Ông Bà Thánh Louis (1823-1894) Zélie (1831-1877) Martin
Gương nên thánh và giáo dục gia đình
Mai Ðức Vinh. Phạm Bá Nha
Ông Bà Thánh
Louis (1823-1894) Zélie (1831-1877) Martin
Gương nên thánh và giáo dục gia đình
I. Ðường Nên Thánh
Tôi dựa theo cuốn sách ‘Louis et Zélie Martin, Les saints de l’ordinaire’ (Ông Louis và bà Zélie Martin, những thánh nhân bình thường) của bà Hélène Mongin (Éd Emmanuel, Paris 2008) để trình bày sơ lược về ‘‘linh đạo’’ hay ‘‘đường nên thánh’’ của đôi ông bà Louis-Zélie được Giáo Hội tôn phong chân phước 19.10. 2008 tại Lisieux, trong vương cung thánh đường dâng kính thánh nữ Têrêsa Hài Ðồng Giêsu, Tiến Sĩ Giáo Hội và con gái út của hai chân phước. Và mới đây, 18.10.2015, ÐGH Phanxico phong Hai Vị lên bậc hiển Thánh tại Ðền thờ Thánh Phêrô. Trong dịp Thượng Hội Ðồng Giám Mục thế giớI, về gia đình họp tuần cuối, tại Roma.
1. Cha mẹ mở đường nên thánh.
Sau Thiên Chúa, cha mẹ là người mở đường cho con cái sống đạo và nên thánh thiện. Louis sinh 1823, tại Bordeaux. Ba làm sỹ quan trong quân đội Napoleon, nên đem gia đình sống nay đây mai đó. Tuy nhiên có một điều trước sau như một, ông có một niềm tin sâu xa đã làm bỡ ngỡ nhiều người. Lần kia quân lính hỏi ông ‘tại sao vào nhà thờ ông quỳ lâu như vậy ?’. Ông trả lời ‘vì tôi tin’. Năm 1818, ông lập gia đình với cô Fanny Boureau, cũng là một thanh nữ đầy niềm tin. Niềm tin của bà bộc lộ đặc biệt trong việc chuyên cần cầu nguyện, như nhiều lần bà đã viết cho Louis, con trai của bà : ‘Bao lần mẹ đã nghĩ đến con, khi tâm hồn mẹ nâng lên với Chúa, lăn xả vào trái tim Chúa, gục mình dưới chân Ngài, mẹ sốt sắng cầu nguyện với tất cả tâm hồn’. Cho tới năm 1830, đại úy Martin được về hưu và trở lại sinh quán, định cư tại tỉnh Alençon, miền Normandie.
Còn Marie-Zélie Guérin, chào đời năm 1831 tại Saint-Denis-sur-Sarthon, miền Orne, trong một
gia đình quân nhân, ba là trung sĩ Isidore Guérin và mẹ là bà Louise-Jeanne. Thân mẫu của Zélie là một bà mẹ đạo đức nhưng khắt khe về đời sống luân lý. Khi giải ngũ, ông Guérin cũng đem gia đình về sinh sống tại Alençon. Chật vật trong phạm vi kinh tế, gia đình ông bà luôn là một gia đình công giáo gương mẫu, trung thành với việc sống đạo, nhất là việc giữ lễ ngày Chúa Nhật. Nhờ đó, cũng như gia đình ông bà Martin, gia đình ông Guérin đáng gọi là ‘những cây lành trổ sinh hoa quả tốt’ là con cái ngoan hiền, đầy niềm tin...
2. Chúa vẽ thẳng những con đường cong queo.
Louis Martin lớn lên trong bầu khí gia đình êm ả của tình thương cha mẹ và điều kiện sống vật chất. Tính tình Louis rất nhậy cảm trước những cảnh đẹp thiên nhiên, những áng văn hay và những bản nhạc dịu dàng. Vì thế, Louis cảm thấy mình có ơn gọi chiêm niệm, chàng đã đến gõ cửa tu viện Biển Ðức, nhưng bị từ chối vì Louis không biết tiếng latinh... Louis suy nghĩ, cầu nguyện và can đảm đón nhận thánh ý Chúa. Chàng xin ba mẹ cho đi học nghề sửa đồng hồ. Khi đi học cũng như lúc ra hành nghề, nếp sống thường ngày của Louis được cha Stéphane-Joseph Piat, tác giả cuốn ‘Histoire d’une Famille’, Paris 1946 đã tóm tắt : Học cần cù, làm việc nghiêm chỉnh, cầu nguyện chuyên cần với niềm tin, dạo chơi nhìn ngắm cảnh thiên nhiên. Thấy con sống đoàng hoàng, đạo đức và hiếu đễ, bà Fanny Martin rất hài lòng, coi như một hồng ân lớn Chúa ban cho bà và gia đình. Tuy nhiên, bà không muốn Louis thành ‘cậu trai già’ (vieux garçon), bà cầu nguyện xin Chúa cho Louis đổi ý, ‘mau tìm thấy người bạn trăm năm đạo hạnh’.
Ðiều bà cầu xin, Chúa đã nhậm lời. Số là cô Marie-Azélie Guérin, sinh năm 1831 tại Saint-Denis-sur-Sarthon, miền Orne, trong một gia đình quân nhân hưu trí, sống tại Alençon. Tuy sinh ra trong gia đình đạo đức, nhưng Zélie không được cha mẹ chiều chuộng. Bà Louise-Jeanne, thân mẫu, thường xử đối nghiêm khắc với Zélie, đôi khi Zélie cảm thấy bất công và bị hất hủi. May là Chúa ban cho Zélie có đức tin vững mạnh để chấp nhận và vui sống trong tuổi trẻ trước những đường cong queo của cuộc đời... Học nghề làm ren vừa xong, Zélie ước muốn vào dòng Nữ Tử Bác Ái (Filles de Charité). Nhưng Zélie không được toại nguyện, vì bà bề trên trả lờI : ‘Tôi không nghĩ là cô có ơn gọi tu trì’... Zélie lại xin vào dòng Thăm Viếng ở Mans với cô em gái, nhưng không được đón nhận... Cô chỉ còn biết cầu nguyện và làm việc, đợi ngày nhận ra con đường Chúa chỉ vẽ cho... Ðó là con đường ‘đời sống gia đình’. Vì ba tháng sau khi cô em vào dòng Thăm Viếng, Zélie bất ngờ gặp được Louis Martin, hai người đi giao nhau trên chiếc cầu mới của thành phố Alençon. Không còn xao xuyến đứng giữa ngã ba đường, cả hai bắt đầu ‘con đường thẳng’, con đường hôn nhân...
