CHƯƠNG VIII
CANH TÂN GIÁO HỘI,
TRUYỀN GIÁO PHỔ THẾ
VÀ CÁC CUỘC TRỞ LẠI,
THẾ GIỚI BAROQUE
I. CHIẾN TRANH CHỐNG MIỀN CROISSANT.
Trong thế kỷ XVII, nhờ việc phục hưng nội bộ và những thành quả của cuộc phản Cải cách tại Ðức và Pháp, Giáo Hội Công Giáo biểu hiệu một sức sống phi thường về phương diện thiêng liêng, nên có thể xây dựng và cải tạo thế giới. Nhưng ý hệ thời Trung Cổ xem ra bị Cải cách làm lu mờ lại xuất hiện và được người ta tìm cách thích ứng vào nhưng hoàn cảnh mới với nghị lực chiến thắng đầy tin tưởng vào mình. Ý tưởng về đạo binh thánh giá đã nung nấu tâm hồn các vị lãnh tụ Công Giáo và đại chúng trong nhiều thế kỷ đã phai nhạt đi vào cuối thời Trung Cổ. Tư tưởng hầu như định mệnh trong thời Cải cách là nhưng cuộc tấn công của Thổ Nhĩ Kỳ là hình phạt của Thiên Chúa (Luther) đã được đổi mới hẳn.
Mười năm sau khi Constantinople thất thủ, tình thế đã khác hẳn lúc đức Pie II kêu gọi lên đường dự cuộc chiến tranh Thánh Giá. Trong thời kỳ ấy, mặc dầu có chiến đấu anh dũng, quân Thổ Nhĩ Kỳ đã chiếm được Rhôdes, qui phục toàn miền Balkans, chiếm đóng nước Hung Gia Lợi, tràn qua bờ cõi miền Syrie, nhiều lần đe dọa Cracovie và cả kinh đô hoàng gia trên bờ sông Danube. Với nhiều may rủi và nhờ sự viện trợ hời hợt của các ông hoàng Ðức, hoàng đế tiếp tục chiến đấu với người Thổ Nhĩ Kỳ tại Hung Gia Lợi. Ngoài ra, Malte được các hiệp sĩ Saint Jean de Jérusalem cầm cự bị thủy quân Ottoman vây hãm. Ðịa Trung Hải hầu như trở thành lãnh vực của người Thổ Nhĩ Kỳ và các đạo tặc dã man. Họ đã đặt chính phủ của họ trên bờ biển Bắc Phi. Hơn nữa, nước Pháp từ lâu đã có liên hệ và nhưng mối thân hưu với Sublime Porte (chính phủ của Sultan Thổ Nhĩ Kỳ). Hai bên có nhưng mưu đồ phản hoàng đế, Pháp thúc Thổ Nhĩ Kỳ tấn công trước để rồi cùng một trật mở cuộc hành quân của mình. Không còn dấu tích gì của một Tây Phương Kitô hiệp nhất nữa! Tình thế như vậy mà cũng không làm nản chí đức Pie V, một vị giáo hoàng đạo đức chân tình. Ngài hết sức nhẫn nại và cương trực liên kết nước Pháp với hoàng đế, cùng với Ba Lan và cả Nga Sô ly giáo thành một đại Liên Minh chống Thổ Nhĩ Kỳ. Nhưng mọi cố gắng đều vô ích vì ngài gặp khắp nơi nhưng cái nhìn hẹp hòi về quyền lợi chính trị của mỗi quốc gia. Nhưng cuộc thương nghị kéo dài rất lâu; sau cùng cũng đi đến một liên minh giữa Tây Ban Nha, Venise và giáo hoàng. Hiến pháp của liên minh được long trọng công bố trong thánh đường thánh Phêrô tháng 5 năm 1571 và được coi như có tính cách lâu bền, vừa có thế thủ vừa có thế công, chẳng những đối với Sultan mà cả với các chính phủ liên kết với Alger, Tunis và Tripoli nữa. Don Juan nước Áo, con của Charles Quint được trao quyền điều khiển tối cao, còn đề đốc hải quân giáo hoàng được cử làm phụ tá. Ðể cầu khẩn ơn phù trợ của Thiên Chúa trên hải quân, đức Pie V truyền tổ chức ngày toàn xá và những buổi cầu nguyện chung. Ngày 7 tháng 10 năm 1571, trận chiến quyết liệt đã xảy ra trong vịnh Lépante, ngoài cửa eo biển Corinthe. Hải quân Công Giáo đã đánh chìm khoảng 50 chiến thuyền địch. Quân Công Giáo đã tịch thu được phân nửa đoàn tầu chiến Thổ Nhĩ Kỳ và giải thoát mười hai nghìn quân lính công giáo. Chỉ có một phần ba chiến thuyền Thổ Nhĩ Kỳ chạy thoát được. Mười lăm ngày sau tin chiến thắng mới về tới Roma. Trước khi khởi chiến đức giáo hoàng đã làm nhiều việc đền tội rất nghiêm nhặt để xin ơn thắng trận, và trong khi giao chiến, giữa lúc hội Mân Côi tổ chức rước kiệu tại Roma, đức giáo hoàng được thị kiến là đạo binh Công Giáo thắng trận. Ðể kỷ niệm cuộc chiến thắng, giáo hoàng ra chỉ thị lập lễ Ðức Mẹ Toàn Thắng, mà sau này đức Grégoire XIII cho cử hành với tên là lễ Mân Côi vào chủ nhật đầu tháng mười, trong tất cả các nhà thờ có bàn thờ Mân Côi.
Cuộc thắng trận ở Lepante đã cứu nước Ý và nước Tây Ban Nha khỏi họa xâm lăng Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng không đầy hai năm, cuộc chiến thắng ấy đã trở thành vô ích. Thay vì sửa soạn kế hoạch chiến lược quân sự cho năm sau và đập tan vĩnh viễn lực lượng kẻ thù truyền kiếp của dân Công Giáo như đã dự định trong hiệp ước, các hoàng thân Công Giáo khước từ gia nhập liên minh, nước Tây Ban Nha và Venise lại tìm cách hục hặc nhau, còn nước Pháp thì không tìm được giải pháp nào tốt hơn bằng cách phái một giám mục sang làm đại sứ tại Constantinople và đứng ra làm trung gian giưa vua Thổ Nhĩ Kỳ và Venise với mục đích tìm một hòa bình riêng rẽ theo đó thì vị thủ lãnh nước cộng hòa Venise chánh thức từ bỏ chủ quyền trên căn cứ địa Công Giáo ở Chypre. Chiến thắng Lepante bị phản bội, nhưng đức giáo hoàng Pio V không còn sống để buồn khổ.
Dầu vậy, giữa dân Công Giáo, chiến thắng Lepante đã góp phần vào công cuộc bành trướng mau chóng sự tôn sùng lần chuỗi Môi Khôi và thúc đẩy thành lập nhiều phụng hội Môi Khôi, đó là ngày trọng đại đánh dấu lịch sử tôn sùng Ðức Mẹ. Nhiều thành phố đã lồng vào huy hiệu hình Ðức Mẹ đứng trên hình cung trăng (cờ Thổ Thổ Nhĩ Kỳ). Kể từ năm 1572 người ta thấy xuất hiện rất nhiều bài ca chiến thắng (Epinicies) nhất là trong các đại học Dòng Tên. Nhiều bức họa vẽ hình Ðức Mẹ chiến thắng Lepante được treo trong các thánh đường ở Ðức và Venise, nhiều nhà nguyện đặc biệt xây cất để tôn sùng Ðức Mẹ chiến thắng (như ở Ingolstadt) và hơn một thế kỷ sau trận chiến, mẫu hình Lepante được chạm trổ trên những mặt nhật nghệ thuật barốc. Vài năm sau ngày phong thánh đức giáo hoàng Pio V, trong nhà thờ đan viện ở Irsee (Ðức), người ta xây một tòa giảng hình cột buồm mũ và cánh buồn, chòi gác và cờ hiệu.
Từ năm 1590, dân chúng trên toàn các lãnh thổ Công Giáo Ðức được nghe vang lên tiếng ”chuông cho dân Thổ” mỗi ngày vào lúc đúng ngọ và, hơn nhiều nhà chính trị, họ cảm thấy cái đe dọa hiểm họa Thổ Nhĩ Kỳ thường xuyên. Một ít năm sau trận Lepante, quân Thổ Nhĩ Kỳ lại bắt đầu đánh phá. Họ dồn tất cả lực lượng về phía Crète, lãnh địa cuối cùng của Venise trong vùng Ðông Ðịa Trung Hải. Chiến trận kéo dài trong 20 năm. Giai đoạn cuối cùng là mục tiêu thủ đô của đảo. Thủ đô này rất kiên cố nhưng sau cùng bắt buộc phải đầu hàng vào năm 1669. Những tiếp tế tài chánh mà đức giáo hoàng ban cho Venise, sự can thiệp của đoàn chiến thuyền giáo hoàng, tất cả những cuộc thương nghị giữa những hoàng thân Công Giáo với mục đích thành lập một kế hoạch chung cũng không thể làm chuyển hướng định mệnh và vua Louis XIV đã phải trả một giá rất đắt vì những đặc ân Giáo Hội cung cấp một đạo binh hỗ trợ, đạo binh này không được phép chiến đấu dưới màu cờ nước Pháp.
