu biểu (typologie).
Mỗi quốc gia đều có một hoàn cảnh độc đáo riêng. Một số Hiến Chế dự phòng việc tách rời Nhà Nước với Giáo Hội, tuy nhiên lại dành cho Giáo Hội một chỗ đứng nổi bật theo khế ước xã hội. Như Ái Nhĩ Lan, nếu Giáo Hội và Nhà Nước tách rời nhau, nhưng Hiến Chế năm 1936 lại thiết lập ‘nhân danh Ba Ngôi rất thánh’ (Au nom de la Très Sainte-Trinité). Nhiều quốc gia khác, tuy chủ trương tách biệt Nhà Nước và Giáo Hội, nhưng lại tiếp tục liên hệ với Giáo Hội Công Giáo bằng các hòa ước, như Bồ Ðào Nha. Một cách chung, những nước có văn hoá công giáo thì tiến dần đến chế độ thế tục bằng ‘xác lý chống giáo sĩ’ (logique anticléricale); còn những nước tin lành thì mau mắn chọn lựa ‘đường lối tục hóa’ (démarche de sécularisation). Ngoài ra còn những tình trạng trung gian (situations intermédiaires), như nước Bỉ hiện nay, nghĩa là thế tục không được coi như nền tảng của quốc gia, nhưng chỉ như một trong những thành phần tổ hợp ý thức hệ của xã hội thôi.
3) Một thực tại xã hội đang tiến tới sự hòa đồng.
Tất cả các quốc gia trong Liên Hiệp Âu Châu (Union européenne) và đi cao hơn, Hội Ðồng Âu Châu (Conseil de l’Europe) đều nhìn nhận sự tự do lương tâm và tự do tôn giáo. Ngoài ra, việc sống đạo theo truyền thống thì rõ ràng là đang bị gặm mòn dần. Ái Nhĩ Lan đã hợp thức hóa vấn đề li dị năm 1995. Tại Thụy Ðiển, kể từ năm 2000, Tin Lành Lutêrô không còn là quốc giáo nữa. Nước Pháp đã chấp nhận hình thức‘hôn nhân’ mà người ta gọi là PaCS (PaCS: Pacte Civil de Solidarité). Những biến cố tục hóa đó không cản ngăn các khuynh hướng bảo thủ quá khích (intégriste). Cũng không vì thế mà trật tự luân lý bị ngụp tắt, trái lại dần dần người ta ý thức và đòi hỏi trật tự luân lý như một yếu tố bảo đảm và giáo dục con người…
4. Những thách đố của Âu Châu.
Sau đệ nhị thế chiến, Âu Châu đã chọn hòa bình và hiệp nhất. Một vận động tổ chức Liên Hiệp Âu Châu được khởi sự qua các giai đoạn: -1951, hiệp ước (traité) Paris thành lập Cộng Ðồng Âu Châu (CE), - 1957, hiệp ước Roma thành lập CE và Euratom, - 1986, ‘Acte unique’, - 1992, hiệp ước Maastricht, - 1997, hiệp ước Amsterdam, - 2000, hiệp ước Nice, - 2008, hiệp ước Lisbonne. (Hiến Chương Âu Châu được soạn thảo tại Nice và được tu chính tại Lisbonne). Có thể nói Liên Hiệp Âu Châu đã được quan niệm và hình thành theo hình mẫu thế tục của Pháp. Do đó vẫn có những thách đố.
1) Tự do tôn giáo và nhìn nhận các nhóm thiểu số.
Thành lập năm 1949, Hội Ðồng Âu Châu được khẳng định mau chóng như là cơ quan bảo toàn ý thức dân chủ âu châu và bảo vệ nhân quyền cách hữu hiệu. Quy ước âu châu bảo vệ nhân quyền và tự do căn bản được ký kết 1950 đã mau có ảnh hưởng quốc tế. Giữa các quyền tự do được công bố, có tự do xác tín tôn giáo. Tiếp đến Hội Ðồng Âu Châu xác định việc bảo vệ các dân thiểu số trong mỗi quốc gia và nhìn nhận tiếng nói của mỗi địa phương.
2) Các Cộng Ðồng trong Liên Hiệp Âu Châu.
Cộng Ðồng Âu Châu là tổ chức mang nhiều tham vọng mà cốt yếu là mỗi quốc gia thành viên biết hạ thấp cái ‘uy quyền tối cao’ (souveraineté) của mình vì ích lợi chung của Cộng Ðồng. Cho dù sáng lập viên là những người thấm nhuần văn hóa hóa dân chủ kitô, việc xây dựng Cộng Ðồng Âu Châu luôn tỏ ra trung lập trong chiều hướng thế tục. Ði từ Cộng Ðồng đến Liên Hiệp Âu châu với hiệp ước Maastricht người ta phải thay đổi một phần nào cho hợp pháp về phạm vi chính trị. Tuy không rõ rệït, nhưng Cộng Ðồng đã tìm thấy trong những nguyên tắc về tự do, về dân chủ, về sự kính trọng nhân quyền, và về quyền lợi của mỗi quốc gia. Khi đào sâu nền tảng ban đầu của Cộng Ðồng Âu Châu và khi chuẩn bị hiệp ước Amsterdam, Vatican đã yêu cầu nhìn nhận chỗ đứng riêng biệt của các Giáo Hội theo căn tính của các Quốc Gia thành viên và theo tài sản chung của các dân tộc âu châu. Sự đòi hỏi này đã bị từ chối vì ‘đậm màu giáo sĩ’ (clairement cléricale). Nhưng đòi hỏi này được lặp lại khi soạn thảo hiến chương (charte) về quyền lợi căn bản của Liên Hiệp Âu Châu, công bố tại Nice cuối năm 2000. Trong phần nhập đề của bản thảo đầu tiên, các soạn giả gợi lên ‘gia sản văn hóa, nhân bản và tôn giáo’ ‘l’héritage culturel, humaniste et religieux). Câu này được đổi lại trong bản văn sau cùng, là: ‘gia sản tinh thần và luân lý’ (patrimoine spirituel et moral).
3) Ða văn hoá làm thức tỉnh các căn tính.
Ða số các quốc gia hiện nay trở thành các nước đa văn hóa (multiculturel). Bên cạnh khuôn mẫu hội nhập cá nhân, lại gia tăng số các cộng đồøng đòi hỏi được nhìn nhận. Việc đòi hỏi nhìn nhận quyền lợi của cộng đồng thoát thai từ ý niệm bao dung tôn giáo trong thế kỷ XVII. Ðặc biệt, khi đòi hỏi cho cộng đồng của mình được nhìn nhận, tức là người ta tự ý thức mình thuộc về cộng đồng, nói khác, người ta tỉnh ngộ, đi tìm và nhận ra căn tính của mình. Ðồng thời, mời gọi người ta phải biết sống chung với những người khác căn tính, đó là một tinh thần liên đới mở rộng về mọi khía cạnh: chia sẻ cho nhau, làm giàu cho nhau, tương trợ lẫn nhau… theo ‘nghĩa tốt’ của hiện tượng toàn vũ hóa hiện nay: hiệp nhất trong khác biệt, khác biệt nhưng hiệp nhất!
4) Xuất hiện nhiều tôn giáo mới.
Năm 1905, khi đề cập đến việc tách rời Giáo Hội với Nhà Nước, người ta chỉ gợi lên bốn tôn giáo (Công giáo, Chính Thống, Tin lành, Do Thái) được nhìn nhận và coi như một hình ảnh đầy đủ về những biểu lộ niềm tin tưởng của người dân. Ngày nay không còn như vậy nữa. Khi giúp tiền cho Hồi Giáo xây mốt-kê ở Paris đã là một biến cố, qua năm 1970 ra đời của các nhóm ‘bảo thủ tôn giáo’ (intégrisme religieux) với bao nhiêu náo động ồn ào, năm 1993 tổng thống Jacques Chirac tiếp đón hòa thượng Dalai Lama đánh dấu tầm quan trọng của Phật Giáo nói chung và Phậït Giáo Tibétain, hiện diện mỗi ngày một đông đảo trên đất Pháp. Hơn thế, đã từ mấy chục năm Pháp là một trong nhiều nước thịnh đạt các giáo phái. Các giáo phái dựa vào khoản 1 và 2 của luật 1905 ‘Nền Cộng Hòa không nhìn nhận một tôn giáo nào, nhưng bảo đảm một tự do tuyệt đối về niềm tin tưởng của người dân’, mà xâm nhập, chào đời, sinh hoạt, phát triển và đòi quyền lợi (quyền nhận tiền của dâng cúng, tài sản, miễn thuế…). Các giáo phái khéo biết lợi dụng những kẽ hở của luật để len lỏi sống… Ðó cũng là tình trạng tương tự của nhiều nước Âu Châu…
VII. Mục tiêu nhằm tới để sinh tồn và phát triển.
1. Sứ mệnh giải hòa và chủ trương nhân bản.
Thu lượm được những thành công vào cuối thế kỷ XIX, thế tục đương nhiên đi vào Lịch Sử. Chỉ cần mở mắt nhìn vào thế giới, đủ để thấy tính cách thức thời của thế tục: sứ mệnh hòa giải và chủ trương nhân bản hành động.
Vào đầu thập niên 1990, sau khi khuôn mẫu Nga Sô bị tan vỡ, nhiều người tưởng rằng từ nay thế giới đi vào thế hệ ánh sáng với chủ đích lịch sử là phong trào toàn cầu hóa để xây dựng nền kinh tế cần thiết. Với nền dân chủ tự do, thế giới êm đềm xây dựng lại những gì còn đổ vỡ sau thế kỷ thuộc địa, sau đệ nhị thế chiến tàn khốc, sau chế độ cộng sản ngột ngạt… Nhưng thực tế không như vậy. Sau vài năm nền thống nhất của Yougoslavie bị tan vỡ vì tinh thần quốc gia của người Serbes, lôi theo chiến tranh tôn giáo giữa Công Giáo, Chính Thống và Hồi giáo. Từ các chế độ quân chủ của các nước vùng Golfe, tại Afghanistan và Iran, Hồi Giáo lên nắm chính quyền và cực lực chống lại khuynh hướng tân tiến (anti-moderniste). Năm 1989, Salman Rushdie, hồi giáo gốc Ấn Ðộ, văn sĩ Anh quốc, bi Iman Khomeiny lên án tử hình vì đã viết cuốn ‘Những vần thơ của satan’ (Les Versets satanique) mà ông coi là ‘có tính cách xúc phạm và phỉ báng Tiên tri Mahomet. Tại Ấn Ðộ, nhóm Ấn Giáo bảo thủ đòi phá hủy mốt-kê Ayodhia, vì đã xây trên mảnh đất ‘chôn rau cắt rốn’ của thần Rama… Qua những náo loạn màu sắc tôn giáo như vậy, thế tục mang một sứ mệnh bao dung và hòa giải. Càng ở trong một xã hội đa văn hóa, sứù mệnh này càng lớn lao và nặng nề… nhưng đầy ý nghĩa…. Thế tục hóa không chủ trương giết hết niềm tin. Tách rời Giáo Hội ra khỏi Nhà Nước là mục tiêu của thế tục, nhưng thế tục lại bảo đảm cho tự do lương tâm, tự do tin tưởng. Chính trong nghĩa này mà tháng mười năm 2000, một ứng viên phó tổng thống Hoa Kỳ đã tuyên bố ‘Phải dành cho đức tin một chỗ đứng trong đời sống công khai của Hoa Kỳ’ (Il doit y avoir une place pour la foi dans la vie publique américaine). Tóm lại, lý tưởng thế tục không chỉ ngồi nhìn ngắm những thành quả lịch sử buổi ban đầu, nhưng phải đi tới mãi, đến tận cửa ngõ của mọi lớp người, mà trước tiên là ‘chủ trương nhân bản hành động’ (un humanisme en acte).