3. Thương nhau
là cùng nhau đi trên một con đường.
Hai người trẻ, gặp nhau vào tháng 4.1858, họ thương nhau thực tình, cả hai đều xác tín ‘đây là khởi đầu con đường thẳng Thiên Chúa vạch ra cho cả hai’. Vì thế, họ mau lẹ quyết định đến xin một linh mục hướng dẫn và chuẩn bị lễ hôn phối vào ngày 13. 07. 1858. Thời gian vắn, nhưng là thời gian cầu nguyện nhiều để chuẩn bị cho ngày đẹp nhất của đời sống : ngày lãnh nhận Bí Tích Hôn Phối. Cả hai cầu nguyện như đôi bạn Tobia và Sara trong Thánh kinh (x.Tb 8,7tt), chân tình với nhau trong niềm tin và bổn phận như thánh Giuse và Ðức Maria. Về sau có dịp viết thư cho Pauline, con gái lớn, bà Zélie đã tâm sự : ‘Từ đầu đời sống chung, ba mẹ đã hiểu nhau, kính trọng nhau, không ai làm phiền lòng nhau... Do đó tình thương ba mẹ dành cho nhau mỗi ngày một dâng cao, một phong phú và chắc chắn là làm đẹp ý Chúa... Mẹ nghiệm rõ thêm, đời sống vợ chồng cũng là một ơn gọi... Mẹ không bao giờ hối tiếc vì đã kết hôn với ba’ (xem cuốn Corespondance familiale (1863-1885), Ed. du Cerf, Paris 2004 thư 192. Từ đây viết tắt là CF và số thư).
Ðến khi có con, đời sống của Louis và Zélie bước vào một giai đoạn mới: ‘Vì con cái, đời sống của chúng tôi có phần thay đổi một chút. nhưng cốt yếu là sống cho các con, tìm thấy nơi chúng nguồn hạnh phúc, trên đời không gì qúi hơn các con’ (CF1). Sau năm năm thành hôn, bà Zélie viết ‘Tôi luôn hạnh phúc với Louis. Anh ấy làm cho đời sống thêm êm ả. Với tôi, anh ấy vừa là chồng vừa là người đàn ông thánh thiện. Tôi mong ước cho mọi người mẹ gia đình có được những người chồng như vậy’ (CF102). Và mỗi khi nói về chồng của mình, bà Zélie luôn dùng cụm từ ‘anh Louis tốt lành của tôi’ (mon bon Louis). Ông Louis cũng vậy, ông rất kính trọng và yêu thương bà cũng như các con. Ông thường nói với bà ‘Anh ôm hôn em với cả trái tim của anh... Anh yêu em hơn sự sống của anh... Anh muốn dành tất cả cho em... (Je t’embrasse de tout mon coeur , je t’aime plus que ma vie, Toute à toi) (CF 47, 208).
Càng thương nhau, ông bà Louis và Zélie Martin càng thấy rõ hướng đi và mục đích của đời sống mà chúng ta có thể tóm lại trong cụm từ ‘làm tôi Thiên Chúa trên hết’ (Dieu premier servi). Từ đó cả hai ông bà đều nằm lòng điều họ đã mơ ước và quyết định từ tuổi trẻ và tiếp tục theo đuổi cả đời là ‘sống thánh thiện’. Nếu bà Zélie đã khẳng định ‘Tôi muốn trở nên một vị thánh’ (je veux devenir une sainte), thì ông Louis đã tâm sự với các con ‘Phải, ba có một mục tiêu, mục tiêu đó là yêu mến Thiên Chúa hết lòng’ (Oui, j’ai un but et mon but c’est d’aimer Dieu de tout mon coeur) (CF 110).
4. Con đường nên thánh :
đời sống của những kitô hữu bình thường.
Ông Louis và bà Zélie ước ao nên thánh, quyết tâm nên thánh bằng những công việc căn bản của mọi kitô hữu : chu toàn bổn phận trong gia đình, trong nghề nghiệp, sống đời sống bí tích, trung thành với việc cầu nguyện, tham gia sinh hoạt giáo xứ và góp phần vào những công việc bác ái từ thiện. Sau đây là những lời chứng :
‘‘Louis và Zélie nhận ra tiếng Chúa gọi ‘muốn gia đình đông con và chung sức nuôi dưỡng con cái bằng việc làm và lòng đạo đức’
‘Zélie là người nội trợ tốt của Louis và Louis là người ‘bổ túc tuyệt vời’ của Zélie’.
Zélie vừa thông minh vừa giầu nghị lực... còn Louis là người đàn ông làm việc, dịu dàng và bình tĩnh...’
‘Cả hai tương kính và nhất trí với nhau trong mọi việc, nhất là trong việc giáo dục con cái’.
‘Họ là một đôi bạn gương mẫu sống Phúc Âm... Lúc chúng tôi còn ngủ thì vợ cồng Martin đã đóng cửa đi tới nhà thờ’.
‘Hình như họ có thói quen đi dâng lễ nhất, lúc 5g30, trước khi đi làm... Dĩ nhiên họ không thiếu lễ chủ nhật, thiếu giờ kinh chiều và chầu Mình Thánh Chúa...’
‘Cả hai ông bà Martin lãnh nhận đều đặn Bí Tích Hòa Giải, vì họ hiểu sâu xa về lòng thương xót của Thiên Chúa...’