Theo như kế hoạch thì miền Bắc là mục tiêu xâm lược của Thổ Nhĩ Kỳ. Biên giới bỏ ngỏ ở miền Nam Balan là một mồi ngon cho địch. Sự chống đối giữa những phe phái đã làm lung lay triều đình rất trầm trọng. Thành phố đầu tiên ở Podolie đã rơi vào tay quân địch. Tân sứ thần Tòa Thánh là Bouonvisi đã tới Varsovie mang theo viện trợ của hoàng đế và của những hoàng thân Ðức. Ngài cũng cố gắng vận động chấm dứt những bất hòa nội bộ và đã thành công. Quốc hội đại nghị đã từ chối hiệp ước hòa bình mà vua đã ký kết với Thổ Nhĩ Kỳ. Kháng chiến quân sự được tổ chức. Sau khi vua băng hà, Jean Sobieski là người đã được đặc biệt để ý trong chiến cuộc chống Thổ Nhĩ Kỳ, được bầu năm 1674 với sự đồng ý của sứ thần Tòa Thánh và nhất là nhờ vào ảnh hưởng rất mạnh từ phía Pháp. Trong tình trạng đó, phe chống hoàng đế không còn giữ tình thân hữu cố hữu với Thổ Nhĩ Kỳ nữa. Tuy vậy, tới phiên tân vương cũng phải làm hòa với Thổ Nhĩ Kỳ và nhượng cho họ những lãnh thổ thuộc Balan.
Sự tranh chấp của vua Louis XIV chống hoàng đế Leopold I, mặc dầu tất cả nỗ lực mà vua có thể làm được lúc trước, cũng không ngăn chặn được sự bầu cử hoàng đế. Vì thế vua giúp đỡ quân phiến loạn Hung Gia Lợi là đồng minh với quân Thổ Nhĩ Kỳ, chiêu mộ quân lính trên lãnh thổ Balan để yểm trợ quân phiến loạn và cũng để khuyến dụ vua Balan hứa hỗ trợ quân phiến loạn. Nhưng mà vua Louis XIV vừa mới ký hòa ước Nimègue (năm 1679). Những chiến lược ngoại giao đã làm thất bại liên minh giữa Balan và nước Nga là nước đã tuyên chiến với La Porte năm 1677 và làm thất bại một liên minh khác giữa hoàng đế và nước Balan như biện pháp phòng ngừa hiểm họa Thổ Nhĩ Kỳ. Hơn thế nữa, vì nước Pháp đã hứa giúp Balan và Venise cách đặc biệt, nên La Porte coi như mình bắt buộc phải gây chiến với hoàng đế. Tất cả các kế hoạch Pháp đều không thành công. Ðức Innocent XI được coi như một chiến lược gia lỗi lạc khi ngài thuyên chuyển đại sứ Varsovie là Buonvisi sang nhiệm sở Vienne. Ngài cho rằng hiệp ước Nimègue đã phá tan các trở lực chủ yếu đối với kế hoạch chung của Công Giáo. Tuy nhiên chẳng bao lâu sau ngài buộc phải nhìn nhận là đứng trước ảnh hưởng ưu thế mà nước Pháp được bảo đảm nơi các hoàng thân thế lực nhất của nước Ðức, ngài chỉ còn biết trông cậy vào hoàng đế, vào nước Balan và nước Nga ly khai và ngài sẽ hài lòng nếu được nước Pháp đồng ý tuyên bố trung lập trong thời gian chiến tranh với nước Thổ Nhĩ Kỳ. Ðể chứng minh là có nhiều khôn khéo, sứ thần Tòa Thánh đã thành tựu trong các cuộc thương nghị khó khăn và đúc kết một liên minh giữa hoàng đế và nước Balan mà nghị hội Balan đã phê chuẩn vào lễ Phục Sinh năm 1683. Vấn đề tài trợ quân phí cho quân hỗ trợ Balan, trên thực tế do đức giáo hoàng đảm nhiệm. Ðức giáo hoàng thâu góp được một số tiền rất lớn nhờ vào việc đánh thuế trên tài sản Giáo Hội ở Ý, Tây Ban Nha và các nước khác bằng cách cho phép lập ra thuế nhà vua tương tự trong các quốc gia thừa kế, cho phép bán những tài sản, kho tàng của Giáo Hội ngoại trừ những chén thánh và tận dụng kho tàng của lâu đài Saint Ange. Không có năm triệu Florins do nội vụ tông tòa gởi đến hoàng đế và vua Balan thì đã không thể có liên minh cũng như không thể có thắng trận. Lại nữa liên minh đã đến đúng lúc, Miền thượng Hung Gia Lợi đã rơi vào tay quân nổi loạn và vào đầu năm 1683 một lực lượng hùng mạnh Thổ Nhĩ Kỳ vào khoảng từ 150.000 đến 200.000 người dưới quyền chỉ huy của Tổng lý đại Thần Kara Mustapha đã tiến vào Belgrade. Liền sau khi quân Thổ Nhĩ Kỳ tuyên chiến với hoàng đế, thì quân nổi loạn Hung Gia Lợi theo quân Thổ Nhĩ Kỳ. Quân đội Balan chưa sẵn sàng để nghinh địch và quân đội hoàng gia có lối 30.000, 40.000 người dưới quyền chỉ huy của em rể hoàng đế là công tước Charles de Lorraine đã phải rút về bảo vệ thành Vienne hầu ngừa một sự tấn công trực tiếp thành này. Triều đình chạy trốn về Linz và Passau. Công tước de Lorraine phóng 10.000 quân vào thủ đô hoàng gia đang được bá tước Ernst Rudiger von Starhemberg chống giữ cách khôn ngoan và dũng cảm. Thị trưởng thành phố Vienne và giám mục Wiener - Neustadt cùng bá tước Kollonitsch vào thành bị công hãm để khuyến khích quân lính can đảm chống giữ. Nhiều cuộc hành quân rất mãnh liệt cũng không phá nổi vòng vây càng ngày càng siết chặt và trong gần ba tháng bị bao vây, với nhiều đợt tấn công, dội bom và đói khát. Bất đắc dĩ công tước de Lorraine đã phải bỏ ý định dùng chiến thuật dương đông kích tây để phá vòng vây và đành ngồi chờ quân tiếp viện Balan. Sau cùng quân tiếp viện đã đến. Ðoàn quân tiếp viện gồm có những đội ngũ của các hoàng thân vương quốc, quân trừ bị hoàng gia và quân Balan. Số quân tăng viện là khoảng từ 40.000 đến 70.000 người. Lưu tâm đến sự nghiệp, bá tước Charles de Lorraine trao quyền chỉ huy trưởng cho vua Balan là người có nhiều tham vọng. Việc từ bỏ quyền chỉ huy trước hết là do công trạng của sứ thần và vị đặc sứ Tòa Thánh bên cạnh quân đội tăng viện là Marco d'Aviano tu sĩ dòng Phanxicô. Vị này nổi tiếng nhờ những bài thuyết giáo về sám hối (dưới triều đại giáo hoàng Pio V các tu sĩ dòng Phanxicô được giao phó nhiệm vụ tuyên úy cho quân đội Crète và trên đoàn chiến thuyền Công Giáo).
Sáng ngày 12 tháng 9 là ngày đã định tấn công quân Thổ Nhĩ Kỳ đang bao vây, tu sĩ dòng Phanxicô cử hành thánh lễ trên đồi Kahlenberg phía trên thành Vienne, có vua Balan giúp lễ và ban phép lành cho quân đội đồng minh. Cuộc chiến khởi sự. Sau 13 giờ chiến đấu thành Vienne được giải vây. Còn đoàn bại quân Thổ Nhĩ Kỳ trong lúc hỗn loạn, rút lui về Hung Gia Lợi. Quân Công Giáo chiếm được rất nhiều chiến lợi phẩm. Lá cờ chiếm được của Tổng Lý Ðại Thần dành cho đức Innocent XI. Lá cờ được trao cho đức giáo hoàng đúng vào ngày lễ thánh Micae và sau đó được đem treo nơi cửa chánh đền thờ thánh Phêrô như một dấu hiệu chiến thắng. Trên toàn cõi nước Ðức Công Giáo, bổn đạo đã sốt sắng tham gia cầu nguyện thống thiết cho nỗi khốn khổ của thành phố bị vây hãm. Từ nay có những buổi lễ tạ ơn đầy phấn khởi và nhiệt tình để chào mừng sự cứu giúp của Mẹ Chúa Trời: quân đội Công Giáo đã lập chiến thắng đúng ngày lễ của Mẹ là ngày thứ ba mươi sau lễ Ðức Mẹ Lên Trời. Ðức giáo hoàng đã phổ biến ngày đó cho toàn Giáo Hội làm ngày lễ kính tên Ðức Mẹ Maria. Năm 1622, bức họa chân dung Ðức Mẹ được vẽ riêng cho một thánh đường hành hương mới ở vùng phụ cận Passau (bức tranh do họa sĩ Cranach vẽ, có lẽ dưới sự chứng kiến của Luther). Rồi sau bức họa lại được in ra rất nhiều bản, người ta treo bức họa khắp nơi, trong vùng núi Alpes và trên phần đất Hung Gia Lợi đã dành lại được từ tay quân Thổ Nhĩ Kỳ, lời van xin và bài ca chiến thắng được diễn tả bằng màu sắc. Việc hành hương kính Ðức Bà Phù Hộ tại thánh đường Ðức Bà Cứu Giúp nổi tiếng tại Vienne, lôi cuốn rất đông người tham dự. Sự biến đổi từ tình trạng lo âu và khốn khổ của một dân tộc bị quân thù vây hãm và bệnh dịch đe dọa sang trạng thái hoan lạc được giải phóng nhờ vào chiến thắng năm 1683, đó là hiện tượng đã phát sinh một trong những khía cạnh chính yếu của thời barốc, ít ra là trong các nước nói tiếng Ðức.