2. Những chiến tuyến mới.
Nếu vấn đề học đường đã từ lâu là trọng tâm tranh đấu của thế tục, thì ngày nay ai cũng nhìn nhận phẩm chất trường tư cao hơn trường công, chiêu bài chống giáo sĩ không còn ăn khách nữa, vì giáo sĩ thời nay mang những ‘bộ áo mới’ (nouveaux habits), vì ngày nay ‘xuất hiện những ‘phong trào giáo sĩ mới’ (nouveaux cléricalismes). Ðó là chưa nói đến rằng: Sau công đồng Vatican II, Giáo Hội Công Giáo quan tâm rất nhiều đến con người, đến mọi vấn đề cơ bản của nhân loại… Trong sự phát triển của các khoa học xã hội, liệu thế tục có đáp ứng được bằng hay hơn những đường hướng mục vụ của Giáo Hội không?
Ngày nay trường học không còn là điểm giao liên duy nhất, vì sự tiến bộ quá nhanh của truyền thông, của vi tính, của kỹ thuật… Ngày nay người ta có thể tự do truyền bá đạo lý trên mạng lưới, qua vô tuyến…
Thế tục nghĩ sao khi nhiều trường học tại Hoa Kỳ nhất quyết không cho dạy thuyết biến hóa của Darwin, khi Giáo Hội Công Giáo kiên trì chống đối việc phá thai, khi người đàn bà Afghanistan vẫn bị cấm không được đến nhà thương chữa bệnh, khi giáo phái Témoins – Yêhovah không chấp nhận việc chuyền máu cho bệnh nhân, khi nhiều nuớc Phi Châu còn khâu cắt bộ phận sinh dục (mutilations sexuelles)… Tóm lại xã hội hôm nay với những biến chuyển về chính trị, văn hóa, xã hội, khoa học, kỹ thuật… đặt ra cho ‘thế tục nhiều chiến tuyến mới’.
3. Những điều kiện để ‘chủ trương thế tục’ được sinh tồn, phát triển, đạt tới mục tiêu.
‘Thế tục’ có một lịch sử tranh đấu vừa lâu dài, vừa căm go và vừa phong phú. Chính trong những đấu tranh kiên trì đó, người ta nhận diện ra thế tục là một công trình xây dựng tự nguyện với những điều kiện cơ bản sau đây:
1) Lấy dân chủ làm khuôn khổ hành động (cadre).
Không một chế độ quyền bính, độc tài nào tạo dựng được thành qủa ý nghĩa theo dụng từ ‘thế tục’. Mọi hình thức cưỡng bách bằng võ lực để cầm chân vai trò của các Giáo Hội hay đôi khi còn đàn áp tôn giáo, đều đã thất bại. Thế tục đã triển nở lâu dài ngay giữa lòng xã hội đã quen thuần với nền chính trị dân chủ. Một xã hội cần đối chất và trao đổi những dư luận quần chúng, lý luận và cảm nghiệm được lợi ích chung. Một xã hội trải qua những mâu thuẫn với các hội đoàn, các nghiệp đoàn, với truyền thông và các đảng chính trị… Thất bại chua cay của chương trình tẩy não tôn giáo tại các nước Ðông Âu; thất bại tương đối của khuôn mẫu thế tục do Kemal áp đặt tại Turquie là không cản ngăn nổi sự bừng tỉnh của Hồi giáo; thất bại nặng nề của khuynh hướng quốc gia trong khối Ả Rập cho thấy : họ không giữ lời hứa, mặc dầu những lời hứa đậm màu thế tục… Tóm lại thế tục phải lấy dân chủ làm khuôn khổ hành động!
2) Lấy nhân quyền làm đích điểm vươn tới (horizon).
Mục đích của thế tục là giải thoát con người khỏi mọi ràng buộc, mọi cưỡng bách lương tâm, nghĩa là thế tục phải bảo đảm sự tự do lương tâm của con người, phải tôn trọng mọi quyền lợi của con người… Tóm lại, thế tục phải lấy nhân quyền làm đích điểm.
3) Lấy sự tách rời Giáo Hội với Nhà Nước làm phương tiện hành động (moyen).
Nước Pháp hãnh diện vì đã thể hiện việc tách rời các Giáo Hội với Nhà Nước, được coi như ‘vòng hoa’ của khuôn mẫu thế tục mà trong thực thế đa số các quốc gia trên thế giới đang thực hiện theo. Việc ‘tách rời’ này là phương thức cần thiết để thực hiện thế tục hay để tranh đấu cho tự do lương tâm và cho nhân quyền, đề cao tinh thần ‘chung sống’ (coexistence) và ‘bao dung’ (tolérance).
4) Lấy sự sáng suốt làm bảo đảm thành công (garantie).
Sau cùng, thế tục chính là một trạng thái tinh thần mà người này cho là một ‘luân lý’ (morale), người khác lại đánh giá như một ‘linh đạo’ (spiritualité). Thế tục cần sáng suốt để tôn trọng mọi khác biệt của tha nhân; để bảo đảm tình huynh đệ giữa người với người.
VIII. Không có tôn giáo thì không có thế tục
1. Nhận định của tổng thống Nicolas Sarkozy về tôn giáo trong nước Pháp thế tục.
1) Ngày 20. 12. 2007 tại điện Latran ở Roma: “Ðức tin kitô giáo đã ăn rễ sâu vào xã hội Pháp, vào văn hóa, địa phong, cách sống, kiến trúc, văn chương của dân tộc Pháp (…). Gốc rễ của nước Pháp chính yếu là Kitô giáo (…). Ðời sống tâm linh là một khuynh hướng tự nhiên của con người muốn đi tìm siêu việt tính. Sinh hoạt tôn giáo chính là câu trả lời của các tôn giáo cho ước nguyện cơ bản đó (…). Chắc chắn, những người không tin phải được bảo vệ khỏi mọi hình thức bất bao dung và dụ dỗ theo đạo. Nhưng một người tin tưởng chính là một người có hy vọng. Và lợi ích của nước Cộng Hòa chính là trong đó có nhiều người nam nữ hy vọng (…)”
2) Ngày 16. 01. 2008 tại Riyad (Arabie Saoudite): “ Tự nó, tâm tình tôn giáo không nguy hiểm. Nó trở thành nguy hiểm khi bị xử dụng vào những chủ đích chính trị thoái hóa nhằm phục vụ một thứ mọi rợ mới (…). Là thủ lãnh của một nước chủ trương nguyên tắc tách biệt Giáo Hội và Nhà Nước, tôi không có quyền phát biểu ‘tôi thích một tôn giáo nào hơn’ (…). Tôi có bổn phận làm cho mỗi người (…) cảm thấy sống hạnh phúc trong nước Pháp, cảm thấy được tự do, được kính trọng trong những xác tín, những giá trị và nguồn gốc của mình. Nhưng tôi cũng có bổn phận bảo vệ gia tài của một lịch sử lâu đời , của một nền văn hóa và tôi dám nói là của một nền văn minh”.
3) Ngày 13.02.2008 nhân dịp dự một bữa cơm của Crif (Conseil représentatif des institutions juives de France) tại Paris: “Không bao giờ tôi nói rằng luân lý thế tục thấp kém hơn luân lý tôn giáo. Tôi xác tín rằng cả hai luân lý bổ túc cho nhau, và khi khó phân biệt điều thiện điều ác thì người ta cần được soi dẫn bởi cả hai. Luân lý thế tục bảo vệ những điều chắc chắn có sẵn và xử sự hợp lý, luân lý tôn giáo đòi buộc mỗi xã hội, mỗi thời đại đừng chỉ nghĩ mình là chủ đích xác thực của luân lý”.
4) Ngày 12. 09. 2008, nhân dịp tiếp đón đức giáo hoàng Biển Ðức XVI viếng thăm chính thức nước Pháp: “Ngày nay, thế tục cần phải đối thoại với các tôn giáo, đào sâu và thấm nhập và kính trọng các văn hóa. Sau ngày tận số của những ý thức hệ độc tài, và những ảo tưởng của xã hội tiêu thụ, cần thiết phải có một linh đạo hiện hữu ngay trong một nước thế tục”.
2. Người Pháp với các tôn giáo.
Ngày 25. 09. 2007, giữa lúc bàn thảo sôi động về bản văn AND, đức cha Claude Schockert, giám mục giáo phận Belfort và chủ tịch Ủy Ban Mục Vụ Ngoại Kiều của Hội Ðồng Giám Mục Pháp, đã đến gặp và thảo luận lâu giờ với ông Brice Hortefeux, Bộ trưởng bộ ‘Di Dân-Hội Nhập-Căn Tính Quốc Gia- và Phát Triển’. Mục đích là phản ảnh lên ông những nguy cơ mà Giáo Hội Pháp nhận thấy trong dự luật về di dân của ông… nhân vụ việc này, hãng thông tấn Ifop thực hiện một cuộc thăm dò dư luận, và kết quả như sau (xem báo La Croix, thứ hai, 24.03.2008, tr.2-3):
1) Khẳng định lại những nguyên tắc lớn của Nền Cộng Hòa
* Trong những nguyên tắc lớn của nền Cộng Hòa, thì nguyên tắc nào quan trọng hơn
Phổ thông đầu phiếu
|
41%
|
Thế tục
|
30%
|
Tự do nghiệp đoàn
|
12%
|
Tự do hội đoàn
|
9%
|
Tự do lập đảng chính trị
|
8%
|
* Liên hệ đến luật 1905 về ‘sự tách biệt các giáo hội với Nhà Nước’ bạn nghĩ phải làm gì?
Giữ luật này nguyên vẹn
|
71%
|
Tu chính lại một vài khía cạnh
|
21%
|
Bỏ luật này đi
|
7%
|
Không có ý kiến
|
1%
|
2) Nhận định về tôn giáo
|
Cả dân Pháp
|
Người công giáo sống đạo
|
Ng. công giáo không sống đạo
|
Người vô tôn giáo
|
Các tôn giáo có thể gây nên những căng thẳng
giữa xã hội
|
87%
|
74%
|
92%
|
89%
|
Các tôn giáo cớ thể góp phần chuyển đạt cho
giới trẻ những mục tiêu và những giá trị tích cực: tôn trọng tha nhân, bao
dung, quảng đại
|
79%
|
96%
|
83%
|
60%
|
Thế tục phải chủ yếu kính trọng mọi tôn giáo
và không coi các tôn giáo như một nguy cơ nhưng như một ‘vận may’ cho xã hội.
|
79%
|
96%
|
83%
|
64%
|
Tôn giáo vượt ra ngoài đời sống tư, và giáo
quyền không nên công khai bày tỏ lập trường về các vấn đề tranh luận ngoài xã
hội;
|
77%
|
65%
|
76%
|
88%
|
Tin tưởng vào Thiên Chúa sẽ tìm được sự nâng
đỡ trong đời sống thường nhật
|
60%
|
94%
|
64%
|
29%
|
3) Bạn đồng ý về những điều Tổng thống Nicolas Sarkosy nhấn mạnh trong ba bài diễn văn?
|
Cả dân Pháp
|
Người Công
giáo sống đạo
|
Ng. Công giáo không sống đạo
|
Người không
tôn giáo
|
Gốc rễ kitô giáo của nước Pháp
|
49%
|
66%
|
54%
|
36%
|
Vai trò tạo dựng nềnvăn minh của tôn giáo
|
42%
|
56%
|
47%
|
29%
|
4) Kết luận:
Theo kết quả thăm dò ở trên thì ‘đối với người Pháp, ‘Công trình thế tục là một trong những giá trị quan trọng nhất của nền Cộng Hòa’. Tuy nhiên càng ngày người ta càng nhận ra ‘không thể có thế tục nếu không có tôn giáo’. Hơn thế, ‘Tôn giáo là một nguyên động lực xây dựng trong xã hội’. Nhưng với điều kiện, ‘các tôn giáo sống chung hòa bình với nhau, bằng mọi giá đừng để xảy ra trong phạm vi xã hội những căng thẳng tôn giáo».