‘Cả hai ông bà Martin rất gắn bó với giáo xứ : họ tham dự tích cực mọi sinh hoạt, từ việc tổ chức tuần đại phúc, việc đón tiếp các thừa sai, lạc quyên tài chánh...’
‘Gia đình Martin thân quen với nhiều dòng tu, đặc biệt dòng thánh Clara, dòng thánh Phanxicô...’
5. Con đường trọn lành
luôn đi qua Thập Giá.
Quả vậy, không có sự thánh thiện nào mà không có chiến đấu thiêng liêng. Cả sáu cô con gái, Pauline, Léonie, Marie, Hélène, Céline và Thérèse đều làm chứng và thán phục ‘đức nhẫn nại và chịu đựng của thân mẫu’. Các cô cũng nhận thấy ‘những hy sinh nho nhỏ, kín đáo nhưng cương quyết của thân phụ : không hút thuốc, không ngồi bắt chân lên đầu gối, không uống nước trong bữa ăn, đi tầu vé hạng ba để dành tiền cho kẻ khó, không đòi hỏi tiện nghi... Ông bà ‘phụng sự Chúa trên hết, và nhờ đó có tinh thần xã hội bao la, theo khẩu hiệu ‘Trái tim trong Chúa, đôi chân trên đất’ (Le coeur en Dieu, les pieds sur terre).
Khi nói về những khó khăn, thử thách Chúa gửi đến cho ông bà Martin, P.Piat đã định nghĩa linh đạo của ông bà bằng ba nguyên tắc : ‘Quyền tối cao của Thiên chúa, tín thác vào sự Quan phòng của Chúa, bỏ mình vâng theo ý Chúa’ (Souveraineté de Dieu, Confiance en sa Providence, abandon à sa Volonté). Người ta cũng nghĩ là hai ông bà đã nằm lòng lời thánh Augustin : ‘Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên chúng con cho Chúa, và tâm hồn chúng con còn sao xuyến mãi cho tới khi được an nghỉ trong Chúa’. Chính ông bà đã bộc lộ đức tin và lòng cậy trông qua các thư viết cho các con. Bà Martin viết : ‘Khi nghĩ đến Thiên Chúa nhân lành mà mẹ đã từng ký thác mọi công việc làm của mẹ, và nghĩ đến bao nhiêu điều Chúa đã làm cho ba và cho mẹ, thì mẹ hoàn toàn tin tưởng vào ơn quan phòng Ngài sẽ lo cho các con của mẹ’ (CF3). Bà Zélie thường nói với những người quen biết : ‘Khi gặp sự khó khăn, tôi hoàn toàn vâng theo và trông cậy vào ơn trợ giúp của Thiên Chúa nhân lành’ (CF 140). ‘Tôi chấp nhận thực tại đau khổ nhờ kết hợp với Thánh Giá của Chúa Kitô,... Tôi chấp nhận mọi đau khổ vì lòng yêu mến Chúa và hy vọng đạt tới Nước Trời’ (Robert Cadéot, ‘Zélie Martin, mère incomparable de Sainte Thérèse de l’Enfant-Jésus, Paris, Guibert, 1966, tr.103). Phải chăng đó là đời sống đức tin, đức cậy và đức mến đã giúp ông bà Martin can đảm đón nhận những biến cố đau buồn xẩy đến cho gia đình, đặc biệt trong hai trường hợp :
Năm 1865, lúc bà vừa 34 tuổi, bác sĩ đã cho biết bà ‘có dấu bị ung thư’, và bà âm thầm chịu đựng với chữ ‘xin vâng’ của Ðức Mẹ. Mười một năm sau, 1876, bệnh tình tái phát và phát triển mau chóng. Bà Zélie luôn tỏ ra bình tĩnh để giữ tinh thần cho chồng, cho các con. Cả gia đình ruột thịt, cả họ hàng và những người thân quen cầu nguyện cho bà ... Giữa những cơn đau, bà chỉ nói luôn miệng ‘Lạy Chúa, Chúa đã dựng nên con, xin Chúa thương xót con cùng’ (Ô Dieu qui m’a créée, ayez pitié de moi !). Khi hay tin bà qua đời linh mục giải tội đã thốt lên: ‘Trên trời lại có thêm một vị thánh nữ’ (Il y a une sainte de plus au Ciel).
Vì ít thư từ với các con, nên ông Marin ít bộc lộ những cảm nghĩ về đời sống đạo, về cách nên thánh của ông. Ðiều chắc chắn ông là tín hữu đầy đức tin và bình tĩnh, can đảm trong mọi biến cố đau buồn của gia đình, nhất là trong cơn bệnh đau đón, lâu dài và cái chết qúa sớm của người vợ hiền, trước năm mặt con còn thơ dại. Với đức tin vững mạnh và lòng phó thác thâm sâu, tinh thần bổn phận cao cả... ông Martin đã chu toàn trọn trách nhiệm ‘gà trống nuôi con’ đẹp lòng Chúa và nên gương cho mọi người. Cầu nguyện là nguồn sức mạnh của ông. Thánh Têrêsa đã viết cho chị Pauline : ‘Em chỉ nhìn ngắm ba để biết các thánh cầu nguyện như thế nào... Em thường nghe ba lặp đi lặp lại hai câu ‘Thiên Chúa đầy lòng quảng đại... Lạy Chúa xin thêm đức tin cho con’. Và người nâng đỡ ông là các con, nhất là khi họ đã khôn lớn và vào dòng tu, nhưng đặc biệt hơn cả chính là bà Zélie quá cố. Chính ông đã tâm sự năm 1885 : ‘Ba luôn nghĩ tưởng về mẹ các con, Mẹ các con vẫn sống gần ba’ (CF 228). Trong tuổi già, trong cơn bệnh cuối đời, ông Martin thường nói với các con và những người chăm sóc ông : ‘Tất cả vì vinh quang của Chúa... Ðừng sợ gì cho ba, vì ba là bạn của Chúa nhân lành’ (Tout pour la gloire de Dieu... ne craignez rien pour moi, car je suis l’ami du bon Dieu). Ngày 28.07.1894, sau khi lãnh nhận các Bí Tích cuối cùng, ông Martin đã tắt thở giữa lời cầu xin của Céline người con gái đứng bên giường van xin ‘Giêsu, Maria, Giuse’.