Tuy nhiên, cần phải khai thác chiến thắng năm 1683 và sự biến đổi từ thế phòng thủ và kháng cự qua thế tấn công mãnh liệt. Cuộc chiến thắng đã tạo nên một tình trạng hoàn toàn mới mẻ cho Hung Gia Lợi và những nước miền Bắc Balkans và vĩnh viễn loại ra khỏi Tây phương hiểm họa Thổ Nhĩ Kỳ, công trạng ấy không những do sự anh dũng của quân đội và các nhà chỉ huy tài giỏi, mà còn do tài khôn khéo của các nhà ngoại giao và đặc biệt là do sự nhiệt tâm bất khuất của đức giáo hoàng. Chính nhờ ngài mà vua nước Balan trung thành với hiệp ước liên minh, mặc dầu vua Louis XIV đã cho tiến quân vào nước Hòa Lan thuộc Tây Ban Nha, trong thời xâm lăng của Thổ Nhĩ Kỳ. Chính nhờ đức giáo hoàng mà cộng hòa Venise gia nhập liên minh. Sự hăng say của đức giáo hoàng đã chính phục được cộng đoàn Kitô hữu. Dân chúng coi chiến tranh chống quân Thổ Nhĩ Kỳ như là một chiến tranh mới của nghĩa quân Thánh Giá.
Quân tình nguyện khắp nơi kéo đến từng đoàn lũ gia nhập quân đội hoàng gia, cả từ nước Pháp mặc dù vua Louis XIV ngăn cấm. Ðức giáo hoàng lại góp nhiều chiến thuyền và cung cấp rất nhiều chiến phí. Mọi sự thành công mỹ mãn, chiến thắng hải quân của Venise vừa bảo vệ Dalmatie, vừa giúp chinh phục được phân nửa xứ Hylạp. Về phía bộ binh, sau cuộc bại trại lần thứ nhất và sau khi đã nhận được viện binh (những đội ngũ Bavarois và Brandebourgeois) đã chiếm được Buda năm 1688 là thành phố bị quân Thổ Nhĩ Kỳ đô hộ trong một thế kỷ rưỡi, và hai năm sau khi đã chiếm Belgrade. Ðã đến lúc bước tiến khải hoàn phải dừng lại! Cùng năm 1688, vua Louis XIV tuyên chiến với hoàng đế và với đế quốc Ðức thuộc Roma để bảo toàn chánh sách bành trướng lãnh thổ của ông. Từ nay hoàng đế bắt buộc phải chống đỡ cả hai mặt: Tấn công phía sông Rhin (1) và trấn thủ phía quân Thổ Nhĩ Kỳ. Sau khi viên chỉ huy trưởng quân đội hoàng gia là hoàng thân Eugène de Sarvoie đã chiến thắng tại Zenter, quân Thổ Nhĩ Kỳ phải ký hòa ước Carlowitz (năm 1699) theo đó họ phải trả lại cho quân Venitien quần đảo Morée, cho hoàng đế Hung Gia Lợi phần đất Transylvanie cũng như phần lớn Croatie và Slavonie và chỉ còn giữ lại Banat và Temesvar.
Năm 1714, khi Thổ nhĩ Kỳ lại khai chiến và chiếm đóng những lãnh thổ thuộc Venise, một liên minh quân sự mới đã được ký kết theo lời yêu cầu của đức Clément XI (1700-1721), giữa hoàng đế và cộng hòa Venise, để xung chiến tại mặt trận Peterwardein chống đạo binh địch mà quân số đông hơn gấp bội. Nhưng với tài binh lược, hoàng thân Eugène đã toàn thắng. Chiếm đóng quận Banat và thủ đô, vượt qua sông Danube và chiếm lại thành Belgrade, tất cả các biến cố đó đã làm cho dân Công Giáo miền Balkans hết sức phấn khởi và làm cho họ hy vọng thoát được ách Thổ Nhĩ Kỳ. Nhiều phái đoàn đại diện dân chúng đến với các vị chỉ huy và triều đình, dâng thỉnh nguyện và yêu cầu được tham gia chiến cuộc. Nhưng họ đã bỏ lỡ dịp may đó mà không biết lợi dụng. Những rắc rối xẩy đến trên bàn cờ Âu Châu buộc hoàng đế phải chấm dứt chiến tranh. Với hòa ước Passarowitz (năm 1718) quân Ottoman lại nhượng cho nước Áo quận Banat và vùng Bắc xứ Serbie. Tại các nơi đó, sự tự trị của Giáo Hội Chính Thống được bảo đảm nhờ vào rất nhiều đặc ân vua, nhưng một tòa giám mục Công Giáo (latinh) cũng được thiết lập song song. Thật vậy trong vòng hai chục năm nữa, Serbie sẽ lại bị mất. Nhưng dù sao, với những lãnh thổ đã chiếm được ở Ý và Bỉ trong cuộc chiến tranh với Tây Ban Nha, nước Áo đã lấy lại được địa vị của một đại cường quốc Công Giáo. Chỉ tiếc là sức mạnh tiềm tàng của Áo không đáp ứng được với một lãnh thổ bao la và không thể kiến tạo một chính thể quân chủ huy hoàng có cơ cấu được (2).
Sức sống mới của Giáo Hội không chỉ biểu lộ bằng hành động quân sự chống lại áp bức của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng còn bằng nhiều hình thức hoạt động khác: đế quốc, lại một lần nữa phụng sự Giáo Hội; nước Áo chu toàn nhiệm vụ của một quốc gia Công Giáo Tây phương với những hy sinh tài chánh lớn lao của các nhà thờ và các tu viện; lòng đạo đức của giáo dân mỗi ngày một lên cao. Sự hăng say ấy được biểu lộ qua những hoạt động truyền giáo mạnh mẽ ngang hàng với những hoạt động truyền giáo thời các Tông Ðồ hoặc sau này với những hoạt động của các nhà truyền giáo Anglo Saxons. Những sắc lệnh bảo trợ (Padroado) ban nhiều đặc ân cho nước Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha đã mang lại một quy chế pháp lý cho tổ chức có mục đích đem Ðức Tin Công Giáo đến cho một thế giới rộng lớn ở phương Ðông cũng như ở phương Tây. Hơn nữa Dòng Tên mới thành lập, đã cung cấp cho Giáo Hội nhiều tay thợ cần thiết, có kỷ luật, trí thức và sẵn sàng hy sinh bản thân vì Phúc Âm.
II. MỘT DẤN THÂN MỚI CHO NGHIỆP VỤ TRUYỀN GIÁO. FRANCOIS XAVIER.
Trước đó vài năm, Erasme còn than phiền về sự thiếu vắng nhiệt tâm truyền giáo. Nhưng kể từ năm sáng lập Dòng Tên, thánh Ignace de Loyola đã cử Francois Xavier và Rodriguez làm việc cạnh đại sứ Bồ Ðào Nha. Nhân danh nhà vua, ông đại sứ ngỏ ý xin có các linh mục cho vùng Ðông Ấn. Tháng 4 năm 1541, Rodriguez, một thanh niên quý tộc thành Navarre đáp tàu qua Lisbonne và vua Bồ Ðào Nha giữ ông lại đó. Còn Francois Xavier, sau 13 tháng hành trình đầy gian khổ, đã cập bến Goa. Trước tiên ngài hoạt động tông đồ cho các đồng hương ngài: thủy thủ, lái buôn và các nhà trồng tỉa, sau đó cho các tân tòng đã trở lại nhưng chưa thấm nhuần Ðức Tin. Nhưng ngài sớm nhận thấy bị lương dân quyến rũ. Ngài rửa tội cho 10.000 tân tòng trong đám những người đi vớt hột trai ở bờ biển Ðông Nam Ấn Ðộ. Ngài viếng Ceylan, ghé Malacca và lên bộ ở Moluques, sau đó ngài trở lại Malacca. Hoạt động truyền giáo của ngài rất tốt đẹp. Khắp nơi, cách sống và lời nói của ngài thu hút đám quần chúng. Ngài viết thơ kể những thành công của ngài cho thánh Ignace và cho các anh em cùng dòng của ngài ở Âu Châu. Từ năm 1545 những thơ của ngài được in ra và đọc tại các tu viện Dòng Tên. Những thơ của ngài đã làm hứng chí các linh mục trẻ Dòng Tên và làm cho họ nôn nóng muốn noi gương ngài qua Ðông phương để mở rộng nước Chúa. Tuy nhiên, cha Francois Xavier không ở luôn tại Ấn Ðộ. Khi vừa nghe nói đến Nhật Bản, vừa được khám phá, ngài tự cho là mình có bổn phận, như một nhà thám hiểm trong cánh đồng truyền giáo, đi nghiên cứu những phương thức có thể hành động nơi miền xa xôi đó. Năm 1549 với một nhóm nhỏ bạn đồng tu, ngài qua Nhật Bản. Tức khắc ngài nhận ra cái đặc biệt của vương đảo trên bình diện chính trị và xã hội. Cựu giáo sư đại học Paris đã thành công trong việc chinh phục cảm tình của một hoàng thân phong kiến và sau những cuộc bàn luận trường kỳ và khôn khéo với các tu sĩ Phật Giáo, một cộng đoàn Dòng Tên được thành lập. Một cuộc du hành viếng thăm triều đình Nhật Bản xem ra không thể được. Ngài được thánh Ignace bổ nhiệm làm bề trên tỉnh dòng cho tân tỉnh dòng ở Ấn Ðộ. Cha Francois Xavier trở lại Goa năm 1552. Là bề trên miền truyền giáo, ngài hoàn toàn ý thức trách nhiệm của ngài nên đã tổ chức tỉnh dòng với những chỉ thì thích hợp. Ngài chú tâm thành lập hàng giáo sĩ bản xứ, vì đó ngài viết thơ về Âu Châu xin tăng viện các thừa sai. Tự đặt mình vào khía cạnh thiêng liêng, giữa thời đại Trung Cổ và thời cận đại, sự bảo trợ của vua không làm cho ngài khó chịu và ngài không ngần ngại kêu gọi thế lực trần gian để nâng đỡ những quyền lợi của người công giáo, nhưng ngài vẫn còn nghi ngờ những giá trị thực tiễn của một nền văn minh ngoại bang mà ngài đã nhận thấy ở Ấn Ðộ và Nhật Bản. Hè năm 1552 ngài lại lên đường đi về hướng Bắc. Ðứng trước bờ biển Trung Hoa ngài tìm cơ hội để vào Trung Quốc là một nước đóng kín cửa với người ngoại quốc. Sau hơn hai tháng chờ đợi vô hiệu, nhà tiên phong truyền giáo của thời cận đại (Schurhammer) lâm trọng bệnh sốt rét, qua đời hầu như hoàn toàn trong cô đơn, cầm trong tay cây nến mà người đầu bếp Trung Hoa đã trao cho ngài, người duy nhất bên ngài lúc ngài tạ thế. Ngày đó là ngày 3 tháng chạp năm 1552.