B. CÁCH MẠNG VĂN HÓA 1968
1. Trên bình diện thế giới
1) Tại Ba lan, ngày 30.01. 1968, 250 sinh viên Varsovie bi bắt vì đã biểu tình phản đối nhà nước cấm một ‘vở kịch chống chủ nghĩa xã hội’. Tháng 3.68, các đại học đều đóng cửa ‘đình công các lớp’ cho tới cuối tháng tư.
2) Tại Tây Ban Nha, suốt tháng giêng, sinh viên các đại học bãi lớp và đòi cải tổ tình trạng chính trị và xã hội.
3) Tại Nam Việt Nam, ngày 29.01.1968, quân đội Bắc Việt tiến vào tận Sài gòn và 13.12 chiếm thành phố Huế. Nhưng sau đó bị đẩy lui.
4) Tại Ý, ngày 16.03.1968, cảnh sát phải tấn công vào đại học Roma để dẹp yên cuộc xô xát giữa các nhóm tả và tân-phátxít. Sau Roma, sinh viên các đại học Milan, Trente, Catane, Turin, Pise, Naples, Palerme, Venise… thi nhau xuống đường chống lại cái họ gọi là ‘văn hóa hủ lậu’.
5) Tại Anh Quốc: ngày 17.03.1968, một sinh viên gốc Pakistan đã xách động được 25.000 người biểu tình chống chiến tranh ở Việt Nam. Tiếp đó là các sinh viên đại học tại Londres, Birmingham, Manchester và Bristol xuống đường.
6) Tại Tây Ðức: ngày 12.04.1968, lực lượng cảnh sát phải vất vả lắm mới dẹp yên được cuộc biểu tình của sinh viên Tây Bálinh sau vụ khủng bố chống lãnh tụ cực tả Rudi Dutschke. Các cuộc xuống đường của sinh viên lan dần đến Bonn và Francfort.
7) Tại Hoa kỳ, tháng 04.1968 xảy ra vụ ám sát mục sư Luther Martin King tại Memphis, biểu tượng của người Mỹ Ðen, náo động các thành phố Chicago và Los Angeles. Nhiều cuộc biểu tình chống chiến tranh Việt Nam, đặc biệt San Francisco và New York.
8) Tại Pháp, 02.05.1968, đóng cửa đại học Nanterre, sinh viên xâm chiếm Sorbonne; 03. 05, cảnh sát giải tỏa Sorbonne, một đêm xô xát; 10.05, ‘đêm chặn đường’ khiến hàng trăm người bị thương; 13.05, tổng đình công, các đảng khuynh tả họp mặt; 14.05 cuộc đình công đầu tiên tại xí nghiệp Sud-Avion ở Nantes, rồi các nhà máy Renaud; 18.05 hơn 2 triệu thợ đình công; ngày 20.05, 6 triệu thợ đình công; 24.05, biểu tình đẫm máu, thủ tướng Pompidou hội các đảng khuynh tả; 27.05 ký kết các điều ước Grenelle; 28.05, các đảng khuynh tả hội nhau tại Charlety; 30.05, giải tán Quốc Hội và 05.06.1968 bắt đầu làm việc lại...
9) Tại Sénégal, ngày 29.05.1968, nhiều vụ xung đột đổ máu tại đại học Dakar.
10) Tại Algérie, ngày 23. 07. 1968, một vụ cướp máy bay El-Al do thiện chiến quân Palestine ở ngoại ô Alger.
11) Tại Nigeria, bùng nổ nội chiến tại Blafra, giết chết 8.000 người trong một ngày.
12) Tại Mễ Tây Cơ, 18.09. 1968, quân đội tấn công vào các đại học dẹp các sinh viên biểu tình khiến 18 tử vong, Hơn thế, cuộc biểu tình của sinh viên trên quảng trường Ba Văn hóa (Trois Cultures) làm hơn 200 người trẻ bị giết.
13) Tại trung Hoa, 31. 10. 1968 đảng cộng sản tuyên bố kết thúc đại cách mạng văn hoá (10 triệu người đã chết vì cuộc cách mạng này kể từ 1966). Tuy vậy, cuộc cách mạng này còn kéo dài tới cuối 1972.
14) Tại Do Thái, 1. 11. 1968, dân Ảrập tại Jérusalem đình công và biểu tình chống chính phủ quân sự.
15) Tại Nhật, nhiều nhóm sinh viên khuynh tả chống nhau, đặc biệt các phân khoa y học bãi khóa chống căn cứ quân sự của Mỹ ở Okinawa.
16) Tại Liban, 28. 12. 1968, không quân Do Thái bắt đầu bắn phá, thả bom; quân khủng bố Palestine phá một máy bay El Al tại Athènes.
2. Những nguyên nhân náo động của năm 1968
1) Ðời sống nghèo đói do nạn thất nghiệp và đồng luơng thấp kém của giới thợ thuyền: tình trạng này rõ nét tại các nước kỹ nghệ Âu Châu và Hoa Kỳ. Chúng ta lấy nước Pháp làm thí dụ: Năm 1968, nước pháp có 49,7 triệu dân, 695.318 sinh viên, 584.600 người xin việc làm, 1/5 dân Pháp làm nghề nông. Số người thất nghiệp mỗi ngày một gia tăng, dân chúng đòi ‘cải thiện đời sống hằng ngày’. Vì cho đến 1968, 9% nhà ở không có nước máy, 53% không có hoa sen hay bồn tắm, 50% không có nước nóng, 85% không có điện thoại, 65% không có sưởi gaz, 48% còn dùng cầu tiêu cổ xưa (sur palier) và 31% còn dùng cầu tiêu công cộng. Nhất là giá sinh hoạt (pouvoir d’achat) xuống dần sánh với lợi tức, đồng lương lại thấp: Năm 1968, luơng SMIG cho một giờ làm việc là 2,2 francs, chỉ đủ mua được 2 lít étsăng, mỗi lít là 1,04f., một bánh mì là 0,45f, một lít sữa là 0,77f, một tờ báo là 0,36f, một gói thuốc thường là 1,35f, một vé metro là 0,69f, một vé cinê là 6,23f, một lần đi bác sĩ là 16,67f, một ký thịt bò bíptếch là 18,27f.
2) Ðòi hỏi của giới trẻ: Có rất nhiều nguyên nhân thúc đẩy người trẻ đặc biệt giới sinh viên bùng dậy.
. Muốn được bảo đảm tương lai: Chung số phận với giới thợ thuyền qua những nguyên nhân nêu ở trên… người trẻ ‘cảm thấy tương lai mờ tối’.
. Muốn hòa bình: Giới trẻ rất nhạy cảm về những biến cố đang đè nặng trên thế giới: chiến tranh lạnh giữa hai khối tư bản và cộng sản… chiến tranh ở Việt Nam mà phong trào phản chiến mỗi ngày một mạnh, tại nhiều nước trên thế giới và ngay tại Hoa Kỳ…
. Muốn chạy theo các cao trào: Giới trẻ bị thúc đẩy bởi nhiều cao trào xã hội chính trị đang lên trên thế giới: Cách mạng văn hóa của Mao Trạch Ðông, Quyền của Phụ Nữ, Ðồng Tình Luyến Ái, Phá Thai, Ly Dị… Ðảng Xã Hội Thống nhất (PSU: Parti Socialiste Unifié) thành lập 1960 và Michel Rocard làm chủ tịch năm 1968 đòi hỏi đoạn tuyệt với ‘các cơ cấu của Nhà Nước tư bản’ và ủng hộ các yêu sách của sinh viên và thợ thuyền: - Lương SMIG lúc đó chỉ là 2,2f cho một giờ làm việc, ngay sau đó lên 3,2f và hiện nay là 6,30 euros. - Cho đến 1968, tuổi trưởng thành chỉ kể từ 21 tuổi trọn, kể từ 1974 sụt xuống 18 tuổi. - Thi tú tài nhẹ nhàng hơn để nhiều người trẻ có thể vào đại học. Năm 1968 chỉ 81% thi đậu, sau đó là 86%, năm 1968 số sinh viên là 695.315, hiện nay là hơn 2 triệu. - Về mức sống tiện nghi: Năm 1968 chỉ 53,3% dân Pháp có xe hơi, bây giờ là 81%; 61,9% có máy truyền hình, nay 95%, chỉ 72% có tủ lạnh và 50% có máy giặt. – Về li dị, 1968 chỉ có 26.100 trường hợp mỗi năm, hiện nay 136.000 trường hợp! Lần đầu tiên xuất hiện khẩu hiệu ‘Thân xác tôi thuộc về tôi’ (Mon corps m’appartient) để đòi quyền phá thai.
. Giới trẻ muốn có chỗ đứng và trách nhiệm trong gia đình, trong xã hội và cả trong Giáo Hội; Họ không muốn bị ràng buộc hay cấm đoán. Hai khẩu hiệu rất ăn khách của mùa hè 1968 là ‘Ðình chỉ mọi cấm đoán’ (Il est interdit d’interdire) và ‘Hãy vui sống, đừng sợ bị ràng buộc’ (Jouissez sans entraves): tự do giao tiếp, ăn mặc, phá thai, phát biểu, viết lách, báo chí, hình ảnh, quảng cáo, chế diễu (các nhà lãnh đạo)… Gia đình cha mẹ bị mất uy quyền, ở trường học cô thầy không dám sửa phạt, tại xí nghiệp chủ ông không thể độc đoán… Từ giới trí thức đến giới thợ thuyền, từ tuổi già đến tuổi trẻ, đều đòi hỏi ‘tự do’ và ‘quyền lợi’ riêng của mình. Mong cho hết 18 tuổi để đi ra khỏi gia đình. Vì thế người ta đánh giá: “Tháng 5. 68 không phải là một cuốn phim vĩ đại cuối cùng, nhưng là một chiến thắng, vì khắp nơi đều đòi hỏi tự do” (Mai 68 n’est pas le dernier grand cinéma, c’est une victoire, car partout est introduit l’élément de la liberté).
. Muốn phản ứng mạnh mẽ: Ba biến cố xảy ra ở ngoài nước Pháp nhưng gây nhiều ‘khích động sức bùng dậy’ của giới trí thức và sinh viên: Chiến tranh tại Việt Nam với ‘cuộc tấn công của quân đội Bắc Việt vào Sàigòn và Huế tháng 2. 1968’. Vụ ám sát mục sư Martin Luther King, chiến sĩ ‘bất bạo động’ ngày 04. 04.1968. Cách mạng văn hóa tại trung hoa do Mao Trạch Ðông chủ trương để ‘đoạn tuyệt với quá khứ’ kết thúc vào tháng 10. 1968. Sinh viên nước Ý đã trương băng vải lớn ‘Marx là tiên tri, có Marcuse là người chú giải và Mao là thanh gươm của ông Marx’ (Marx est le prophète, Marcuse son interprète et Mao son glaive). Còn ông Jacques Amalric lại gọi ông Martin Luther King là ‘biểu tượng chống đối của gìới trẻ hoa kỳ’ (Symbole de la contestation des jeunes américains).
2) Những đề tài tranh luận: Khắp nơi trên thế giới và đặc biệt ở Pháp, đề tài tranh luận sôi nổi đôi khi ẩu đả bằng ‘ngôn từ’ và ‘bằng cùi chỏ hay bàn ghế’ về mấy đề tài nóng bỏng sau đây:
. Chiến tranh lạnh giữa hai phe tư bản và phe cộng sản. Dĩ nhiên thợ thuyền và giới trẻ bấy giờ bị lôi cuốn vào phe tả.