6. Những bông hoa trên đường nên thánh.
Trước tiên, đức tin, đức cậy, đức mến là những ‘bông hoa mẹ’ (fleurs-mères) của mọi người kitô hữu dâng lên Chúa mỗi ngày. Nhờ những ‘bông hoa mẹ’ ông bà Martin có thêm những bông hoa tươi đẹp khác là những đức tính tự nhiên và siêu nhiên của một người bình thường sống trong gia đình, họ đạo, và xã hội. Người ta nói đến những đức tính bạt thiệp, kín đáo, khiêm nhường, quảng đại, đạo đức của hai ông bà... Người ta đề cao đức tính nhịn nhục, dịu dàng của bà Zélie, đức tính thẳng thắn, chuyên cần, can đảm của ông Louis...
Những bông hoa khác thật xinh, thật đượm hương thơm ông bà Martin ra sức vun trồng để dâng cho Chúa đó là các con Chúa đã trao ban. Mỗi người con đều là kết tinh của ‘mối tình hôn nhân thánh thiện’, là ‘hoa trái của những đức tính siêu nhiên và tự nhiên của cha mẹ’, là ‘công trình giáo dục con cái bằng gương sáng hơn là bằng lời nói’... nói tắt con cái là hồng ân Chúa ban cho ông bà. Bà Zélie mất sớm, ông Louis tiếp tục vun trồng vườn hoa ngũ sắc và lần lượt dâng cho Chúa và Giáo Hội, cũng là cho cả xã hội con người. Ông sung sướng viết cho các con của ông : ‘Ba sung sướng cám ơn Chúa và ba xin các con cũng cám ơn Chúa nữa, vì ba cảm thấy rằng gia đình chúng ta, dù thấp hèn, đã được Thiên Chúa nhân từ ban cho một vinh dự lớn lao là cả gia đình thuộc số những người ưu tuyển của Ðấng Sáng tạo đáng tôn thờ’ (CF 231).
7. Lời kinh cảm tạ và cầu xin
Bà Hélène Mogin đã kết thúc cuốn sách bằng lời kinh sau đây :
‘‘Lạy Thiên Chúa tình yêu vĩnh cửu, chúng con cảm tạ Chúa đã biến hai chân phước vợ chồng Louis và Zélie Martin, nên gương mẫu thánh thiện trong đời sống hôn nhân. Ông bà đã sống vững vàng đức tin và đức cậy giữa những bổn phận và khó khăn của cuộc đời. Ông bà đã quan tâm giáo dục các con trở nên những vị thánh. Vì lời chuyển cầu và gương sáng của hai chân phước, chúng con nài xin Chúa nâng đỡ các gia đình trong đời sống công giáo và giúp chúng con cũng đạt tới sự thánh thiện’’. Amen
II. Gương Cha Mẫu Mẹ
Gương sáng của cha, mẫu mực của mẹ là đường lối giáo dục tốt đẹp và có kết quả lớn, hay nhất trong đường lối giáo dục con cái trong gia đình. Gia đình Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu diễm phúc có được cha là Louis và mẹ là Zélie Martin gương mẫu làm nền nếp cho con cái noi theo. Một gia đình thánh thiện đạo đức.
Như ÐGH Benedicto đã xác định trong Kinh Truyền Tin Chúa nhật (9.10.2008) loan báo Giáo Hội tuyên phong Ông Bà song thân Thánh Têrêsa lên bậc Chân Phước, vào Chúa nhật Truyền giáo (19.10.2008) tại Lisieux :
Cặp vợ chồng này đã loan truyền Phúc Âm của Kitô qua hôn nhân gương mẫu của họ. Họ nhiệt thành sống đức tin và chuyển tiếp cho gia đình và mọi người chung quanh. Qua lời kinh và nhân chứng Phúc Âm song thân thánh Têrêsa đồng hành và chia sẻ hành trình đức tin của ái nữ, người được Chúa gọi để tận hiến cho Người bên trong các bức tường của tu viện Camêlo.
Chính tại đây, trong bóng tối của Dòng Kín, thánh Têrêsa ý thức được ơn gọi của mình là ‘‘Tình yêu trong trái tim Giáo Hội’’.
Nghĩ đến phong thánh cho Ông Bà Martin, tôi muốn nhắc lại ý chỉ khác mà tôi yêu thích đó là gia đình. Gia đình có vai trò căn bản trong việc nuôi dưỡng con cái trong tinh thần hoàn vũ, cởi mở và đáp ứng với thế giới và các vấn nạn hiện nay và tạo dựng các ơn gọi cho đời sống truyền giáo.(DCAC 313, 11.2008, tr. 18)
Và ngày 18.10.2015, tại đền thờ Thánh Phêrô, trong khi Thượng Hội Ðồng Giám Mục Thế Giới họp tuần thứ ba. ÐGH Phanxico đã phong Ông Bà Chân Phước lên bậc hiển thánh với hai hiển thánh khác : chân phước (2010) Maria Salvat Romeo (Tây Ban Nha, 1926-1998), bề trên tổng quyền Dòng các sơ Thánh Giá, Tây Ban Nha. Và Linh mục chân phước (1975)Vinenzo Grossi (Ý, 1845-1917) sáng lập Dòng Tiểu Muội Ý. Nhân dịp này thánh tích của bố mẹ và Têrêxa được trưng bày tại đền thờ Ðức Bà Cả, Roma.
Phong thánh cho Ông Bà thân sinh Thánh Têrêxa, ÐGH Phanxicô nói trong khi giảng : Ðôi vợ chồng đã thực hành phục vụ Kito trong gia đình, ngày qua ngày kiến tạo môi trường đức tin và tình yêu, nơi nảy mầm ơn gọi của các con gái, trong đó có Thánh nữ Têerexa hài Ðồng.