Công lao tiên phong của cha Francois Xavier mà huyền sử đã phóng đại quá đáng những kết quả bằng con số đã sanh lợi thập bội. Trong lúc đó, cái chết của người mới chỉ có 46 tuổi là một đòn rất nặng cho miền truyền giáo còn quá mới. Nhưng với những nhà truyền giáo thuộc nhiều tu hội khác nhau sẽ qua truyền giáo ở miền viễn đông trong những thế kỷ sau này, cố tiên phong truyền giáo là người đã chỉ đường, hướng dẫn những phương pháp cho một hành động hữu hiệu và người đã đặt nền móng cho công tác của họ. Vả chăng, họ cũng lần lượt gặp những khó khăn như ngài ở Ấn Ðộ, như tai tiếng về cách cư xử của người Bồ Ðào Nha, sự phân giai cấp quá khắt khe và sự chống đối cách tích cực hay tiêu cực của tín đồ giai cấp Bà La Môn. Các thừa sai Bồ Ðào Nha quá xác tín vào ưu thế của văn hóa Tây phương nên không nghĩ gì ngoài sự gây dựng một Giáo Hội theo kiểu Tây phương với tất cả tổ chức luật pháp và quy luật phụng vụ Tây phương. Những nghi lễ đặc biệt của tín đồ thánh Thomas sáp nhập vào Roma năm 1559, không làm vừa lòng dân Ấn Ðộ. Sự đoàn kết đã bị phá hoại phần nào vì những toan tính latinh hóa những nghi lễ. Sự gặp gỡ với văn hóa Ấn Ðộ, với thế giới dị đồng và bám chặt vào với chính mình đã bị thất bại ngay lúc đầu. Họ không thấy đó là điều cần thiết. Những mưu toan rao giảng Phúc Âm trong vương quốc Ðại Mông Cổ Akbar không làm cho hoàng thân Hồi Giáo vượt qua được bước cuối cùng, mặc dầu những thiện cảm mà hoàng thân đã chứng tỏ với các nhà truyền giáo, vẫn còn có vài giáo sĩ Dòng Tên chết vì đạo.
III. NƯỚC NHẬT BẢN
Hoạt động truyền giáo trên đất Nhật Bản được phát triển cách tốt đẹp. Lúc rời Nhật Bản cha Francois Xavier đã để lại một cộng đoàn nhỏ. Sự rao giảng Phúc Âm của các tu sĩ Dòng Tên vừa đến Nhật Bản, đã sớm gặt hái được hằng ngàn tín đồ. Bảy giáo đường được xây cất, bốn năm sau khi cha Francois Xavier chết, trong kinh đô Kyoto ngày nay, nơi mà ngài bị cấm chỉ không được đặt chân tới. Năm 1582, khi giáo sĩ Dòng Tên người Ý là Valignano, giám tỉnh hội truyền giáo rời bỏ nước Nhật, số tín đồ Công Giáo đã đếm được 150.000 người. Với Tinh thần cởi mở và là nhà tổ chức khôn khéo, cha giám tỉnh Valignano đã đề nghị thiết lập một chủng viện nhằm mục đích đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ. Chẳng may kế hoạch của ngài chỉ được thực hiện một phần và rất chậm. Ngài tán trợ xây cất trường học và bệnh viện với mục đích liên kết chặt chẽ những tân tòng với toàn thể Giáo Hội và với đức giáo hoàng. Ngài tổ chức một phái đoàn sứ giả gởi sang Roma do những hoàng thân Nhật hướng dẫn, phái đoàn này được đức giáo hoàng Grégoire XIII tiếp đón với nghi lễ đại triều năm 1585. Cha Valignano cũng khuyến khích xây cất những ấn quán Công Giáo cùng thành lập văn học Thiên Chúa giáo bằng tiếng Nhật. Sự thích nghi cách dè dặt, kín đáo với văn hóa Nhật, đặt cách sống trong gia đình và ngoài xã hội xem như đang trên con đường tốt đẹp. Vì vậy, các cha Dòng Tên đã canh chừng để tránh làm phương hại sự nguyên tuyền tín lý Công Giáo khi công nhận những hình thức ngoại đạo liên hệ đến văn hóa Nhật. Vì vậy các ngài đã công nhận công thức Tây phương, đúng hơn là công thức latinh, về mầu nhiệm Kitô giáo như những danh từ ngoại quốc được đem vào bài giảng và văn chương Công Giáo Nhật.
Việc truyền giáo nuôi nhiều hy vọng vì được một lãnh chúa phong kiến quyền thế Nhật bảo trợ. Một số người lạc quan tưởng rằng toàn thể nước Nhật sẽ sớm trở lại đạo Công Giáo vì nhận thấy nhiệt tâm của những người học đạo không lùi bước trước một sự hy sinh nào. Nhưng năm 1582, vị bảo trợ đó bị ám sát. Năm năm sau, người kế vị, thình lình ra lệnh cho tất cả các vị truyền giáo phải rời khỏi nước Nhật trong thời hạn mấy ngày. Các cha Dòng Tên phải phân tán trên khắp nước Nhật và tìm ẩn trốn trong nhà của các tín hữu công giáo. Người ta có thể hy vọng những ngày tốt đẹp hơn, vì chưa thấy có gây cấn chính trị. Tới nay sự bảo trợ Bồ Ðào Nha chưa phát hiện ở Nhật, vì lẽ đức giáo hoàng Sixte Quint vừa bổ nhiệm một giám mục đầu tiên cho Nhật Bản. Nhưng hiện nay, các thừa sai Dòng Tên Bồ Ðào Nha đã gặt được nhiều thành công nên gây chú ý các thừa sai Tây Ban Nha ở Phi Luật Tân. Nơi đó, trong vòng vài chục năm các thừa sai Tây Ban Nha đã rao giảng Phúc Âm cho hầu hết các quần đảo và lần đầu tiên, tụ họp lại trên thực tế, các dân trên quần đảo thành một dân duy nhất, vì đạo Công Giáo. Thay vì tiếp tục đi sâu vào những hoạt động truyền giáo, các nhà truyền giáo Tây Ban Nha bắt đầu dòm ngó nước Nhật lân cận. Tháp tùng phái đoàn tổng trấn Phi Luật Tân, các thừa sai dòng Phanxicô đầu tiên đã đến Kyoto và Nagasaki. Kể từ đó, sự hiện diện của các thừa sai Phanxicô tạo nên cho việc truyền giáo một mầu sắc chính trì và người Nhật bắt đầu lo sợ: các nhà truyền giáo và người công giáo đang sửa soạn chinh phục nước họ. Tiếp theo đó là những bách hại đẫm máu. Năm 1597, 26 tín đồ Công Giáo bị đem đóng đinh gần Nagasaki, trong số đó có 3 linh mục Dòng Tên Nhật Bản. Nhiều cầu cứu được gởi đến phó vương Ấn Ðộ ngỏ hầu ông dùng thế lực mình để giúp đỡ ít nhất 300.000 tín đồ Công Giáo (theo những nguồn tin khác vào khoản 500.000 hoặc hơn) nhưng không kết quả, không có uy quyền nào bênh vực họ. Những thiên hoàng nối tiếp nhau ra lệnh tiêu diệt đạo Công Giáo. Tất cả các nhà truyền giáo mà họ bắt được đều bị hành hình, các tín đồ Công Giáo phải chịu nhiều cực hình khủng khiếp hầu buộc họ chối đạo. Năm 1637, xẩy ra một cuộc võ trang nổi loạn, để có thể làm chủ lại tình hình, các nhà lãnh đạo Nhật phải nhờ đến sự can thiệp của pháo binh trên chiến hạm Hòa Lan. Kế đó họ cắt đứt những liên lạc thương mại với Bồ Ðào Nha. Những nhà truyền giáo nào chưa bị hành hình đều bị trục xuất, thánh đường và trường học ḅ phá hủy. Số tử đạo trong thời oai hùng của đạo Công Giáo Nhật đã vượt quá một ngàn người. Những thừa sai còn lại sau cùng trong số đó có những vị đến hồi năm 1643, lẩn trốn trong những nhà bổn đạo, tổ chức một Giáo Hội thầm lặng (lúc đầu rất thiếu linh mục và rồi vì thiếu phẩm trật bản xứ, không còn linh mục nào nữa) mà người ta khám phá ra trong các thế kỷ XIX và XX gần Nagasaki và Osaka. Những bô lão công giáo đó đã gìn giữ Ðức Tin của họ với nguy hiểm thường xuyên cho mạng sống của họ. Những tập hồ sơ tòa án ở Nagasaki liên quan tới giai đoạn từ 1660 đến 1674 nêu lên con số 57 tín đồ Công Giáo bị hành quyết và 59 tín đồ khác bị chết rũ trong tù. Tất cả những ai bị tình nghi là tín đồ Công Giáo đều bị bắt buộc đạp lên Thánh Giá hay lên ảnh Ðức Mẹ. Người ta quả quyết, nhưng không có bằng chứng, là những tín đồ Tin Lành Hòa Lan theo phái Calvin, đã được độc quyền thượng mại với điều kiện phải sống hoàn toàn biệt lập với dân chúng cũng đã tự ý tiếp tay để thóa mạ đạo Công Giáo.