. Chiến tranh ở Việt Nam, phản chiến tư bản thì ít ỏi, chứ phe tả (gauchistes, trotskistes, maoistes) và sinh viên, thợ thuyền bao giờ cũng chiếm đa số trên đường phố và trong các phòng ‘diễn thuyết’.
. Chống nguyên tử (antinucléaires) là một đề tài hấp dẫn đặc biệt cho sinh viên và học sinh trung học, nhưng những người ‘hô hoán’ luôn là phe tả, nhóm chống chiến tranh…
. Cách mạng văn hóa, đi từ ảnh hưởng của ‘cuốn sách đỏ’ (livre rouge) của Mao Trạch Ðông, giới trẻ Âu Mỹ, đặc biệt ở Pháp, đòi xét lại bao nhiêu ‘cấp quyền bính’ (chính quyền, Giáo Hội, học đường, gia đình, người trưởng thành…). “Hãy để chỗ cho người trẻ” (laissez place aux jeunes) là khẩu hiệu quen nghe trong các vụ biểu tình của sinh viên, học sinh.
. Cải tiến xã hội trong mọi phạm vi đời sống hằng ngày, từ cách xưng hô, ăn mặc, điệu bộ, phát biểu, giao tiếp… đến đời sống tiện nghi và kỹ thuật (báo chí, xinê, dụng cụ nội trợ, di chuyển…), đời sống kinh tế (việc làm, đồng lương, trợ cấp xã hội…). Trong mọi phạm vi, người ta muốn ‘thở ra một chút’ (respirer un peu), ‘sống thoải mái hơn’ (vivre mieux), ‘làm việc một cách khác’ (travailler autrement).
C. CHỦ TRƯƠNG ‘THẾ TỤC TÍCH CỰC’ CỦA TỔNG THỐNG SARKOZY
1. Xác định nguyên tắc về ‘Thế tục tích cực’
‘Thế tục tích cực’ (laicité positive) là đường hướng chính trị tôn giáo mà ông Sarkozy đã nhiều lần tuyên bố trong thời gian vận bầu cử và sau khi đã được đắùc cử tổng thống, đặc biệt trong bốn bài diễn văn đan cử ở trên (VIII,1). Nhưng nóng hổi, rõ ràng và cương quyết hơn cả có lẽ là những xác quyết và dẫn chứng của ông trong bài diễn văn gần đây, tại điện Elysée. Ông đọc bài diễn văn này vào ngày 12. 09.2008, trước 472 quan khách đạo đời, nhân dịp đức giáo hoàng Biển Ðức XVI chính thức thăm viếng nước Pháp. Sau khi bày tỏ niềm vinh dự lớn lao được đón tiếp ĐTC tại điện Élysée, tổng thống Sarkozy đã nêu ra cái nền tảng, trên đó tôn giáo với đức tin và chính trị với dân chủ có liên quan và cần dối thoại. Đó là lý tính, tạo ra tư tưởng và xây dựng văn hóa. Về điểm này, nước pháp có một nét độc đáo chính trị là nhấn mạnh đến sự phân chia rõ rệt giữa chính trị và tôn giáo, trong tinh thần «thế tục», phát xuất từ thời cách mạng 1789, cô đọng thành luật ngày 09.12.1905 vì được xác định lại trong Hiến Pháp Ðệ Ngũ Cộng Hòa 1958 : «Pháp là một nước cộng hòa». Ðiều đó không có nghĩa là chính trị phải cắt đứt mọi liên hệ với tôn giáo, mà ngược lại, vì tôn trọng lý tính, chính trị phải đối thoại với tôn giáo, vì đối thoại với các tôn giáo quả là điều hợp pháp, dân chủ và là một điều tôn trọng thế tục. Các tôn giáo và đặc biệt là tôn giáo kitô mà nước Pháp chia sẻ một lịch sử dài, với những di sản sống về suy tư và về tư tưởng, không chỉ về Thiên Chúa, mà cả về con người, về xã hội, và về cả cái bận tâm chính yếu hôm nay là thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Từ bỏ điều đó thì thật là điên rồ, đúng hơn là một lỗi lầm phạm đến văn hóa và đến tư tưởng.
Xác định nguyên tắc rõ rệt như vậy, tổng thống Sarkozy đã nhắc lại điều mà ông đã nêu ra với đức giáo hoàng cách đây chín tháng, trong bài diễn văn ở Latran : «Thế tục tích cực ». Thế tục tích cực là thế nào ? tính chất ra sao ? Theo tổng thống Sarkozy, thế tục tích cực là « một thế tục biết tôn kính, biết tụ hợp, biết đối thoại, chứ không phải là một thế tục loại trừ hay tố giác » và «thế tục tích cực là thế tục mở rộng, chính là một lời mời đối thoại, một lời mời bao dung, một lời mời tôn kính. Thiên Chúa biết rằng các xã hội của chúng ta cần đến đối thoại, tôn kính, bao dung và an tĩnh ». Từ đó, ba công việc mà thế tục tích cực đã thực hiện, là : đi tìm ý nghĩa, tôn trọng các tín ngưỡng, nhìn nhận gốc rễ kitô mà không đặt ai trên ai.
1) Đi tìm ý nghĩa cho cuộc sống, tại sao? Tại vì : Trong thời đại hôm nay, thời đại mà sự nghi ngờ, sự cuốn khép vào mình đặt ra cho các nền dân chủ cái thách đố phải giải đáp những vấn đề của thời đại, thế tục tích cực sẽ đưa ra cho lương tâm ta cái khả năng, vượt trên những niềm tin và những lễ nghi, trao đổi về ý nghĩa mà ta muốn gán cho cuộc sống của ta ; đi tìm ý nghĩa. Cụ thể, trong công việc tìm kiếm ý nghĩa này, nước Pháp đang làm một số việc, tỷ như :
. Nước Pháp đã cùng với Âu Châu cam kết suy nghĩ để làm sao tạo một nền luân lý cho chủ nghĩa tư bản tài chính. cần luân lý hóa sự tăng trưởng và sự tiêu thụ kinh tế để cải thiện đời sống của phần đông nhân loại và phát triển nhân vị con người… Điều này gắn liền với học thuyết xã hội công giáo, và cần có sự hướng dẫn của Ðức Thánh Cha.
. Nước Pháp sẽ làm trong cuộc Tổng Đại Hội Toàn Quốc về luân lý sinh học trong năm tới. Mục đích để giải quyết những vấn đề mà sự tiến bộ nhanh chóng trong lãnh vực di truyền học và truyền sinh học đang đặt ra. Dĩ nhiên, những truyền thống triết học và tôn giáo sẽ hiện diện trong cuộc đàm thảo này.
. Nước Pháp đang nghĩ đến việc làm cố nhằm bảo vệ và phát triển nhân phẩm. Nhân phẩm cũng là đối tượng rao truyền và bảo vệ của Giáo Hội không ngừng rao truyền và bảo vệ… Vì nghĩ đến nhân phẩm mà chúng tôi đã muốn lập ra lợi tức liên đới tích cực (revenu de solidarité active). Vì nghĩ đến nhân phẩm mà chúng tôi đã dấn thân cam kết chống lại bệnh Alzheimer. Vì nghĩ đến nhân phẩm mà chúng tôi đã muốn lập ra chức tổng thanh tra nhà tù (contrơleur général des prisons).
2) Nước Pháp tôn trọng các tôn giáo và công việc thứ ba là nước Pháp đảm nhận gốc rễ văn hoá kitô của mình. Trước tiên, tổng thống Sarkozy nêu ra cái kho tàng quí báu « Nhân phẩm và Nhân quyền ». Theo ông : Nhân phẩm dần dà đã được chấp nhận như một giá trị phổ cập. Nó là tâm điểm của Bản Tuyên Bố chung cho thế giới về Nhân Quyền, đã được thừa nhận ở Paris đây, cách nay 60 năm. Đó là kết quả của một hội tụ đặc biệt giữa kinh nghiệm con người, những truyền thống triết học và tôn giáo lớn của nhân loại với con đường của lý tính. Vì ‘quên nhân phẩm và nhân quyền’ là đem thế giới vào những man rợ tệ hại nhất. Trái lại, ‘bảo vệ, đề cao và phát triển nhân quyền’ hành động tích cực cho hòa bình và ổn định thế giới và khích lệ niềm tin của những người thiện. Sau đó, ông nêu ra một số sự kiện mà chính ông và chính phủ Pháp có bổn phận quan tâm :
. Tinh thần của Liên Minh Địa Trung Hải : Mong đây là một giải đáp tốt việc sống chung của các cộng đoàn đa tôn trên cùng một lãnh thổ.
. Vừa nhìn nhận gốc rễ kitô vừa làm tất cả những gì có thể để các công dân hồi giáo có thể sống tôn giáo của họ một cách bình đẳng với tất cả những tôn giáo khác.
. Nước Pháp đa tôn, nên nước Pháp đã thích thú tiếp đón Đức Đạt Lai Lạt Ma vị lãnh đạo uy tín của Phật giáo Tây Tạng
. Nước Pháp muốn hoạt động cho hòa bình và không muốn phục hồi lại những cuộc chiến tôn giáo. Nên tiếp theo cuộc tương kiến nổi tiếng của ĐTC với vua nước Arabie Saoudite, con đã đến Riyad để nhấn mạnh việc liên kết các tôn giáo.
. Nước Pháp ý thức hơn ai hết : Cuộc đối thoại với và giữa các tôn giáo là một thách đố lớn cho thế kỷ mới này.
Tĩm lại, trong lãnh vực nội vụ, và đặc biệt trong tương quan với các tôn giáo, tổng thống Sarkozy vẫn theo nguyên tắc thế tục của hiến pháp, nhưng thêm một tĩnh tự bổ ‘tích cực’. Từ đó, ông muốn xây dựng những tương quan giữa các tôn giáo với một nước thế tục trên những quan niệm : Đối thoại, bình đẳng, tương kính, liên đới.
2. Những nhận định về chủ trương thế tục tích cực của tổng thống Sarkozy.
1) Chống đối, yên lặng hay đồng tình: Ðó là ba thái độ của các nhà chính trị đối với chủ trương thế tục tích cực của tổng thống Sarkozy:
. Chống đối, cách chung là các phe tả trong đó có những người chủ trương thế tục quá khích. Ngay sau bài diễn văn của ông Sarkozy tại Roma, ông Francois Hollande, tổng thư ký của đảng Xã Hội đã viết bài cho báo Le Monde để tố cáo quan niệm thế tục đậm mầu sắc khiêu khích ‘bằng một xáo trộn khiếp đảm giữa tôn giáo và chính trị’. Riêng lần này, ngay sau ngày 12.09.08, ông Albi, một thành viên xã hội cấp cao, đã phát biểu ‘Tôi nhượng bộ cho công dân Sarkozy quyền tự do, nhưng tôi muốn nhắc ông, chỉ có một thế tục trong luật pháp của Cộng Hòa thôi, không cần thêm thắt chi hết’. Lần này, các thành vên tai mắt của đảng xã hội không đến điện Elysée, ngoại trừ Bertrand Delanoe, thị trưởng thủ đô Paris. Trước bài diễn văn của Sarkozy, Vincent Peillon đã nhạo kháy rằng: “Ðây là cuộc gặp gỡ giữa một giáo hoàng chống ly dị và một tổng thống đã ly dị hai lần. Yêu cầu tổng thống điều chỉnh lại hai bài diễn văn trước đây”. Lời yêu cầu này không được lắng nghe. Tóm lại, đảng Xã Hội và các đảng phe tả khác không ‘thoải mái’ chút nào về chủ trương thế tục tích cực của tổng thống Sarkozy.