Ở đây, chúng ta cùng soi chung đường lối giáo dục của song thân Thánh Nữ Têrêsa như thế nào. Hy vọng từ đây tìm ra cho gia đình mình một hướng mới sống đức tin.
1. Ơn gọi gia đình
Tháng 9.1843, cậu Louis Martin mới 20 tuổi, tính tình ôn hòa hòa nhã, cùng với cha, từ Normandie qua Thụy sỹ xin vào tu dòng thánh Bernard, trên đồi dốc cao. Sau khi tiếp xúc ân cần hai cha con, Bề trên nói : con chưa biết tiếng Latinh, về học rồi đến cha sẽ nhận. Louis cố học thêm hai năm Latinh, nhưng không tiến bộ. Dòng Bernard chỉ là kỷ niệm, chứ không là cuộc đời. Cuộc đời Louis Martin, Thiên Chúa đã có chương trình khác.
Cũng thời gian này, một thiếu nữ thùy mị nết na, gương mặt tươi tỉnh đoan trang tên Marie Guérin cùng đi với chị cả và em trai, đến viếng thăm và xin cho Marie tu dòng Vincent de Paul. Bà bề trên được ơn Chúa soi sáng, niềm nở trả lời dứt khoát : Chúa không muốn con tu, con hãy vềthế gian.
Biết là đường tu không thành, Marie ngày đêm cầu xin với lời chân thành : Lạy Chúa, con không đáng Chúa chọn làm bạn trăm năm Chúa như chị con, con vui lòng kết nghĩa trao duyên vớI ngườI thế gian, để hoàn thành ý Chúa. Trong bậc vợ chồng, xin Chúa cho con được sinh nhiều con cái. Con sẽ cho đi tu hết.
Ý Chúa nhiệm mầu, ngày 13-8-1858, Louis 35 tuổi, và Marie 29 tuổi, làm lễ thành hôn, tại nhà thờ Ðức Mẹ thành Alençon, bắc nước Pháp. Ngay chiều ngày cưới, Louis đã nói với bạn trăm năm : mình ước ao giữ gìn với bạn như em mà thôi.Nhưng ít tháng sau, hai người đã hiểu được trách nhiệm vợ chồng.
Ước mong duy nhất là có con trai làm linh mục Truyền giáo. Ông bà sinh hạ 9 người con. Hai trai và hai gái đã về Thiên Ðàng sớm. Còn lại 5 gái đều đi tu :
1. Marie Louis, sinh 22.2.1860, đi tu Dòng Kín Lisieux, lấy tên Marie du Sacré Coeur, qua đời 19.1.1940, tại Dòng Kín Lisieux.
2. Marie Pauline sinh 7.9.1861, đi tu Dòng Kín Lisieux, lấy tên Agnès de Jésus, sau làm bà mẹ nhà dòng này, qua đời 28.7.1951
3. Marie Léonie sinh 3.6.1883, đi tu Dòng Thăm Viếng, tại Caen, lấy tên Françoise Thérèse qua
16.6.1941.
4. Marie Hélene sinh13.10.1864, mất 22. 2.1870.mới 6 tuổI
5. Marie Joseph Louis sinh 20.9.1866, mất 14.2.1867, mới 4 tháng.
6. Marie Joseph Jean Baptiste sinh 19.12. 1867, mất 24. 8. 1868, mới 8 tháng.
7. Marie Céline sinh 28.4.1869, đi tu Dòng Kín Lisieux, lấy tên Geneviève de la Sainte Face, qua đời 25.2.1959.
8. Marie Mélanie Thérèse sinh 16.8.1870, mất 8.10. 1870, mới 3 tháng.
9. Marie Françoise Thérèse sinh 2.1.1873, đi tu dòng Kín Lisieux (9.4.1888), lấy tên Thérèse de L’Enfant Jésus, qua đời 30.9.1897.
Tất cả 8 người con đều sinh tại Alençon số 15 rue du Pont Neuf, trừ Thérèse sinh tại 36 rue Saint Blaise. Người con nào cũng có tên chữ đầu bằng Marie, kể cả con trai. (Histoire d’une Âme, tr. 296)
Hồ sơ phong thánh cho hai ông bà bắt đầu mở vào 1957, Giáo Hội nhìn nhận những ‘‘nhân đức thánh thiện’’ của hai ông bà (1971). ÐGH Gioan Phaolo II đã công nhận ông bà là bậc ‘‘Ðáng kính’’, ngày 26.3.1994.
2. Gương sáng của
Thánh Louis Martin (1823-1894)
Ông Louis Martin sinh ngày 22.8.1823, tại Bordeaux, là con thứ 3 trong gia đình 5 người. Thân phụ là Pierre François Martin (Orne, 1777-1865), Ðại úy Pháo Binh đóng quân bên Tây Ban Nha. Thân mẫu là Marie Anne Fanie Boureau (Orne 1800-1883). Năm 19 tuổi, Martin học nghề sửa đồng hồ, rồi mở tiệm sửa đồng hồ và đóng giầy sinh sống tại Alençon
Từ khi bà Zélie qua đời, ông bỏ nghề chuyên môn, lo làm việc tông đồ và giáo dục con. Ông tham gia và là hội viên nhiệt thành Hội Bác Ái Vincent de Paul
Theo lời di chúc, sau khi vợ qua đời, ông đem gia đình về Lisieux gần người em trai của bà ở trại Buissonnets. Từ đây, chính ông Louis giáo dục và hướng dẫn năm người con gái sau đều lần lượt đi tu trong Dòng Kín hay dòng Thăm Viếng.