IV. SỰ THÍCH NGHI Ở TRUNG HOA VÀ ẤN ÐỘ.
Chính vào năm cha Francois Xavier tạ thế, thì cha Matteo Ricci ra chào đời, người mà 30 năm sau, sẽ là một thừa sai đầu tiên được phép vào Trung Hoa lục địa và định cư luôn tại đó. Ngài đến Macao, thành phố do người Bồ Ðào Nha xây cất, gần đảo mà cha Francois Xavier đã chết trong cô đơn. Cha Ricci, cũng là tu sĩ Dòng Tên và với sự hợp tác của hai tu sĩ Dòng Tên khác, đã sáng lập nhiều cơ sở của dòng. Trước khi đến Bắc Kinh và vào yết kiến triều đình Trung Hoa, ngài có ghé Nam Kinh. Lúc ngài chết, năm 1610, đám táng của ngài được tổ chức như một quốc táng và trên mộ có gắn mộ bia hoàng gia. Ðược những thành công lạ lùng đó là nhờ vào phương pháp truyền giáo riêng của quan tại triều và lấy tên Trung Hoa. Ngài giữ rất đúng những phong tục tập quán trong những giao thiệp của ngài với người cha Ricci. Ngài được triều đình Trung quốc ưa chuộng ngay là nhờ ngài thông suốt kỹ thuật và hiểu biết về toán số và thiên văn là những khoa học mà đế quốc Trung Hoa rất ưa chuộng. Cha Ricci đã thu lượm được tài năng đó tại Roma. Ngài chế đồng hồ, bản đồ thế giới và bình đồ, niên lịch, dụng cụ, nhất là dụng cụ để quan sát các tinh tú và ngài thảo những văn kiện ấy bằng tiếng Trung Hoa. Ăn mặc theo lối những nhà thông thái bản xứ, những bản xứ. Cái thích nghi bên ngoài tương ứng nơi ngài một sự hòa hợp bên trong. Ngài đứng trước một nền văn minh quá cổ kính, nhưng không mất đi cái sức sống đã quyết định cách rõ rệt từ đầu đến đuôi trót cả một đời trong đế quốc Trung Hoa. Vì vậy phải chăng một bên là quyền uy tuyệt đối, không chối cãi, của hoàng đế, các hoàng thân, các nhà thông thái mà nếp sống rất huy hoàng tráng lệ tương xứng với mỗi ngôi thứ. Còn một bên, nhất là ngài gặp khắp mọi nơi cái uy quyền thiêng liêng của Khổng Giáo và cái danh dự dành cho gia tộc, với đạo thờ kính tổ tiên và sự tôn thờ hình ảnh của các ngài, như một cộng đoàn tôn giáo. Miễn trừ tất cả tự phụ và tất cả kiêu căng của Tây phương, cha Ricci đã xây dựng những quan hệ tích cực với sự khôn ngoan Trung Hoa. Trong sự khôn ngoan đó, ngài nhận ra những khuynh hướng độc thần và tên các vị thần (Chúa Trời) mà đối với ngài hoàn toàn phù hợp với Ðức Tin Công Giáo. Với sự cởi mở trí tuệ và trong ý định đặt những nền móng cho một công tác rộng lớn về sự trở lại đạo, cha Ricci đã soạn thảo nhiều tác phẩm nói về những vấn đề thần học tự nhiên, và tư thế của ngài đã đem lại được nhiêu tân tòng nhất là trong giới trí thức và giới có thế lực. Ngài cho phép các tân tòng được dùng tên các vị thần Trung Hoa, thờ kính Khổng Tử và thờ kính tổ tiên. Ngài cho đó là những công thức và tập quán nhân dân và chỉ loại bỏ những nghi lễ cúng bái thuần túy. Với những cái nhìn cởi mở, được các cộng sự viên ngài chia sẻ, đã đem lại nhiều tiến bộ đáng kể. Nhân buổi tiếp kiến tại triều vua, ngài đã được phép thành lập một cơ sở, xây một thánh đường tại Bắc Kinh và rửa tội cho nhiều người trong hoàng tộc. Khi cha Ricci chết, với sự hiện diện một cộng đoàn vào khoảng 2.000 tín đồ, số đông thuộc thành phần trí thức, người ta cho là số phận của sứ mệnh truyền giáo từ nay được bảo đảm. Nhưng người kế vị ngài vì không muốn xác nhận những nhượng bộ nên đã bị trục xuất khỏi Bắc Kinh.
Người thừa hưởng tinh thần cha Ricci, là cha Adam Schalle, người gốc Cologne, gia nhập Dòng Tên tại Roma và đến Bắc Kinh năm 1622. Cũng như cha Ricci, ngài cũng là đệ tử của cha Dòng Tên nổi tiếng gốc Bamberg, là cha Clavius. Nhờ vào sự uyên bác, ngài được lòng ái mộ mau chóng của hoàng đế Trung Hoa. Nhận thấy được giao phó trách nhiệm sửa đổi lại niên lịch Trung Hoa, thừa dịp đó ngài soạn 150 chuyên luận làm thành một tác phẩm thiên văn học. Cuốn niên lịch của ngài được coi như luật truyền định. Hơn thế nữa ngài đã tính rất đích xác hiện tượng nhật thực, ngài được thăng chức đại quan triều đình hạng nhất và giám đốc đài thiên văn hoàng gia. Với chức vụ đó bắt buộc ngài phải ấn hành mỗi năm cuốn niên lịch với những chú thích mê tín. Sự sụp đổ của triều đại cũng không làm lung lay địa vị của cha Schall và công việc truyền giáo. Nhờ ảnh hưởng uy tín của ngài, công việc truyền giáo đã đánh dấu được nhiều tiến bộ. Năm 1657, tân hoàng đế đã ban tự do tín ngưỡng trong toàn nước. Số tín đồ Công Giáo ước được khoảng 150.000 người. Một thất bại đã xẩy ra sau khi hoàng đế này băng hà. Chính cha Schall cũng bị bắt cầm tù và bị lên án tử hình nhưng được cứu thoát gần như là một phép lạ. Ngài tạ thế năm 1666.
Kẻ nối tiếp ngài là Ferdinand Verbiest, tu sĩ Dòng Tên gốc Flamand. Cha là chủ tịch tòa án toán Pháp, một cộng sự viên của cha Schall và cũng là bạn đồng tù. Cha Ferdinand Verbiest là một vĩ nhân quốc tế. Ngài vận dụng tài năng của ngài trong mọi lãnh vực để gìn giữ cảm tình của hoàng đế rất cần thiết cho công việc truyền giáo. Vì vậy ngài chế tạo nhiều dụng cụ tối tân cho đài thiên văn, và đào một kinh dẫn nước lớn. Ngài chế tạo, theo lịnh vua nhiều khẩu đại bác, ngài soạn nhiều sách toán và sách hộ giáo, điều khiển công việc truyền giáo và cho dịch bộ sách của thánh Thomas d'Aquin ra Hoa ngữ, cũng như những sách phụng vụ. Thật vậy kể từ năm 1615 đức Phaolô V đã cho phép cử hành thánh lễ bằng tiếng Trung Hoa. Cha Verbiest đã gởi nhiều thơ về Âu Châu yêu cầu gởi sang nhiều cộng sự viên uyên bác, lỗi lạc và ngài cố sức đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ. Thẩm quyền tối cao trong Giáo Hội đã biện hộ cho ngài chống lại những tấn công và những lời buộc tội của phe chống đối ngài. Một đoản sắc của đức Innocent XI ca ngợi sáng kiến khôn ngoan đã biết sử dụng khoa học trần thế để truyền bá Ðức Tin. Sau khi ngài chết năm 1688, cơ quan đài thiên văn vẫn tiếp tục nằm trong tay của các cha Dòng Tên, và cứ như vậy cho tới ngày dòng bị giải tán. Trong khoảng thời gian đó các cha Dòng Tên còn đảm nhiệm nhiều công tác khác. Ðặc biệt là các cha người Pháp đã dấn thân vào việc nghiên cứu Hoa ngữ, các cha khác lại hành nghề bác sĩ. Vào năm 1692, hoàng đế Trung Hoa được chữa khỏi bệnh, hậu quả sau đó là hoàng đế cho phép rao giảng công khai Phúc Âm trên toàn nước Trung Hoa. Số tín đồ Công Giáo có thể lên tới triệu người. Năm 1674, lần đầu tiên, một linh mục Trung Hoa được bổ nhiệm vào chức Ðại Diện Tông Tòa. Phần đông các đại diện tông tòa khác là người Pháp, và các vị này đã bắt buộc tất cả các nhà truyền giáo phải tuyên thệ phục tùng. Ðó là lý do gây nên những căng thẳng bên trong phái bộ truyền giáo Trung Hoa, một phái bộ truyền giáo bề ngoài rất phát triển nhưng sự căng thẳng ấy càng ngày càng thêm trầm trọng như sẽ thấy sau này.