. Yên lặng: Các đảng Trung Tâm (Centre) giữ thái độ yên lặng hay chỉ có ‘những ý kiến nhẹ nhàng’: Julien Dray, phát ngôn viên của UDF than phiền: “Nước Pháp đã có nhiều vấn đề rồi, không cần gia thêm những tranh cãi mới; Chủ trương thế tục ám chỉ rằng: ‘trong một quốc gia thế tục vẫn kính trọng các tôn giáo, thì tôn giáo là chuyện cá nhân’. Gay gắt hơn, nghị sĩ Jean-Luc Mélenchon tố cáo: “Chuyến công du của giáo hoàng có chủ đích chính trị. Lần đầu tiên trong lịch sử của nước Pháp Cộng Hòa, một giáo hoàng và một tổng thống có chung một hướng chính trị. Như vậy là chủ trương thế tục của nước Cộng Hòa bị đe dọa”. Riêng ông Francois Bayrou, lãnh tụ của đảng MoDem cho biết “Tôi không muốn tranh cãi chuyện này. Mọi người biết rõ: tôi là một kitô hữu thực hành đạo, nhưng tôi nghĩ đừng lẫn lộn việc quốc gia với các tôn giáo, bởi vì trong thế kỷ này, việc lẫn lộn như vậy sẽ có nhiều nguy hiểm”.
. Ðồng tình: Ðó là thái độ chung của các thành vên đảng UMP. Họ thỏa mãn về việc làm của tổng thống Sarkozy. Dominique Paillé, phát ngôn viên của đảng tuyên bố với báo chí : “Thế tục đã luôn là một mảnh đất bao dung. Thế tục chỉ hùng mạnh khi biết đối thoại với các tôn giáo. Như vậy, bài diễn văn của tổng thống không vi phạm gì đến chủ trương thế tục, trái lại thêm tăng cường…”
2) Thái độ của các chức sắc cao cấp tại Roma: Qua lời tuyên bố của đức hồng y Jean-Louis Tauran, chủ tịch của Hội Ðồng Giáo Hoàng về Ðối Thoại Liên Tôn, cùng tháp tùng đức giáo hoàng trong chuyến công du nước Pháp này với hai hồng y Etchegaray và Poupard, thì: “Tại Roma, bài diễn văn của tổng thống Sarkozy đã làm nhiều người không những hài lòng mà còn ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng, bởi vì đây là lần đầu tiên một tổng thống Pháp đã diễn nghĩa về chủ trương thế tục rộng rãi và hợp thời như vậy. Người ta đã nghe bài diễn văn cách chăm chú và luôn mong chờ những hiệu quả cụ thể, chẳng hạn, nhà nước nhìn nhận bằng cấp đại học của các học viện công giáo”.
3) Thái độ của chính Ðức Biển Ðức XVI: Ðiều rõ ràng là Ðức Giáo Hoàng nối tiếp quan điểm của đấng tiền nhiệm, Ðức Gioan Phaolô II. Ngài không phê phán chủ trương thế tục, nhưng ngài không chấp nhận quan niệm ‘thế tục coi tôn giáo chỉ như một việc riêng tư’. Nếu tháng giêng 2005, khi tiếp vị tân đại sứ Pháp, ngài đã nhắc lại một câu mà đấng tiền nhiệm của ngài đã viết trong thư nhân dịp ‘kỷ niệm 100 năm tách biệt Giáo Hội với Nhà nước’ (1905-2005), rằng: “Tòa Thánh chấp nhận chủ trương thế tục của Pháp như một nguyên tắc phân biệt đúng đắn về quyền bính (une saine distinction des pouvoirs)”, thì lần này, tại điện Elysée, đức giáo hoàng đã đáp lời tổng thống Sarkozy: “Tổng thống vừa dùng một thuật ngữ đẹp ‘thế tục tích cực’ để xác định một đường hướng thế tục mở rộng, bao dung, đối thoại… Tôi xác tín rằng thật là cần thiết phải có một suy nghĩ mới về ý nghĩa đích thực và về tầm quan trọng của chủ trương thế tục. Thực ra, đó quả là căn bản, một phần, phải nhấn mạnh đến sự phân biệt giữa chính trị với tôn giáo, hầu bảo đảm sự tự do tôn giáo giáo cho công dân cũng như bổn phận của chính phủ với công dân; phần khác, phải ý thức rõ rệt hơn về chức vụ không thể thay thế được của tôn giáo trong việc đào tạo lương tâm và trong sự đóng góp mà tôn giáo đem lại, để cùng với những tổ chức khác, nhất trí tạo nên một nền luân lý căn bản trong xã hội. Phải bỏ quan niệm ‘trong chế độ thế tục, tôn giáo là chuyện riêng tư, cá biệt’, trái lại, trong chế độ thế tục, Giáo Hội được tự do hoàn thành sứ mệnh của mình, dấn thân loan báo Tin Mừng và tích cực tham gia vào mọi thăng tiến nhân bản’.
4) Ðối thoại, bao dung, liên đới… là những trục giao lưu của tôn giáo và thế tục: Có thể coi đây là một tiến bộ mới trong tương quan giữa chủ trương thế tục và tôn giáo, đặc biệt với Giáo Hội Công Giáo. Chúng ta không quên rằng: chủ đích của thế tục là làm sao loại bỏ sự hiện diện của linh mục và tu sĩ ra khỏi trường học và bệnh viện, ra khỏi mọi hoạt động xã hội, từ thiện, là loại trừ ảnh hưởng của Giáo Hội khỏi đời sống của dân chúng, khỏi mọi cơ cấu xã hội và nhà nước. Thế tục coi Giáo Hội là kẻ thù của tự do lương tâm, là ‘cản bước mọi tiến bộ về khoa học, văn hoá, kỹ thuật’… Nhưng dần dần, thế tục đã tự cảm thấy ‘không có tôn giáo, thế tục không thể phát triển và tồn tại’. Ðây là lý do căn bản và thực tiễn mà chế độ thế tục phải nghĩ đến và chấp nhận ‘kính trọng, đối thoại, liên đới với tôn giáo, đặc biệt ở Pháp, với giáo Hội công Giáo’. Ðiểm son của tổng thống Sarkozy là dám nói và biết nói lên quan điểm thế tục mà các vị tổng thống khác như Valéry Giscard d’Estaing, Jacques Chirac chưa dám nói, hay như ngay bây giờ, một kitô hữu thuần thục Francois Bayrou còn dè dặt. Ông Sarkozy đã khéo đặt tên cho đường hướng thế tục của ông là ‘thế tục tích cực’.
5) Mới nhưng không mới: Quan niệm về một thế tục tích cực là bao dung, đối thoại, liên đới, kính trọng các tôn giáo theo đường hướng chính trị tôn giáo của tổng thống Sarkozy là một quan niệm mới về chủ trương thế tục của Pháp đã có từ cách mạng 1789. Tuy nhiên những quan niệm bao dung, kính trọng, đối thoại, liên đới giữa các tôn giáo đã được Giáo Hội múc lấy từ trong Thánh Kinh, thực hiện tích cực trong các sinh hoạt học đường, bệnh viện, từ thiện, truyền giáo… của Giáo hội, và được nói lên mạnh mẽ trong các văn kiện của Công Ðồng Vatican II, cách đây 40 năm. Chúng ta hãy đọc lại ít ra hai văn kiện ‘Tuyên ngôn về Tự Do Tôn Giáo’ (Dignitatis Humanae), Hiến chế Mục vụ (Gaudium et spes).
D. GIÁO HỘI CÔNG GIÁO KHÔNG ÐỨNG NGOÀI CUỘC.
1. Với cuộc cách mạng 1789.
Muốn biết rõ tình hình của Giáo Hội Pháp và Giáo Hội hoàn vũ trong thời điểm Cách Mạng 1789 như thế nào, chúng ta cần đọc chương VI của cuốn IIB trong bộ Tân Lịch Sử Giáo Hội, với tiêu đề ‘Giáo Hội và Cách Mạng’ (TLSGH, IIB, tr; 211-250). Dựa theo ông L-J Rogier, tác giả của chương lịch sử này, chúng tôi nêu bật mấy điểm tương quan đến nguyên nhân có cuộc cách mạng 1789 và những hậu quả Giáo Hội phải gánh chịu:
1) Ban đầu, cách mạng không chống Giáo Hội: Một điểm mà lịch sử phổ thông thường bỏ quên: Nếu cách mạng Pháp đã trở nên chống đối Giáo Hội, tôn giáo và hàng giáo phẩm, thì ban đầu không thấy có ý hướng đó. Các nhà lãnh đạo, kể cả những người đã hết tin tưởng vào mạc khải, vào hạnh phúc hay thưởng phạt đời sau mà chỉ nghĩ đến việc cải tiến cuộc sống trần thế, họ đều không nghĩ đến việc phải đả phá tôn giáo. Việc triệu tập Hội Nghị Toàn Quốc vào mùa xuân 1789 không dính líu gì với những mưu toan chống đạo và Giáo Hội xuất hiện đây đó. Mọi người đều đương nhiên cho rằng phải khai mạc Hội Nghị bằng một lễ nghi tôn giáo. Ðấy là cuộc kiệu Mình Thánh Chúa do đức cha Juigné, tổng giáo phận Paris chủ sự. Theo sau, có nhà vua đi trước các dân biểu. Mọi người, kể cả Mirabeau và Robespierre đều cầm nến trong tay... Tuy nhiên: Nếu quả thực các ông tổ cách mạng không hề có ý định tấn công Giáo Hội, điều đó cũng không có nghĩa là nói cách tổng quát, họ có gắn bó với giáo huấn và lề luật của Giáo Hội, hoặc sẵn sàng nhìn nhận địa vị Giáo Hội trong quốc gia là bất khả xâm phạm… (tr. 211)
2) Tình trạng xã hội bi đát: Một hệ thống thuế vụ lỗi thời, cộng thêm những lạm dụng cố hữu; một thứ pháp lý dựa trên độc đoán và đặc ân của giai cấp; các chính quyền kém hiệu lực, triều đình thì phung phí tiền bạc, hành chánh thì tham nhũng… Tất cả các yếu tố trên đã đưa nước Pháp vào chỗ phá sản vào năm 1780. Hơn nữa, một vụ khủng hoảng nông nghiệp và kỹ nghệ khiến sự bất mãn tăng lên đến mức tuyệt vọng. Bằng chứng là có những cuộc dấy loạn nhỏ và những cuộc cướp phá trong nội thành Paris; hàng trăm ngàn người khốn cực, bị cảnh đói rét đe dọa, chen chúc sống trên một khoảng đất chật chội… (tr.217).
3) Tài sản, đặc ân và gương xấu: Trong các tập điều trần được viết vào các năm 1788 và 1789 theo lệnh của nhà cầm quyền, đều có lời thỉnh nguyện như sau: xin xét lại quy chế các tài sản của các họ đạo và dòng tu hầu dành ưu tiên cho sở hữu quốc gia… Sở dĩ có nhiều tài sản là vì có nhiều đặc ân: Một tỉ dụ chứng tỏ Giáo Hội có nhiều đặc ân về vật chất: Trên tổng số dân cư khoảng 25 triệu người, số các giám mục lên tới 135 vị, các linh mục triều khoảng từ 60 đến 70 ngàn, các nam tu sĩ khoảng 30 ngàn, các nữ tu gần 40 ngàn. Theo nguyên tắc thì từ trên xuống dưới, tất cả đều được miễn thuế như giai cấp quý phái… Hàng giáo sĩ còn có quyền thâu thuế trên dân để lo việc phụng tự, tức là thuế thập phân… Trong thời điểm cách mạng, thuế này kể là nặng nề cho dân, nên ai cũng oán ghét… Ít ai biết cho rằng Giáo Hội phải lo việc giáo dục, y tế và xã hội: như tài trợ cho 2200 bệnh viện và những bệnh xá. Tổn phí hàng năm lên đến 30 triệu quan… (tr.213). Thêm vào đó là sự lạm dụng trầm trọng về tài sản Giáo Hội và sự chênh lệch lợi tức giữa các họ đạo và giữa các cha sở, cộng thêm sự cách biệt lớn lao giữa hàng giáo sĩ thượng lưu và hạ lưu… Trong số 135 giám mục thì 130 vị thuộc giới qúy phái, có lương bổng và lợi tức lớn, mà không lo mục vụ, chỉ ‘nhởn nhơ’ quanh triều đình Versailles. Do đó họ không gần gũi giáo dân, không được kính nể và bị khinh bỉ vì gương xấu… (tr; 214).