Khi các con đã đi tu, ông âm thầm chia sẻ con đường Thánh Giá với Chúa Giêsu. Năm 1887, ông bị chấn thương thần kinh, đột trụy xương sống, tê bại nửa người. Ngày 12.12.1889, ông nghỉ bệnh tại Bon Sauvenir, Caen, điều trị 3 năm trong viện dưỡng lão. Ngày 10.5.1894, ông được em vợ đem về nhà chăm sóc cẩn thận. Thời gian này, Céline ngày đêm chăm sóc ba đến khi ông từ trần, ngày 29.7.1894.
Không gì bằng đọc lại những trang trong cuốn Hồi Ký ‘‘ Một Tâm Hồn’’ của Têrêsa đã viết về sự thánh thiện và đường lối giáo dục của Song Thân.
Bài học đầu tiên cha nhờ chị Pauline dạy đọc sách là chữ TRời. Cha thường gọi Têrêsa là ‘‘công chúa’’ và cho ngồi bên, hay trên đầu gối, khi dạy bảo điều gì, đọc sách thiêng liêng. Cha đã lo cho con cái, như có lần Têrêsa mơ thấy cha là ‘‘ông lão khom lưng nặng tuổi, diện mạo uy nghi khả kính, đầu tóc trắng xóa in dấu đau thương của kiếp phong trần đầy đọa, như nhan thánh Chúa Giêsu phải che trong tuần chịu nạn, dung nhan đầy tớ trung thành này cũng phải che giấu trong những ngày thê thảm, để có ngày càng thêm vinh quang chói lòa rực rỡ trên nơi cao sang thiên đàng’’.
(Một Tâm Hồn, bản Việt ngữ của Kim Thiếu, Sàigon, 1960. Nguyệt san TTÐM tái bàn. Tr, 51)
Têrêsa kể về ‘‘ngày Chúa nhật ‘‘cả nhà cùng đi lễ hát’’ :
Con nhớ mỗi ghi đến lúc giảng, lại phải tìm chỗ giữa nhà thờ mà ngồi nghe cho rõ... Con cầm trí nghe giảng...Con hay nhìn cha, hơn nhìn diễn giả, Diện mạo cha tốt đẹp, nói cùng con nhiều sự, thỉnh thoảng hai mắt cha ứa lệ, cha cố giữ mà giữ không nổi, phải để tràn ra. Khi giảng về chân lý đời đời, cha hình như không phải là người dương thế nữa, linh hồn cha như đã bay xa về thế giới khác, chìm đắm trong cõi phúc đâu đâu. ...Ngày chúa nhật vui thật, nhưng chóng lắm. Chúng con được ghé nhà cậu mợ chơi...
Phỏng 8 giờ, cha lại đón con về nhà, Lúc về đường, nhìn lên trời muôn sao nhấp nhánh xinh đẹp lòng con rạo rực khoái trá quá. Con nhìn lên vòm trời chót vót một đám sao sáng như ngọc óng ánh xếp thành hình chử T... thì lòng càng vui sướng, con nói cùng cha rằng :
Cha ơi! Cha xem, tên con đã viết ở trên trời kìa? (Sđd. Tr. 43)
Khi mẹ mất, cha đã ‘‘gà trống nuôi 5 con’’, nhất là con út Têrêsa, cha đem con đi đây đó, nghỉ hè ngoài bãi biển lấy lại sức khỏe, vào lưu xá các sơ Benedictine, Lisieux (1881), chăm sóc khi đau nặng (1883), năm được ‘‘Ðức Mẹ Mỉm Cười’’. Cho học giáo để xưng tội lần đầu, chịu phép Thêm Sức (1884)
Về việc đi tu, vì Têrêsa mới có 13 tuổi, cha đã xin các sơ Lisieux trước, nhờ Ðức Cha địa phận Hugonin can thiệp, rồi qua tận Roma xin gặp Ðức Cha ÐGH Léo XIII, để được chuẩn tuổi (1886) và năm 15 tuổi, Têrêsa mới được vào nhà tập ở Lisieux (1888) và năm sau mang tên dòng là Thérèse de L’Enfant de Jésus (1889) và khấn trọn đời ngày 8.9.1890.
Tin ông Martin là người đạo đức thánh thiện, nên trên đường đi Roma có ghé Paris, viếng đồi Montmartre, con thấy nhiều người ta gọi cha là ‘‘Monsieur Saint Martin’’ (Sđd. Tr. 127).
Ðược cha chấp nhận cho đi tu Dòng Kín, Têrêsa ghi : Thấy dong nhan cha nghiêm nghị như trầm mặc sự trên Trời, Con hiểu được lòng cha bình an thư thái mọi đàng... Lòng con nhẹ nhõm, mắt cha khô lệ, cả hai an lòng vừa đi vừa truyện vãn vui vẻ. Con nghe cha nói truyện như nghe một đấng thánh (Sđd, Tr.112)
Ðức tin của thân phụ tin vững mạnh vào lòng thương của Chúa trong những ngày Têrêsa đau bệnh :
Ôi, con thấy cha mạnh tin và có lòng mến Ðức Mẹ Thắng Trận, con cảm động quá. Con ước chi được ngồi dậy để thưa ngay rằng con được khỏi bệnh rồi. (Sđd. Tr.67)
Thân phụ Têrêsa có lối giáo dục khác biệt mà chỉ các con trong nhà mới cảm được : chiều con, nhưng không làm hư, tận tình, âu yếm thương yêu cởi mở : May chiều nào tan học con cũng được về nhà. Khi ấy bao nhiêu nỗi lòng được cỏi mở hết. Con chạy đến xoắn xuýt bên cha, khoe những điểm tốt được ở trường. Một cái hôn yêu cha ban đủ làm tan hết mọi u buồn. (Sđd.Tr. 57)
Têrêsa nói đến tư tưởng thâm sâu của cha mình : Lòng con yêu mến cha con không thể nói hết. Con cảm phục cha lắm lắm. Một lần khi cha cắt nghĩa cho con như một người đã lớn tuổi nghe tư tưởng của cha trầm mặc về những việc quan trọng. Con đã thưa cha cách ngây thơ thật thà rằng : Lạy Chúa, cha mà nói những lời khôn ngoan cao thượng cùng quan trọng trong nước, nhất định căc ngài sẽ bầu cha làm vua ngay, và nước Pháp sẽ thịnh vượng hơn khi nào hết. (Sđd Tr. 52)
3. Mẫu mực của mẹ
Thánh Zélie Guérin (1831-1877)
Bà Marie-Zélie Guérin sinh ngày 23.12. 1831, tại Alençon, là người con thứ ba của 6 anh chị em. Thân phụ là Isidore Guérin (Orne, 1789-1868) cựu quân nhân, sau gia nhập cảnh sát. Thân mẫu là Louise Jeanne Macé (Pré en Pail,1804-1859). Năm 1866, Isidore tái giá với bà Elisa Céliene Fourmet (Lisieux, 1847-1900). Tên trong gia đình Zélie thường gọi là Azélie Marie. Zélie đã ảnh hưởng mẹ là người đàn bà khắc khổ và cứng rắn trong việc giáo dục. Theo mẹ làm nghề ‘’thêu đan tay’’ và phụ chồng lo việc trong nhà và giáo dục.