Ở Ấn, người ta đang tìm phương pháp thích nghi sâu rộng với luật lệ xã hội của nước này. Vào thời kỳ mà cha Ricci sống như một quan đại thần tại Bắc Kinh, thì cha Dòng Tên người Ý Roberto de Nobili (1577-1656) xin gia nhập giai cấp Bà La Môn. Cha đến miền Nam Ấn Ðộ vào năm 1606, tức khắc ngài nhận thấy những phương pháp truyền giáo do các vị thừa sai Bồ Ðào Nha đã áp dụng cho tới lúc đó không còn hiệu lực bên kia ranh giới các thương quán Bồ Ðào Nha nữa. Không một người Ấn Ðộ nào chấp nhận để cho những linh mục Tây phương lui tới liên lạc với các giai cấp quá thấp hèn, nhất là giai cấp bần hàn và ban phép rửa tội cho mình. Vì thế, được phép đức giám mục, cha Nobili từ giã các bạn đồng tu và khởi sự sống như một hối nhân Ấn Ðộ. Ngài ăn mặc như những tín đồ phái Bà La Môn và ở trong một chòi nhỏ. Ngài học Ấn ngữ và ba ngôn ngữ thường dùng trong nước. Ngài thông thạo tiếng Phạn, đến độ có thể dạy giống như các tín đồ Ba La Môn. Lại nữa, ngài tuyên bố là ngài không thuộc thành phần bình dân Âu Châu mà ngài là một hoàng thân Âu Châu và đã từ lâu ngài là một hối nhân. Thật ra ngài là một tu sĩ Dòng Tên thuộc giới thượng lưu nên những gì ngài đã tuyên bố đều rất đúng. Như vậy, ngài lôi cuốn được một số đông tín đồ thuộc giai cấp thượng lưu. Ngài cũng khởi sự bằng nhũng vấn đề thần học tự nhiên, sự hiện hữu của Thiên Chúa, sự tạo dựng trời đất và linh hồn bất tử. Các tân tòng có thể tiếp tục sống theo tập quán của giai cấp họ, họ chỉ cần từ bỏ chế độ đa thê và thờ bụt thần. Lại nữa, khi ban phép rửa tội, có thể bỏ bớt những nghi thức, xét ra không hợp với cảm xúc Ấn Ðộ. Trong một ít năm sau, ngài nghĩ cần xây cất một thánh đường dành riêng cho giai cấp Ba La Môn trở lại đạo. Theo nhận xét của các linh mục khác thì cha Nobili đã đi quá xa. Họ buộc tội cha là đã lẫn lộn những phong tục ngoại đạo với phong tục Thiên Chúa Giáo. Cha Nobili đã phải tự biện hộ. Ngài có thể bị phương hại nếu không có sự bênh vực của đức hồng y Bellarmin người đồng hương của ngài. Phương pháp truyền giáo của ngài được Roma công nhận, tuy nhiên với một vài hạn chế. Một số thừa sai Dòng Tên bắt chước ngài đối xử với những giai cấp khác. Công việc truyền giáo đạt được nhiều thành công tuy chậm nhưng liên tục. Phong trào trở lại vẫn tiếp tục mặc dầu cha Nobili đã tạ thế, mặc dầu có sự chống đối của những tín đồ Ba La Môn và sự bách hại. Ðó là nhờ cha Dòng Tên Bồ Ðào Nha Jean Britto đến Madura năm 26 tuổi và đã áp dụng ngay phương pháp sống của nhà mô phạm thuộc giai cấp thấp hơn giai cấp Ba La Môn một bậc. Vì ngài có nhiều ảnh hưởng với các hoàng thân và dân chúng nên đã gây nhiều ganh tỵ của kẻ chống đối ngài. Sau 20 năm dấn thân truyền giáo, cha Britto đã bị trảm quyết năm 1693.
Thật ra ngày nay, người viết sử Giáo Hội có thể phê phán một vài chi tiết về những phương pháp truyền giáo như vậy, nhưng sử gia không thể không công nhận sự nghiệp đó là một biểu dương vĩ đại của năng lực thật sự, của nhiệt tình và sức sống của Giáo Hội đang bị cấu xé vì sự Cải cách. Một nhóm người trẻ tuổi đã can đảm hy sinh hiến trọn cuộc đời để đi gặp những văn minh ngoại quốc và những đại đế quốc Ðông phương hầu đem đến cho những xứ này sứ điệp của Thập Giá. Những tông đồ Phúc Âm đó với những tài lực riêng của mình, đã hoạt động trong hoàn toàn cô đơn. ”Ðứa con cô đơn nhất của ngài” đó là chữ ký tên Francois Xavier dưới một bức thư gởi cho vua Bồ Ðào Nha. Ngài khao khát gặp lại một lần nữa trước khi chết, người cha tinh thần của ngài là Ignace. Không thể tìm được lời chỉ dạy, ngài phải lấy những quyết định tối quan trọng với một ít anh em đồng tu, thường là gốc ngoại quốc, đương đầu với nhiều gian nguy vượt qua được những khó khăn, chế ngự được những thất vọng. Ðó là cơ hội trong đó các nhà đi tiên phong đơn độc thai nghén những quan niệm như ý thức thích nghi, làm đảo lộn các truyền thống đã ổn định. Vậy không phải là những quan niệm tầm thường, chúng ta có bằng chứng trong mọi chống cự mà các vị tiên phong đã gặp phải từ các anh em đồng tu của họ. Nguồn an ủi duy nhất có lẽ là sự tín nhiệm cao cả mà thánh Ignace, những vị kế tiếp ngài và các giáo hoàng đã dành riêng cho họ.
V. NHỮNG LÀNG TRUYỀN GIÁO Ở PARAGUAY.
Những sửa đổi ở Nam Mỹ Châu tiêu biểu cho một toan tính lớn lao và một kỳ công làm hậu thế phải kính trọng. Nếu ở miền Ðông Á, sự thích nghi các tu sĩ dưới sự bào trợ của Bồ Ðào Nha vào những nền văn minh cao thượng là một thử thách, thì ở Châu Mỹ latinh, việc bảo vệ các bộ lạc mà trình độ quá thấp kém, chống lại sự bóc lột và ưu thế của các người đến chinh phục và thực dân, là tuần tự giáo dục những bộ lạc này để làm cho họ trở nên dân Chúa. Cần có nhiều người rao giảng Phúc Âm cho đám bình dân và nhiều nhà giáo dục thực tài hơn là những nhà bác học. Chớ gì những kế hoạch do các cha Dòng Tên và các cha dòng Phanxicô đã dự định và được coi như nguyên động lực, sự kiện đó hứa hẹn một thành công lâu dài. Như vậy các cha dòng Phanxicô có thể thành lập nơi các bộ lạc những cộng đoàn phỏng theo những phong hội dòng ba Phanxicô, còn các cha Dòng Tên ở Âu Châu, phần đông là những nhà chuyên môn giáo dục các giới trí thức, thì thực hiện những nguyên tắc sư phạm và áp dụng những kinh nghiệm của họ vào các trường giống như trường lộ thiên không lệ thuộc hàng giáo phẩm. Trước áp bức đáng thương tâm trên người Mọi Châu Mỹ, Giáo hội và luật pháp quốc gia, luôn luôn trên nguyên tắc, bênh vực nhân vị của người Mọi Châu Mỹ. Trước tính tình hay thay đổi và bản năng du mục luôn tỉnh thức trong các bộ lạc, đang ngăn cản đi sâu vào mọi giáo huấn và giáo dục Công Giáo, sự tách rời dân bản xứ khỏi người Âu Châu, sự bắt buộc định cư một chỗ nhất định là những điều kiện tiên quyết cho hoạt động truyền giáo thật sự. Những toan tính thực hiện đầu tiên theo phương pháp đó được Bề Trên Tổng quyền Dòng Tên là cha Aquaviva cho phép, những toan tính khác được thực hiện tại Mễ Tây Cơ. Năm 1610 vua Philippe III nước Tây Ban Nha đã thành lập những nền tảng pháp lý bằng cách giải phóng dân mọi khỏi làm nô lệ cho những tư nhân và đặt họ trực tiếp dưới quyền vua. Với danh nghĩa của vua, các nhà rao giảng Phúc Âm phải gánh nhiệm vụ về hành chánh thế tục và quyền xét xử trong những vùng chưa có người da trắng ở, những vùng lân cận Parana trong nước Paraguay ngày nay và nối