4) Giảm nhân sự, mất chỗ đứng và rạn nứt: Khi dân chúng đã không còn thiện cảm và nhiều nhà cách mạng, nhất là các nhóm khuynh tả, chán ghét thì Giáo Hội bị ‘mất dần chỗ đứng’ và còn bị bóc lột cả về tài sản lẫn nhân sự, nhất là tinh thần hiệp nhất: Ngay năm 1770, các dòng tu đã suy đồi nhanh chóng, 450 tu viện bị đóng cửa và 8 dòng tu bị xóa sổ. Riêng dòng Xitô, năm 1768 có 600 tu viện, đến 1790 chỉ còn 301 nhà mà hầu hết là thưa thớt người. Thảm hại hơn nữa, năm 1790, tức một năm sau cách mạng, hàng loạt tu sĩ nam nữ bỏ áo hoàn tục… tiêu biểu nhất là tu viện Cluny, vốn nổi tiếng trong lịch sử, có 38 trên 40 tu sĩ xin hồi tục. Cũng trong năm 1790, đã có 4 giám mục và một nửa tổng số các linh mục đã tuyên thệ trung thành với cách mạng. Những giám mục và linh mục không tuyên thệ, bị coi là ‘chống cách mạng’ nên phải mất chức, phải trốn tránh và nhiều vị đã bị bắt giam hay bị giết chết (tr. 224-225). Nhưng trầm trọng hơn cả là sự gián đoạn ngoại giao với Roma và sự rạn nứt của chính Giáo Hội Pháp (tr.226).
5) Thế tục hóa trong nhiều phạm vi: Đặt lý trí trên niềm tin, ‘tin’ là ‘mê tín’, ‘ấu trĩ’, ‘ngu xuẩn’… lý trí ‘mới trưởng thành’, ‘sáng suốt’, ‘thực tế’… Họ muốn lấy ‘thần lý trí’ thay cho Thiên Chúa. Quyền bính đặt trên cơ sở của lý trí con người, chứ không còn trên cơ sở thần linh. Tin đạo, sống đạo là chuyện riêng tư, tùy theo lương tâm của mỗi người, chứ không vì ‘Chúa truyền buộc’ hay ‘Giáo Hội chuyển dạy’. Do đó việc giáo dục phải ra khỏi ảnh hưởng của Giáo Hội, các cấp học đường phải loại bỏ hết bóng dáng linh mục hay tu sĩ. Vì Ðạo Công Giáo không còn là ‘quốc giáo’, nên người dân không buộc lãnh bí tích Rửa Tội để trở thành người công giáo, không còn buộc giữ luật Chúa hay luật Giáo Hội, không buộc đi dâng lễ chúa nhật, không buộc giữ luật ‘nhất phu nhất phụ’ của bí tích Hôn Phối… Chết không buộc đưa tới nhà thờ: tuyệt đối tự do lương tâm. Vì những lẽ trên, điều cần thiết là ‘Giáo Hội phải tách biệt Nhà Nước’ hầu đạt tới ‘công trình thế tục’.
6) Chủ trương thế tục mất dần chỗ đứng: Cách mạng 1789 đã làm cho Giáo Hội Pháp và Giáo Hội hoàn vũ bừng tỉnh, trở về với Tin Mừng, với sứ mệnh Nhân Chứng, đi vào chiều sâu của Ðức Tin và Ðức Ái. Tinh thần của Công Ðồng Vatican II, đặc biệt với hiến chế ‘Mục Vụ về Giáo Hội Trong Thế Giới Ngày Nay’, đã cho mọi dân tộc thấy ‘mối quan tâm của Giáo Hội đối với con người’ (MV. 11-45), đến ‘Những vấn đề khẩn thiết của xã hội hôm nay’ (MV. 46-90). Hành xử mục vụ của các vị Giáo Hoàng gần đây, nhất là của Ðức Gioan Phaolô II, luôn đi sát với tinh thần Công Ðồng, đang làm sáng lên tinh thần khiêm tốn phục vụ, bao dung, tha thứ và hòa hợp, đầy tình nhân bản và gần gũi với mọi lớp người, không phân biệt chủng tộc, văn hóa và giàu nghèo hay lứa tuổi… Tất cả những yếu tố tích cực này đang giúp cho Giáo Hội lấy lại những gì đã mất, không phải về tài sản vật chất hay quyền bính, nhưng sự kính nể và niềm tin tưởng của mọi tầng lớp xã hội, hầu nhờ đó Giáo Hội chu toàn trong khiêm tốn sứ mệnh ‘đem Thiên Chúa đến cho loài người và đem loài người về với Thiên Chúa’.
2. Với cuộc cách mạng văn hóa 1968
1) Một cuộc ‘cách mạng thầm lặng’ trong Giáo Hội (Une ‘Révolution silencieuse’ dans l’Eglise). Ðây là tiêu đề của một bài viết về cách mạng văn hóa 1968, đăng trong báo La Croix, ngày 4.5.2008. Tác giả cho hay: Công Ðồng Vatican II kết thúc ngày, 8.12.1965, cho phép Giáo Hội mở đầu thực hiện (aggiornamento) và đối thoại với thế giới. Phong trào chống đối 1968 thúc đẩy Giáo Hội tiến mau tiến mạnh các chương trình thay đổi. Nhiều giáo dân và nhiều linh mục tin tưởng vào khả năng đổi mới giúp Giáo Hội vượt qua nhiều ngõ cụt và nhiều dự án. Mọi người đầy hy vọng! Chính xã hội cũng đang thay đổi về văn hoá, kinh tế, kỹ thuật và xã hội theo tốc độ nhanh. Ngay trong Giáo Hội và giữa các kitô hữu cũng có sự thay đổi mà cha Francois Roustang sj gọi là ‘con người thứ ba’, không thủ cựu cũng không là nhà cải cách. Con người thứ ba đó chính là cuộc cách mạng âm thầm đang diễn ra. Nếu Giáo Hội không quan tâm đến cuộc cách mạng thầm lặng này thì e rằng sự từ bỏ Giáo Hội đã có rồi, sẽ còn gia tăng mạnh hơn. Tháng ba 1968, ngay tại Paris đã có buổi thuyết trình về đề tài ‘Kitô giáo và Cách mạng’ (Christianisme et la révolution). Sau đó, tám nhóm công giáo và tin lành đã ký vào một bản văn có lời đúc kết: ‘Chúng tôi không phải là không biết rằng cuộc cách mạng văn hóa này mặc nhiên tố cáo Kitô giáo trong những hình thức suy tư, phát biểu và hành động của Giáo Hội’. Nhiều sinh viên kitô giáo đã nhiệt tâm ủng hộ những đòi hỏi của khối sinh viên và khối thợ thuyền. Chính họ cũng mong mỏi có những thay đổi trong Giáo Hội, đặc biệt trong cách suy tư và phát biểu của cá nhân cũng như của tập đoàn. Báo Témoignage (Chứng tá) cũng đăng tải một ‘lá thư kêu gọi người kitô’ do 14 nhân vật sáng giá trong Giáo Hội ký tên, cũng đòi phải đẩy mạnh mọi thay đổi, xin đừng để cho Giáo Hội Dân Chúa bị đẩy vào chân tường.
2) Cách mạng ngay từ các họ đạo, thành phố hay đồng quê. Trong một xứ đạo, một giáo phận hay liên giáo xứ, liên giáo phận, đã có những tương quan mới. Giáo dân phát biểu và lãnh trách nhiệm. Bộ mặt của Giáo Hội địa phương được thay đổi. Ðại Hội thường niên của các giám mục tại Lourdes tháng 12.1968, lên tiếng tổ chức lại mục vụ giáo xứ, xác định lại những tương quan giữa linh mục và giáo dân, giữa giáo dân và linh mục. ‘Ðồng trách nhiệm’, ‘cộng tác’, ‘liên đới’ là những cụm từ thường được xử dụng trong thời điểm này. Nhiều vấn đề được nêu lên: việc hưu dưỡng và an sinh xã hội của linh mục, chức phó tế vĩnh viễn, phụng vụ chủ nhật khi không có linh mục, vấn đề độc thân của linh mục, người công giáo dấn thân vào chính trị… Tại Ðại Hội các giám mục ở Lourdes ngày 28.05.1972 bàn về ‘Người kitô hữu làm chính trị’, đức cha Gabriel Maragrin, giám mục Grenoble đã phát biểu: “Nhờ cuộc cách mạng văn hóa, nhiều người đã khám phá ra trách nhiệm của họ về chính trị, họ tự thấy cần có nhiều thay đổi: nhiều Kitô hữu muốn sống đức tin trong chính trị và chính trị trong đức tin…’ (… De nombreux chrétiens aspirent à vivre la foi dans la politique et la politique dans la foi…).
3) Cách mạng vừa đòi hỏi thay đổi vừa gây nên khủng khoảng : Ðó là một điều đương nhiên, ai cũng nhận ra. Trong khuôn khổ gia đình, giữa môi trường học đường, tại xí nghiệp, và trong mọi cấp quốc gia và Giáo Hội : cha mẹ cảm thấy mất uy quyền đối với con cái, thầy cô đối với học trò, cha sở đối với giáo dân, giám mục đối với linh mục, chủ ông đối với nhân công… Vì thế đức hồng y Francois Marty đã tuyên bố : «Xã hội chúng ta đã bùng nổ, đã tan rã… tôi phải buồn lòng xác nhận sự kiện đó ». Cha Yves Congar còn thấm thía hơn : «Tôi cảm thấy thật mạnh mẽ và thật đau đớn rằng : cơn khủng hoảng về quyền bính hiện nay rất trầm trọng… ». Ðức hồng y F. Marty, nhận định thêm : «Muốn có những thay đổi tốt, muốn đi ra khỏi những khủng hoảng quyền bính, giáo hội Kitô phải dạy chúng ta vượt lên trên những lợi ích và quyền hạn cá nhân ».
4) Những mất mát đau thương : Giáo Hội Pháp giống như một người đã lâm cơn bệnh nặng ‘cách mạng 1789 với vi trùng thế tục’, rồi ‘trận đại chiến thứ hai 1940-1945’, vừa tạm bình phục, nay lại bị bồi thêm một ‘cơn bệnh cách mạng văn hóa 1968 với vi trùng thế tục hóa (séculariser)’ (J. René). Những giảm sút về nhân sự và tình trạng sống đạo của giáo dân chúng ta nêu lên dưới đây, chứng tỏ ‘cơn bệnh thật trầm kha’ và không biết chừng nào Giáo Hội Pháp mới bình phục hoàn toàn như ‘người con gái đầu lòng sung sức và đầy nghị lực của Giáo Hội’.