Bà qua đời ngày 28.8.1877, năm 45 tuổi, sau 5 năm chịu đựng những đau đớn của bệnh ung thư vú. Năm năm trong đau đớn, không thuốc men, bà luôn sống trong kiên tâm và cầu nguyện
Bà là người mẹ đạo đức, chính bà đã dạy các con tuân giữ nghiêm ngặt ‘‘Mười Ðiều Răn của Chúa’’ và ‘‘Sáu Ðiều Răn của Hội Thánh’’ : Giữ chay, kiêng thịt, nghỉ việc xác ...đi lễ Chúa nhật, các lễ Trọng
Người mẹ hiền chăm sóc con chu đáo, từ giấc ngủ đến miếng ăn :
Có một buổi sáng, mẹ muốn hôn Têrêsa rồi mới xuống gác. Xem như nó còn ngủ mệt, mẹ không dám làm nó thức dậy. Song chị Marie nói : ‘‘ Mẹ ơi, con chắc em giả bộ ngủ đấy’’. Mẹ liền cúi hôn mặt nó, nó kéo chăn lên trùm kín cả mặt rồi nói lụng bụng : ‘‘Chẳng cần ai thăm nom con hết’’. Mẹ đã không bằng lòng cử chỉ ấy và cũng làm nó hiểu thế. Hai phút qua, đã nghe thấy tiếng khóc, và nhanh không ngờ, quay lại mẹ đã thấy nó đứng ở bên. Nó dậy một mình, và đi chân không xuống gác lụng thụng trong chiếc áo ngủ dài hơn người. Nước mắt đầy mặt, nó lăn vào lòng mẹ van lơn : ‘‘Mẹ ơi, lạy mẹ, con láo quá, mẹ tha cho con nhé !’’ Mẹ tha ngay, mẹ ôm con bé ngoan vào lòng, ôm chặt và ôm mãi (sđd tr.22)
Bà mẹ kiên nhẫn ân cần khi dạy con. Chị Céline thì ngoan dễ dạy, Têrêsa nghịch ‘‘như giặc’’. Bé mà đã ‘‘đáo để’’ lắm. Trí khôn rất sáng, không nhu mì, khó bảo, lại kiêu căng, tự ái, hay nói...
Với tính nết ấy, con trộm nghĩ, nếu phải tay cha mẹ không có nhân đức, không biết dạy con, có lẽ con đã là đứa xấu nết dữ lắm, và mất linh hồn cũng chưa biết chừng. Song Chúa đã giữ gìn, đã dùng những tính hư nết xấu ấy để làm lợi cho con lắm, vì chưng được kìm hãm sớm (nhờ mẹ), những tính nết ấy đã giúp con tấn tới nhiều trên đường trọn lành. (Sđd. Tr. 25)
Nhưng bù lại Têrêsa biết phục thiện và thích làm việc lành khi mẹ dạy bảo, như lần chuỗi, nhắc, hay kèm các con đọc kinh tối sáng, đi lễ, chịu lễ... Học thuộc các kinh. Làm việc kính Tháng Thánh Tâm, Tháng Thánh Giuse, Tháng Năm Kính Ðức Mẹ, tháng Mười Kính Ðức Mẹ Mân Côi ...
Một khi có sai phạm dạy con biết hối lỗi, chừa tội và làm việc lành bù lại. Chính Têrêsa đã thú nhận ‘‘mẹ chỉ cần bảo con một lần không nên làm thế, đủ rồi, con không tái phạm nữa...Bởi con hằng được xem gương sáng trước mặt, nên đã bắt chước mà làm được tự nhiên dễ dàng.
Năm 1876, chính bà mẹ đã viết : Ðến con Têrêsa cũng đua làm việc lành. Chị Marie cho riêng em một cỗ tràng hạt để đếm việc lành...Têrêsa mỗi ngày thò tay vào túi đến trăm lần để lần hạt, tính việc lành đã làm. (Sđd. Tr. 25-26)
Ðức tính nhân bản mà cha mẹ để lại cho các con là hiếu thảo trong gia đình giữa con cái với cha mẹ, giữa chị em với nhau, và ngoài xã hội biết thương yêu người nghèo khó. Bác ái, không phải bằng giúp đỡ vật chất mà bằng lời an ủi tinh thần và cầu nguyện, như trường hợp sau:
Môt buổi chiều kia,một ông lão đi nạng khệnh khạng, con lại gần đưa cho ông một đồng tiền. Ông cứ nhìn con, nhìn buồn bã rồi bằng nụ cười đau đớn, ông lắc đầu không lấy. Con không thể nói được nỗi lòng thổn thức của con khi ấy. Ý con muốn an ủi và giúp đỡ ông một chút, hay đâu lại làm ông thêm tủi, thêm phiền?