giáp giới xứ Ba Tây và xứ Argentine (3). Cùng năm đó, các cha Dòng Tên thành lập làng truyền giáo đầu tiên, làng truyền giáo thâu hẹp thánh Ignace. Trong khoảng 20 năm sau, có cả thảy 13 làng khác được thành lập, và năm 1700 người ta đếm được 30 làng. Người Guaranis, kéo đến định cư mau chóng trong những làng Công Giáo đó, mỗi làng có khoảng từ 2.000 đến 3.000 dân định cư. Sự định cư được thực hiện với những kế hoạch nghiên cứu rất chu đáo. Chính giữa làng có một thánh đường bằng gạch nung được dựng lên với mặt tiền trang hoàng rất lộng lẫy, bên hông là gác chuông. Nơi công trường trước thánh đường người ta xây cất trường học, nhà các cha, những tòa nhà cho bệnh nhân, cho những bà góa phụ, những người ngoại quốc. Tiếp theo là những dãy nhà bằng gạch, mỗi gia đình một căn, sau này họ cũng cất bằng đá. Nhà máy xay lúa và những cơ xưởng đều được cất ven làng. Ðất cày cấy được là sở hữu chung của tập thể cũng như những dụng cụ canh nông. Tuy nhiên, tài sản của gia trưởng không những chỉ giới hạn ở miếng vườn xung quanh nhà, mà còn được đặc nhượng một phần đất nhỏ thuộc tài sản tập thể, như phần ruộng riêng và họ phải lo cày cấy rồi sau đó nhượng lại cho làng xã một phần những hoa lợi khi gặt được. Như vậy người ta có thể nộp thuế cho vua và trông nom những người bệnh tật và người già yếu. Mọi người đều buộc phải làm việc và chịu sự kiểm soát, vì những người Mọi Châu Mỹ chưa có thói quen chăm lo làm việc đều đặn. Những luật lệ hết sức đơn giản được dùng để giải quyết vấn đề sống chung, các cha Dòng Tên xét xử rất rộng lượng. Hình phạt nặng nhất và tối đa là bị đuổi ra khỏi làng. Bên cạnh các cha có xã trưởng bản xứ do dân trong làng bầu ra. Nên lưu ý các người Tây phương không được nhận vào những làng này. Ðời sống công cộng và đời sống cá nhân nhuộm mầu tôn giáo, nghĩa là xem lễ và lần chuỗi Môi Khôi mỗi ngày, trẻ con mỗi ngày được học giáo lý và người lớn mỗi chúa nhật. Không phải ngẫu nhiên mà người ta gọi ”làng chinh phục” hay ”làng giáo huấn”. Còn phải nói đến những buổi đi kiệu và những buổi trình diễn văn nghệ Công Giáo, để thích ứng với bản tính ngây ngô và bộc trực của người Guaranis. Ðời sống hạnh phúc, theo chế độ quyền gia trưởng. Những làng truyền giáo chỉ bị quấy phá do những xâm nhập chớp nhoáng của những bộ lạc mọi man rợ và những tấn công của những người buôn bán nô lệ. Chính vì lý do đó mà năm 1641 các cha Dòng Tên được vua cho phép võ trang người dân trong làng. Thật vậy, thời kỳ đó người ta thử giải quyết vấn đề chủng tộc bằng cách biệt lập những người da trắng. Việc đó tăng thêm những đồn đại khác nhau, như nói các cha Dòng Tên đã tích trữ những kho tàng đồ sộ trong các làng truyền giáo. Nhìn cho kỹ hơn, tuy những làng truyền giáo tùy thuộc nhà vua, nhưng những làng này tạo thành một thế giới thu nhỏ lại, tự trị, một quốc gia Dòng Tên. Nhờ vào sự trung thành tiếp tục hoạt động trong nhiều thế hệ, không còn nghi ngờ gì nữa, người mọi định cư trong các làng đã trở thành những người ham làm việc và lương thiện. Lại nữa, việc rao giảng Phúc Âm nơi đây không cần đến những viện trợ tài chánh bên ngoài nữa. Tuy nhiên các cha Dòng Tên hình như đã thiếu tưởng tượng để phát triển mạnh hơn những kế hoạch đã vạch ra và nhất là không quan tâm đến vấn đề đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ. Ngoài ra, người ta không thể nào không nhận thấy những khó khăn tinh thần vào cuối thời đại ấy.
VI. NHỮNG BUỔI ÐẦU CỦA THÁNH BỘ TRUYỀN GIÁO.
Những cơ sở truyền giáo được kể ra cho tới đây tùy thuộc đặc quyền quốc vương. Chế độ cố chủ của các vua Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha tuy có bảo vệ ít nhiều công việc truyền giáo, nhưng cũng ấn định những ranh giới làm cho vấn đề truyền bá Phúc Âm trở thành một nhiệm vụ quốc gia liên kết chặt chẽ với chánh sách thuộc địa. Ý thức rằng công việc truyền giáo là thuộc thẩm quyền của Giáo Hội hoàn vũ, chỉ được biểu lộ bằng việc thành lập Thánh bộ Truyền Bá Ðức Tin, gọi tắt là Thánh Bộ Truyền Giáo. Cơ quan Thánh Bộ là một tổ chức trung ương tập quyền của Giáo Triều sau công đồng Trente. Thật vậy cơ quan đó đã có mục đích như vậy, nhưng trước tiên đó cũng là kết quả của một ý thức mới về những trách nhiệm mục vụ quốc tế của Giáo Hội. Những nghiệp vụ đó không thể bỏ mặc cho thiện chí của vua chúa, bỏ mặc cho sự nhiệt tâm truyền giáo của vài dòng tu. Nó thuộc thành phần những bổn phận mà đại diện Chúa Giêsu phải đảm nhiệm. Nó cấu tạo một phần sứ mạng tông đồ, đặc biệt cho người kế vị thánh Phêrô Tông đồ mà Thiên Chúa đã giao trọng trách chủ chăn của toàn Giáo Hội. Một lần nữa Giáo Hội chính thức dùng những nguồn sinh lực tràn trề trong tâm hồn giáo dân, gìn giữ nó tinh tuyền, hướng dẫn và làm cho sinh nhiều hoa trái.
Trong giai đoạn đầu, sáng kiến của thánh Ignace chỉ có tầm vóc địa phương, đó là sứ mệnh truyền giáo cho người Do Thái tại Roma và đặt dưới quyền điều khiển chính thức của Giáo Hội do một hồng y bảo trợ đại diện. Ðức Pio V đã thành lập hai ủy ban điều hành: một ủy ban lo về vấn đề hoán cải những người lạc đạo, một ủy ban khác lo vấn đề dân ngoại và bổ nhiệm vào hai ủy ban đó nhiều hồng y. Giáo Triều cứu xét rất cẩn thận ý kiến thành lập một chủng viện giáo hoàng truyền giáo, nhưng chưa đến lúc. Lịch sử cận đại về hoạt động truyền giáo lưu ý là lúc đức Sixte Quint tổ chức lại Giáo Triều, trong 15 thánh bộ hiện hữu không có một thánh bộ nào được giao phó nhiệm vụ truyền bá Ðức Tin (4). Thật vậy, đức Clément VIII đã thành lập năm 1599 một ủy ban tương tự như vậy, nhưng ủy ban đó không hoạt động được bao lâu, vì đức giáo hoàng đã băng hà năm 1605. Trong lúc đó, các khất sĩ dòng Camêlô cải cách Tây Ban Nha đã khởi sự công việc truyền giáo ở miền Cận Ðông và các tu sĩ trong hàng giáo sĩ dòng Ý Ðại Lợi thúc đẩy không ngừng thành lập một thánh bộ Roma cho việc truyền bá Ðức Tin. Ðang lúc chiến tranh ở Bohême, Bề trên Tổng quyền dòng Camêlô là cha Dominico de Jésus Marie dẫn đầu đoàn quân, đã leo lên ngọn Bạch Sơn (montagne blanche), năm 1620, giơ cao Thánh Giá để cổ võ đoàn quân đi đến chiến thắng. Ngài không bỏ lỡ dịp khuyến dụ một trong những người bạn thân là một hồng y về sự cần thiết thành lập Thánh bộ Truyền Giáo. Hồng y đó sau này là đức giáo hoàng Grégoire XV (1621-1623): Quyết định thành lập đã được chấp thuận.