. Những người Pháp xưng mình thuộc Giáo Hội Công Giáo : năm 1972 có 84%, qua năm 1981 giảm xuống 79% và năm 2002 chỉ còn 69% (Kết quả thăm dò của hãng Sofrès-La Croix-Pèlerin)
. Những người công giáo thực hành đạo : năm 1965 còn 25%, qua năm 1972 sụt xuống 21% và năm 1972 chỉ còn 10% (Kết quả thăm dò của hãng CSA-La Vie ; Sofrès-La Croix-Pèlerin).
. Số trẻ thơ sinh chịu Phép Rửa Tội : năm 1960 là 91,1%, qua 1972 còn 82,7% và năm 2000 chỉ còn 52% (số thống kê của Giáo Hội Pháp).
. Số các linh mục triều, năm 1960 có 41.840 linh mục và 595 tân linh mục, qua năm 1975 chỉ còn 34.446 vị với 170 tân linh mục, đến năm 2000, chỉ còn 19.826 vị với 142 tân chức (theo sổ thống kê của Giáo Hội Pháp).
. Số linh mục triều xin hoàn tục : trong khoảng 1960-1964 là 241, 1965-1969 là 485, 1970-1974 là 972 (theo Julien Potel ‘các linh mục triều tại Pháp’).
5) Ði về phía trước : Rõ ràng rằng trong tháng 5.1968, nhiều giáo dân và nhiều phong trào công giáo đã tham dự vào các biến cố… Các đức giám mục đã nắm bắt được những bài học của cao trào cách mạng văn hóa 1968 đối với đời sống của Giáo Hội Pháp. Năm 1975, chính các giám mục đã viết : «Vì đã bén rễ sâu vào lòng nhân loại, các phong trào đôi khi phải chọn lựa những sinh hoạt trần thế mà họ cho là cần thiết cho công việc tông đồ của họ và phù hợp với đức tin của Giáo Hội. Lúc đó họ tự trách nhiệm về hoạt động của họ. Trong sự lựa chọn này họ chỉ cam kết với tư cách là một nhóm kitô hữu mà chính họ gây dựng nên». Giáo Hội Pháp nhận ra rằng : Bày tỏ Ðức Tin bằng một tiếng nói duy nhất không đủ, cần chấp nhận sự hiệp thông đức tin qua nhiều tiếng nói và với những hình thái đa dạng. Trong tinh thần hiệp thông, các linh mục, tu sĩ và giáo dân thuộc các phong trào, xứ đạo hay cộng đoàn, đã ngồi lại bên nhau suy nghĩ, đào sâu, đề nghị và dấn thân… Suy nghĩ và đào sâu về vai trò của giáo dân, về những khó khăn của thừa tác linh mục, về những hướng đi của Giáo Hội, về sự dấn thân tông đồ của giáo dân… Mọi người giúp nhau ý thức về những gì họ nghe được và nhìn thấy trong xã hội đang thay đổi… để chung sức xây dựng Giáo Hội, làm cho tiếng nói đức tin rền vang mạnh hơn trong xã hội họ đang sống… Xã hội đang thay đổi, Giáo Hội cũng cần thay đổi, xã hộïi đang tiến lên, Giáo Hội luôn phải đi về phía trước…
3. Chuyến công du mục vụ của Ðức Thánh Cha Biển Ðức XVI năm 2008 (12-15.9).
Ðức giáo hoàng Biển Ðức XVI biết hơn ai hết rằng : công du nuớc Pháp là đi vào một quốc gia nổi tiếng ‘thế tục’ từ hơn một trăm năm (1879-2008), là đến thăm mục vụ một Giáo Hội đang bị suy yếu, là đến giữa một dân tộc đang có nhiều thành kiến ‘coi ngài là bảo thủ (conservateur), là một giáo hoàng không được nhìn nhận (un pape méconnu) và hiểu biết (incompris). Nhưng nhờ ơn Thiên Chúa và Ðức Mẹ Lộ Ðức, ngài đã đánh tan được hết thành kiến, thu hút dân chúng, nhất là giới trẻ, xoa dịu những ‘căng thẳng của chế độ thế tục’, củng cố và mở thêm cửa ngõ cho đường hướng thế tục tích cực của tổng thống Sarkozy, gây ảnh hưởng tốt ngay với các giới trí thức và văn hóa, đồng thời đem thêm sức mạnh cho Giáo Hội Pháp, và tình thương an ủi cho các bệnh nhân và khách hành hương về Lộ Ðức.
1) Pháp là quốc gia thế tục : Ðây là một lịch sử hiển nhiên của nước Pháp từ sau cách mạng 1789. Cho tới năm 2007 các cuộc thăm dò còn cho chúng ta biết : 30% dân Pháp coi ‘thế tục là vấn đề quan trọng đối với họ’, và 71% chủ trương giữ nguyên vẹn ‘sự tách biệt giữa Giáo Hội với Nhà Nước’. Tuy nhiên 79% dân Pháp đã có những cái nhìn khác về tôn giáo. Cái nhìn của họ gần với quan điểm của tổng thống Sarkozy : 49% nhìn nhận gốc rễ kitô giáo của nước Pháp và 42% nhìn nhận vai trò tạo dựng văn minh của tôn giáo.
2) Giáo Hội Pháp đang suy yếu : Nhân dịp đức Biển Ðức XVI công du mục vụ tại Pháp, hãng Ifop-La Vie thực hiện một cuộc thăm dò :
. Về ảnh hưởng của Giáo Hội Công Giáo trong xã hội Pháp hiện nay, kết quả : chỉ 24% cho rằng Giáo Hội còn ảnh hưởng, và 74% cho là không còn ảnh hưởng (2% không có ý kiến).
. Về ước nguyện cho Giáo Hội có thêm ảnh hưởng : 25% dân Pháp mong cho Giáo Hội có nhiều ảnh hưởng hơn, 20% lại muốn Giáo Hội giảm bớt ảnh hưởng, và 52% lại chỉ muốn Giáo Hội cứ ở tình trạng hiện nay.
. Về vấn đề họ muốn Giáo Hội phải quan tâm hơn cả : 58% là vấn đề gia đình và giáo dục, 56% là vấn đề liên đới, 44% là vấn đế đạo đức và luân lý. (Chỉ 14% là vấn đề ‘bảo vệ môi trường’, ‘hội thảo về xã hội’, ‘sinh hoạt văn hóa’, 10% ‘luân lý hoá vấn đề kinh tế’, 7% là sinh hoạt chính trị, 3% là vấn đề truyền thông, 7% các vấn đề linh tinh khác).
. Về riêng đức giáo hoàng Biển Ðức XVI : Trước tiên theo thăm dò của Ifop-La Vie, với câu hỏi ‘Bạn nghĩ là Ngài bênh vực tốt hay không tốt các giá trị của đạo Công Giáo ?, thì 54% trả lời ‘vừa đủ, không tốt không xấu’ (ni bien ni mal), 28% cho là ‘tốt’ (plutôt bien), và 15% cho là ‘xấu’ (plutôt mal).
. Về số các linh mục : Nhân bài đức Biển Ðức XVI kêu gọi người trẻ dấn thân theo ơn gọi tận hiến linh mục hay tu sĩ, báo La Croix cho chúng ta mới về con số các linh mục triều và dòng như sau :
+ Linh mục triều tại Pháp : Năm 1990 có 25.000, qua năm 2000 còn 19.235, và đến năm 2006 chỉ còn 15.440 linh mục.
+ Linh mục dòng tại Pháp : Năm 1990 có 7.064, qua năm 2000 còn 6.119, và hiện nay chỉ còn 5.003 linh mục.
+ Số tân linh mục trong năm 2007 : linh mục triều chỉ có 101, và linh mục dòng có 50 vị. Số tân linh mục không thể bù đắp lại số các linh mục vể hưu hay từ trần.
+ Chính vì ơn gọi giảm sút quá nhiều, nên nhiều tu viện bị đóng cửa, nhiều họ đạo không có linh mục, nhiều sinh hoạt mục vụ trong họ đạo bị ứ đọng. Mặc dầu có nhiều giáo dân tự nguyện đóng góp, nhưng không tài nào đáp ứng đủ !
3) Ðánh tan thành kiến : Ðại diện cho dân Pháp nói chung, 16.883 độc giả của báo Figaro cho biết ý kiến về câu hỏi ‘Bạn có thiện cảm (bonne image) với đức giáo hoàng Biển Ðức không ?’, thì 58% trả lời có, và 42% trả lời không. – Riêng hàng giáo sĩ Pháp, thì Guillaume Tabard đã viết : «Hàng giáo sĩ Pháp đã hiệu chính lại phán đoán của mình về đức cựu hồng y Ratzinger » (Le clergé francais a revisé son jugement sur l’ancien cardinal Ratzinger). Chúng ta có nhiều chứng từ xác đáng. Như lời của cha Philippe Hénaff (Issy-les-Moulineaux) : «Ðã từ lâu, chúng tôi biết ngài là một đại trí thức, và bây giờ chúng tôi khám phá ra ngài là mục tử chính hiệu ». Một linh mục ở Paris : «Sau khi đọc cuốn ‘Chúa Giêsu thành Nazareth’, các linh mục tìm đọc lại những tác phẩm trước đây của đức hồng y Ratzinger, và họ rất trân trọng cả tư tưởng lẫn tư cách của ngài ». Báo Figaro ra ngày 13.9.08 còn cho danh tánh nhiều giám mục Pháp ‘thuộc thế hệ của Ðức Biển Ðức XVI’. Nữ tu Maria Magdalena, 74 tuổi, dòng Con Ðức Mẹ Lên Trời tuyên bố : ‘Tôi đã trở lại (convertie) với đức giáo hoàng Biển Ðức XVI, (vì trước đây tôi có nhiều thành kiến về ngài), bây giờ tôi nhận rõ ngài là mục tử khiêm nhường, là con người ‘ngôn hành hợp nhất’…
4) «Hãy trả cho César cái gì thuộc về César và cho Thiên Chúa cái gì thuộc về Thiên Chúa» (Mc 12,17). Với câu Phúc Âm này, đức giáo hoàng Biển Ðức XVI đã nêu lên rõ ràng mối tương quan giữa Giáo Hội và Nhà Nước, hay nói cách cụ thể ‘sự phân biệt giữa các quyền bính đạo và đời’. Với lời Phúc Âm này, ngài không những đã xoa dịu mà còn mở ra một nhãn giới mới về thế tục, khiến người ta gọi là ‘thế tục đã được êm dịu hóa’ (la laicité apaisée) hay ‘thế tục thánh thiện’ (la sainte laicité) của đức Biển Ðức XVI. Nếu đức giáo hoàng công nhận sự hiển nhiên của thế tục trong nghĩa phân biệt quyền bính, thì đồng thời ngài nhấn mạnh cho nước Pháp và dân Pháp về nguồn gốc văn hóa kitô của họ. Ðây cũng là một sự kiện lịch sử hiển nhiên. Nếu đức giáo hoàng tán thưởng chủ trương ‘thế tục tích cực’ của tổng thống Sarkozy, thì ngài không quên nhấn mạnh đến những vai trò không thể thay thế được của tôn giáo trong nước Pháp thế tục, đặc biệt vai trò đào tạo lương tâm, thăng tiến con người toàn diện…
5) Nói với thế giới văn hóa : Một trong những việc làm quan trọng của chuyến công du của đức giáo hoàng Biển Ðức XVI tại Pháp, là ‘đọc bài diễn văn cho thế giới văn hóa’ tại Collège des Bernerdins : mời thế giới văn hóa đi đến tận gốc nguồn của việc tìm kiếm thiêng liêng, tìm kiếm Thiên Chúa. Ngài quảng diễn tài tình câu nói vắn gọn của thánh Phaolô ‘Chữ viết thì giết chết nhưng Thần Khí thì ban sự sống’ (2Cr 3,6). Theo nhận định của đức cha Claude Dagens, giám mục giáo phận Angoulême và thành viên của Hàn Lâm Viện, thì « Ðức Biển Ðức XVI luôn trung thành với chính mình, ngài bày tỏ rõ ràng rằng : điều cốt yếu chính là cảm nghiệm về Thiên Chúa, là sự tìm kiếm, hiểu biết về mạc khải của Thiên Chúa. Ngài đã dẫn chúng ta về tận nguồn gốc văn hóa âu châu bằng cách chỉ cho chúng ta thấy ‘gốc rễ của mọi gốc rễ chính là sự tìm kiếm Thiên Chúa… Qua lời nói của đức thánh cha, tôi tìm lại được những điều khi còn là sinh viên, tôi đã học biết tại đại học Sorbonne, về truyền thống đan tu, về các thánh Benoit, Grégoire le Grand, Augustin… Tôi vui mừng vì bài diễn văn của ngài gần gũi với chương trình giảng dạy của một quốc gia thế tục về lịch sử và văn chương kitô giáo ». Văn hào Julia Kristeva cho rằng : «Bài diễn văn của đức giáo hoàng là một bước tiến quan trọng về chính trị hội nhập văn hóa » (un pas important dans la politique d’inculturation). Còn ông Muriel Mayette, tổng giám đốc kịch trường pháp lại phát biểu : «Bài diễn văn đầy khích lệ cho thế giới nghệ thuật và ý niệm (le monde des arts et des idées)… Ðối với đức hồng y André Vingt-Trois, thì «Chưa nói đến nội dung của bài diễn văn, nguyên sự hiện diện của đức giáo hoàng Biển Ðức XVI trong Collège des Bernardins đã là một dấu chỉ lớn, đầy ý nghĩa về chỗ đứng và hoạt đôïng của kitô giáo trong những bối cảnh đặc biệt của các xã hội âu châu». Sau cùng bà Isabelle de Gaulmyn đã nhận định vắn tắt : «Ðức giáo hoàng đã ca ngợi chủ trương thế tục của Pháp, không nguyên vì nó không mâu thuẫn với đức tin, nhưng chính ‘thế tục là một thành quả của đức tin» (laicité est même un fruit de la foi). Quả thật, trong chuyến công du nước Pháp lần này, đức giáo hoàng là một tông đồ có một phong thái bình thản ».