Chắc ông đã đoán được tâm sự con, nên một lát sau, ông quay lại rồi mỉm cười. Cùng lúc ấy cha cho con một chiếc bánh, con muốn chạy lại đem cho ông, bụng bảo dạ : Ông không lấy tiền, chắc ông vui lòng lấy bánh. Rồi không hiểu tại sao, con đâm lo sợ không dám chạy lại nữa, ruột gan con bồn chồn thổn thức quá. Con không cầm nổi nước mắt. Cho đến khi sực nhớ câu người ta nói hôm chịu lễ lần đầu muốn xin Chúa ơn gì cũng được, lòng con mới yên yên, dù mới 6 tuổi, lúc ấy con bảo mình rằng : Hôm chịu lễ lần đầu, con sẽ cầu nguyện cho ông. Qua 5 năm sau con đã giữ trọn lời hứa ấy, con vẫn đinh ninh lờI con cầu xin cho phần thân thể đau đớn này của Chúa, đã được khứng nhận và tán thưởng. (Sđd. Tr. 38)
Têrêsa đã thực hiện lời Chúa mà cha đã cắt nghĩa : ‘‘Khi con cho cái gì cho kẻ khó nghèo là cho chính Chúa’’, trong trường hợp sau : Một hôm, cha từ trong nhà đem thêm bánh ra cho người ăn xin, chờ trước cửa nhà, thì thấy con mình đang qùi trước mặt người ăn xin và kính cẩn trao bánh cho ông này. Cha đã ứa nước mắt. Vì con mình đã hiểu ‘‘người ăn xin là hình ảnh Chúa Giêsu’’.
Mỗi khi được thưởng ‘‘một hào’’,Têrêsa để vào ống để cho kẻ khó. Thường thứ Năm nào con cũng được một hào. (Sđd. Tr, 58)
Cha mẹ còn cẩn thận dạy con cách xử thế : Khi đi đường nhường bước, tránh lối đi cho người lớn tuổi, tật nguyền, trên xe dành ưu tiên chỗ tốt cho những ai cần. Trong trường kính trọng thầy cô, giáo lý viên, thương yêu giúp đỡ bạn bè khi có thể...
Têrêsa đã kết luận về tình gia đình : Trong gia đình, con vẫn được cha và các chị thương yêu chiều chuộng lắm. Lòng cha yêu lũ con thắm thiết, nay lại giầu thêm cả tình yêu thắm thiết của tấm lòng mẹ, các chị tận tình yêu con như mẹ thương con. (Sđd. Tr. 34)
Chỉ cần nhìn cha cũng đủ biết các Thánh cầu nguyện...Con cái được quây quần xung quanh môt người mẹ tốt lành như vậy làm sao không trở nên tốt lành giống mẹ.
‘‘Xem quả thì biết cây, cây tốt sinh quả tốt’’. Nhờ giáo dục công giáo, Ông Bà Chân Phước Louis Zélie Martin đã cống hiến cho Giáo Hội Thánh Têrêsa Hài Ðồng Giêsu là ‘‘Vị Thánh Lớn nhất của thời đại’’ (1925), làm ‘‘Quan Thày các xứ Truyền Giáo’’ (1927) và là ‘‘Tiến sỹ của Giáo Hội’’ (1997).
Cả đời Thánh Nữ đã chọn và sống trọn đời, ngay từ thơ ấu trong bàn tay dưỡng nuôi của cha mẹ, Têrêsa đã quyết tâm : Lạy Chúa, con chọn ráo. Con không muốn làm thánh nửa vời. Con chẳng sợ như thế thì phải vì làm Chúa chịu khổ sở nhiều đâu. Con chỉ sợ điều này là không bỏ được ý riêng của con thôi. Xin Chúa nhận lấy ý riêng con, bởi vì con chọn tất cả những sự Chúa muốn. Con chọn trót ý Chúa. (Sđd.Tr.27)
4. Ơn gọi làm cha làm mẹ
Có trường để đào tạo các linh mục, thầy dòng hay chị dòng. Nhưng chưa có trường dạy làm cha làm mẹ, làm con cái. Mà chính các phần tử trong gia đình giáo dục nhau. Chúng ta thường nghe : Ơn gọi làm linh mục, hay tu sỹ. Nhưng đừng ngạc nhiên khi nghe: ‘‘ơn gọi làm cha làm mẹ’’. Ðã lầm khi cho rằng ơn gọi chỉ dành cho người tu sỹ tận hiến.
Trong Giáo Hội, có nhiều gia đình thánh thiện, như :
- Khi Ðức Cha Sarto (sau là thánh Pio X) sau khi thụ phong giám mục, ngài về quê thăm mẹ già và nghèo, rồi khoe với mẹ về chiếc nhẫn giám mục. Người mẹ giơ bàn tay nhăn nheo đặt trên tay con, âu yếm nói : Nếu không có chiếc nhẫn cưới nghèo này, thì làm sao có chiếc nhẫn giám mục của con hôm nay.
- Gia đình của Thánh Giáo Hoàng Gioan XXIII có 12 người con. Họ nghèo nhưng trên thuận dưới hòa. Yêu thương và qúi mến nhau. Quan niệm ‘‘một người làm quan cả họ được nhờ’’ không áp dụng cho gia đình Roncalli. Vì dù làm giáo hoàng, anh chị em ngài vẫn nghèo. Ngài chỉ giúp họ như giúp các người nghèo khác. Không xin ân huệ hay đem anh em về làm trong Vatican. Chung quanh giường ngủ, ngài luôn để hình ông nội, bác và anh chị đã qua đời, để xin các vị này cầu nguyện cho mình.
Gia đình là trung tâm ánh sáng, nơi truyền bá đức tin và rao giảng Tin Mừng. Từ trung tâm này sẽ làm rực sáng cả nhân loại.
Tài liệu tham khảo
- Một Tâm Hồn, KIM THIẾU (bản Việt ngữ) CA. 2004
- Histoire d’Une Âme. Thérèse de Lisieux. Serment. Paris 2001
- Les Parents de Thérèse de Lisieux.
Alce & Henri Quantin. Cerf. 2004.