6) Những bản văn lớn về việc đối thoại giữa đức tin và lý trí : Ðức giáo hoàng Biển Ðức XVI không chỉ trung thành với chính mình mà còn trung thành với đấng tiền nhiệm của Ngài nữa. Vì trước bài diễn văn ‘cho thế giới văn hóa’ tại Collège des Bernardins, đã có những bản văn lớn khác về việc đối thoai giữa đức tin và lý trí rồi.
. Thông điệp ‘Ðức tin và Lý trí’ (Fides et Ratio) của đức Gioan-Phaolô II (1998) : ‘Ðức tin và lý trí là đôi cánh giúp tâm trí con người bay lên cao mà chiêm ngắm chân lý… Ðức tin được xây trên việc làm chứng về Thiên Chúa và hưởng nhờ sự giúp đỡ siêu nhiên của ơn sủng, thì thực tế, thuộc về trật tự khác với trật tự hiểu biết của triết học. Còn kiến thức triết học thì dựa trên sự nhận thức của giác quan, trên kinh nghiệm và chỉ phát triển theo ánh sáng của trí tuệ thôi’.
. Bài diễn văn đọc ngày 12.09.2006 tại đại học Ratisbonne : ‘Trong thế giới tây phương bị dư luận bá chủ cách rộng rãi, chỉ mình lý trí thực dụng và những hình thức trết học thoát thai từ đó, mới là phổ biến. Vì thế, những nền văn hóa đậm mầu sắc tôn giáo của thế giới lại nhìn thấy rõ ràng rằng : việc loại bỏ yếu tố thần linh khỏi phổ quát tính của của lý trí, hiển nhiên là một vi phạm nặng nề vào những xác tín thâm sâu nhất của các nền văn hóa ấy. Một lý trí còn giả điếc trước yếu tố thần linh và cố tình dồn tôn giáo vào phạm trù văn hóa thấp kém (sous-cultures), thì không thể đi vào việc đối thoại văn hóa được’.
. Bài diễn văn (chưa đọc) định vào ngày 17.01.2008 tại đại học La Sapienza (Roma) : ‘Thần học và triết học là một đôi bạn từ nguyên thủy, không thể tách rời nhau, nhưng mỗi bên giữ trọn vẹn chức vụ và căn tính riêng của mình… Triết học phải thực sự có tự do và trách nhiệm tìm kiếm lý trí. Triết học phải nhìn thấy những giới hạn cũng như thiên chức lớn lao và phạm vi rộng rãi của mình… Thần học phải tiếp tục múc lấy từ kho tàng kiến thức mà chính nó đã không sáng chế ra. Kho tàng kiến thức luôn vươn xa và không bao giờ khô cạn trong việc suy tư, để luôn có những tư tưởng mới mẻ’.
7) Trách nhiệm của mục tử giữa đàn chiên : Ðến đây chúng ta có thể đặt câu hỏi : trong chuyến công du mục vụ này, đức giáo hoàng biển đức đem lại những gì trực tiếp liên hệ đến đời sống đạo của tập thể công giáo Pháp ? Xin thưa cách vắn tắt rằng :
. Với 2.000 linh mục và tu sĩ trong giờ Kinh Chiều ở Notre Dame de Paris: Ðừng sợ ! Hãy vui lên và bền vững sống trong nhà Chúa, vì ‘Laetatus sum in his quae dicta sunt mihi : ‘Vui dường nào khi thiên hạ bảo tôi ‘Ta cùng trẩy lên đền thánh Chúa’ (Tv 121,1).
. Với 7.000 giới trẻ trên quảng trường Notre Dame de Paris: Ðừng sợ ! các con hãy trở thành những kitô hữu tốt trong xã hội. Các con hãy nhận lấy hai kho tàng lớn lao cho đời sống đạo của các con là Chúa Thánh Thần và Cây Thập Giá của Ðức Kitô.
. Với 26.000 giáo dân trên bãi cỏ Invalides : Ðừng sợ ! Hãy xa tránh việc thờ ngẫu ảnh tượng (1Cr 10,14) của thời đại, ham muốn quá độ tiền bạc, quyền hành, kiến thức đã khiến con người xa lià Cứu cánh đích thực, bị mất Chân lý của riêng mình ! Muốn từ bỏ ‘ngẫu tượng thời đại’, anh chị em hãy sốt sáng tôn thờ Chúa Giêsu Thánh Thể, tham dự Thánh Lễ Tạ Ơn. Vì không thể một trật ‘anh chị em vừa uống chén của Chúa, vừa uống chén của ma quỷ được’ (1Cr 10,21) ;
. Với hơn 100 hồng y và giám mục Pháp tại Lộ Ðức : Ðức giáo hoàng nói với các giám mục quan điểm của ngài về Phung Vụ, Giáo Lý, Gia Ðình, Ơn gọi tận hiến và các linh mục. Sau cùng, ngài trở lại vấn đề thế tục : ngài chào mừng việc nhìn nhận và đề cao gốc rễ kitô của nước Pháp, ngài kêu gọi ‘tìm được một luật pháp mới mà không làm suy giảm sự quân bình hiến pháp’ và cần ‘am tường luật của năm 1905’.
. Với 25.000 bệnh nhân và khách hành hương tại Lộ Ðức : Lúc bắt đầu đường Thánh Giá, đuc giáo hoàng đã cầu nguyện lớn tiếng «Lạy Chúa, bằng phép Rửa tội, Chúa đã mở cho chúng con vào Nước Chúa, chớ gì trong cuộc hành hương tại thánh địa này đổi mới chúng con trong ơn sủng của Chúa ». Ngài cũng khuyên nhủ các bệnh nhân « Chớ gì ơn Chúa tràn đầy nơi anh chị em để thánh ý Chúa được thể hiện nơi anh Chị. Chúa là sức mạnh, là niềm an ủi và là phần thưởng bội hậu của anh chị em… ».
……………………………
Ðọc xong những trang trên đây, chúng ta có hai nhận định :
1. Nước Pháp đã theo chủ trương thế tục kể từ cách mạng 1789 và hành động thế tục mãnh liệt nhất là ‘dứt khoát tách biệt Nhà Nước và Giáo hội từ năm 1905’, rồi sau Ðại Thế Chiến II, thế tục được hiến pháp 1958 công nhận minh bạch. Ðến năm 1968, với danh nghĩa ‘cách mạng văn hóa’, thế tục lại được biểu dương thêm. Nhưng thế tục đã ‘mất giá’ mau chóng và buộc phải ‘chuyển mình’. Sau cùng người muốn ‘canh tân chủ trương thế tục’ chính là tổng thống đương kim Nicolas Sarkozy với một đường hướng mệnh danh là ‘thế tục tích cực’.
2. Muốn hay không, Giáo Hội Pháp vẫn phải sống trong một ‘quốc gia chủ trương thế tục’ và dĩ nhiên phải chịu đựng nhiều mất mát lớn lao, đến nỗi, sau khi đọc những trang trên, có lẽ ai trong chúng ta cũng cảm thấy một cái gì cay đắng, và xao xuyến : Giáo Hội Pháp sẽ đi về đâu ?… Ðó là tâm tình tự nhiên của những người ở trong Giáo Hội và yêu mến Giáo Hội. Nhưng đừng để vì thế, mà đức tin chúng ta bị giao động. Hãy lắng nghe lời mời đầy nghị lực và phấn khởi của đức Gioan Phaolô II và của đức Biển Ðức XVI : « Ðừng sợ ! Anh chị em đừng sợ ! ». Hãy bình tĩnh đọc lại lời của đức cố hồng y Phanxicô Nguyễn Văn Thuận : «Hội Thánh có nhiều khuyết điểm và gương xấu, nhưng Hội Thánh có lời hứa của Chúa. Hội Thánh là một phép lạ liên lỉ… » (ÐHV 264). « Phêrô, con là đá, Ta xây Hội Thánh Ta trên đá này, và cửa hỏa ngục mở tung không thắng nổi ». Hai mươi thế kỷ qua, bao nhiêu thăng trầm, bao nhiêu biến động, nội công ngoại kích, lắm giai đoạn đến mức tuyệt vọng, nhưng Hội Thánh Chúa không phải đoàn hội của loài người (ÐHV 249). « Vậy hãy yêu mến Hội Thánh, vâng lời Hội Thánh, trung thành với Hội Thánh và cầu nguyện cho Hội Thánh (ÐHV 248).
------------------------
Tài liệu tham khảo :
1) Patrick Cabanel, ‘Entre religions et laicite’, Privat, 2007.
2) Henri PenâRuiz, ‘Histoire de la laicité, genèse d’un idéal’ , éd. Isabelle de Coulibeuf, 2005.
3) Paul Christophe, Les Prêtres dans la Révolution 1789, éditions ouvrières, 1986
4) Jean Michel Ducomte, ‘La Laicité’, les Essentiels Milan, 2004
5) Michel Dubost, ‘Théo, l’Encyclopédie catholique pour tous’, La Vie-Fayard-Droguet, 1993.
6) Documentation catholique, 2394, 01.2008
7) Revue ‘La Croix’, 03-04-05, 09. 2008
8) Revue ‘Pèlerin’. 01.2008
9) Revue ‘Le Monde’ (Hors-série 2) ‘1968 Révolutions’, avril 2008.
10) Figaro 11-15.09.08 – Figaro Magazine 13.09.2008.
11) La Vie (numéro exceptionnel) 11-17.09.08
12) Paris Notre Dame 4-17.09.2008.