Trong dịp lễ Ba Vua năm 1622, đức giáo hoàng ”ý thức được nhiệm vụ cao cả nhất của nghiệp vụ tông đồ là truyền bá Ðức Tin để dẫn đưa nhiều người nhìn biết và thờ lạy Thiên Chúa thật”, đã thành lập một thánh bộ gồm 13 hồng y, hai vị cao cấp trong Giáo Hội và một thơ ký và ngài giao phó cho thánh bộ này nhiệm vụ truyền bá Ðức Tin. Sắc chỉ thành lập ”Inscrutabili divinae providentiae” (Do sự quan phòng lạ thường của Thiên Chúa), được ban hành ngày 22 tháng 6 năm 1622. Những cố gắng trước kia vẫn còn hiện diện trong ký ức, nên trước tiên cần phải thí nghiệm những khả năng và những giới hạn của một công đoàn phát xuất từ nhiệt tình tôn giáo, trước khi chính thức sáp nhập vào những Thánh Bộ khác do đức Sixte Quint thành lập. Những công tác đầu tiên của nhân viên Thánh bộ là đánh dấu một lạc quan đầy triển vọng đi cùng với những kế hoạch đã suy nghĩ rất chín chắn. Thơ ký Thánh bộ là một nhân vật rất hoạt động và khôn khéo. Thánh bộ được phát triển phần lớn là nhờ vào nhiệt tâm của cha dòng Camêlô là Dominique de Jésus Marie, được bổ nhiệm vào công tác thánh bộ và người ta có thể thường xuyên dâng tới ngài những món tiền lớn. Một trong hai giám chức là cha Vives, người Tây Ban Nha là khâm sứ cạnh công chúa Isabelle, dâng tặng cơ dinh của ngài cho Thánh bộ xử dụng. Cơ dinh tọa lạc tại công trường Tây Ban Nha, Roma. Vị thứ hai đã giữ một vai trò rất quan trọng việc soạn thảo kế hoạch. Buổi họp đầu tiên đã diễn ra ngày 14 tháng giêng. Từ buổi họp thứ hai diễn ra trong tháng 3, những phân bộ hành sự được phân phối những dự định tài trợ được soạn thảo, các hồng y trong dịp đó tỏ ra có tinh thần hy sinh. đức giáo hoàng ra lệnh cho Thánh bộ phải ”thảo luận và làm sáng tỏ toàn thể những vấn đề chung cũng như trường hợp cá nhân” (những vấn đề tối quan trọng phải được thảo luận với sự hiện diện của đức giáo hoàng) có liên quan đến công việc truyền bá Ðức Tin trên khắp thế giới, và như vậy mới hoàn toàn có khả năng đối phó với những vấn đề cũ cũng như với những vấn đề hiện tại, cũng như với những trường hợp quan trọng đòi hỏi một quyết định đặc biệt. Số các hồng y trong Thánh bộ Truyền Giáo phải tương xứng với 13 vùng của địa cầu. Mỗi vùng được đặt dưới quyền hành của một hồng y. Tuy vậy 13 sứ thần Tòa Thánh hay đại diện thượng phụ thay mặt các hồng y ở mỗi địa hạt. Từ nay các sứ thần Tòa Thánh, ngoài nhiệm vụ thông thường của các ngài, còn phải đảm nhiệm thêm những công tác hoàn toàn tôn giáo và phải chịu trách nhiệm hoàn tất sứ mệnh truyến bá Ðức Tin trong tỉnh hạt của mình. Thông điệp ”Divisio provinciarum totius urbis terrarum” (Việc phân chia toàn bộ thế giới ra các tỉnh hạt) đã xuất hiện như một sự trở về nguồn vĩ đại mà ta có thể so sánh với lễ Hiện Xuống đầu tiên. Ðiều đáng lưu ý là trong 13 tỉnh hạt, 8 tỉnh hạt là ở Âu Châu, những lãnh thổ nói tiếng Ðức gồm luôn Hung Gia Lợi và Transylvanie được phân chia với Grisons và Franche Comté giữa ba sứ thần Tòa Thánh ở Cologne, Vienne và Lucerne; Bỉ, Hòa Lan, Anh quốc, Ái Nhĩ Lan, Ðan Mạch và Nauy thuộc sứ thần ở Bruxelles; Balan, những nước ở vùng Ðại Tây Dương (Baltes), Thụy Ðiển và nước Nga thuộc quyền sứ thần Tòa Thánh tại Balan. Hai tỉnh hạt khác gồm có Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha với những thuộc địa và lãnh thổ hải ngoại của hai nước này. Chỉ có 3 tỉnh hạt là thuộc phần đất ngoại giáo, không lệ thuộc các tỉnh hạt Âu Châu, nhưng với những khu Công Giáo Tiểu Á, Trung Ðông và Bắc Phi. Lại nữa, người ta nhận thấy trong chiếu thư gởi cho các sứ thần Tòa Thánh đả thông báo cho các vị này sự thành lập Thánh Bộ Truyền Giáo, trình bày những công tác Thánh bộ như phải làm cho những người lạc đạo và người vô thần được trở lại, bảo toàn những dân chưa hoàn toàn bị tiêm nhiễm bởi phong trào Cải cách, và đặt hàng rào ngăn chận bước tiến của những nhà chủ trương canh tân tôn giáo. Sứ mệnh truyền giáo cho những dân ngoại giáo đứng hàng thứ yếu và không được nói đến nhiều. Vì vậy Thánh bộ đã chỉ định vùng Cận Ðông và nhất là vùng Trung và Bắc Âu Châu như là những khu vực hoạt động đầu tiên và những công tác chính như: ân cần săn sóc hết lòng cho nhóm thiểu số tín đồ Công Giáo đang nguy khốn trong các quốc gia Tin Lành, hết sức thận trọng và dè dặt trong sự tái lập đạo Công Giáo trong các lãnh thổ mà các vua Công Giáo đã chiếm được trong cuộc chiến 30 năm, khai thác mọi khả năng để đem Phúc Âm hoặc tôn giáo vào những lãnh thổ còn khép kín cho đến ngày nay, gởi và bổ nhiệm các linh mục thừa sai truyền giáo đã được chuẩn bị chu đáo, mà phần đông là các cha dòng. Sau hết, Thánh Bộ Truyền Giáo, ngay từ lúc đầu cấm chỉ các vị thừa sai không được hoạt động chính trị; Thánh bộ cũng tìm phương thế loại bỏ những mưu đồ chính trị ra khỏi những mục tiêu tôn giáo và mục vụ. Vì lẽ đó, vấn đề giao hoàn những tài sản của Giáo Hội mà cuối năm 1623 Palatinat đã tịch thâu của Thánh bộ và được trao lại cho một cơ quan đã được thành lập chỉ vì lý do đó, gọi là ”congregatio Palatinatus”.
Vừa được thành lập, Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin cố gắng làm cho toàn thể dân Công Giáo ý thức được vấn đề truyền giáo. Thánh bộ đã gởi cho tất cả các giám mục những bản thông điệp mà trước đó đã gởi cho các sứ thần Tòa Thánh, ngỏ hầu các vị này khuyên dụ các bổn đạo sốt sắng tham gia vào công cuộc truyền giáo bằng những tặng vật và thành lập nhiều cơ quan đạo đức. Về phần các cha giảng mùa chay, các vị nên giới thiệu và quyên tiền cho Thánh bộ. Như vậy những đóng góp tài chánh không bị coi như của bố thí mặc dầu rất to tát, mà mỗi kỳ họp Thánh bộ, cha Dominique đã đem về cho Thánh bộ ròng rã trong bảy năm. Trong những năm đầu, Thánh bộ đã nhận được nhiều quà tặng từ Naples và Gênes, do các phó vương Tây Ban Nha và tổng giám mục Salzbourg gởi tặng, thêm vào đó còn có phần đóng góp của các hồng y và lòng rộng rãi của đức giáo hoàng. Số tiền nhận được đều dùng cho những chương trình lớn, cho việc đào tạo các nhà thừa sai, cho chi phí di chuyển và nhu cầu cần thiết thường nhật. Trên nguyên tắc, Thánh bộ không thỏa mãn những đơn xin trợ cấp tài chánh cho các tân tòng hoặc giúp đỡ tài chánh cho nền văn học Công Giáo.
Ngay từ buổi đầu, Thánh Bộ Truyền Giáo mong muốn giữ một vai trò quyết định trong vấn đề đào tạo các vị thừa sai truyền giáo. Nhưng những trường lớn ở Roma luôn dẫn đầu chương trình này, đặc biệt là trường các cha Dòng Tên. Họ khôn khéo tách khỏi ảnh hưởng của Thánh bộ. Với các trường Giáo Hoàng ngoài Roma, hoạt động của Thánh bộ có phần dễ dàng hơn. Lấy danh nghĩa của Thánh Bộ Truyền Giáo, các khâm sứ Tòa Thánh thăm viếng định kỳ các trường này. Lại nữa, các trường hài lòng khi nhận thấy có một người bảo vệ và ân cần lo cho họ thường xuyên. Từ nay những trường này chỉ được quyền thâu nhận các học viên thuộc bản xứ của mình. Nếu nguyên tắc ấy được áp dụng vào sứ mệnh lo cho sự trở lại của dân ngoại thì lý tưởng đã thành đạt: việc truyền giáo được đặt dưới quyền hàng giáo phẩm bản xứ. Chính trong chiều hướng đó mà thơ ký Thánh bộ là Ingoli đã trình bày năm 1628. Tại Roma đức Urbano VIII năm 1627, trong cung điện đã được dâng cúng, gần cầu thang Tây Ban Nha, đã khai mạc ngôi trường đặc biệt dành riêng cho Thánh bộ Truyền bá Ðức Tin và tiếp đón sinh viên của nhiều quốc gia khác nhau.
Từ nay, các nhà truyền giáo được gởi đi với danh nghĩa Giáo Hội chứ không nhân danh một tu hội nào. Vì thế, các tông đồ thừa sai tương lai phải được khai báo cho Thánh bộ biết và phải qua một kỳ huấn luyện trước khi được Thánh bộ trao cho thơ ủy nhiệm và tờ ủy quyền cần thiết. Các ngài phải thường xuyên báo cáo những hoạt động và kết quả về Thánh bộ. Ðể tán trợ hoạt động của các nhà truyền giáo, từ năm 1631, Thánh bộ đã xuất bản tại ấn quán của Thánh bộ các sách phụng vụ và sách giáo lý bằng ngoại ngữ, nhất là cho những nước vùng Balkans. Ðể có thể dâng hiến trọn vẹn cho hoạt động truyền giáo, các vị thừa sai truyền giáo không thể bị chi phối quá nhiều bởi các đấng Bề Trên dòng mình. Các đấng Bề Trên này chỉ có thẩm quyền về đời sống tu trì chứ không về những hoạt động tông đồ của sứ giả Ðức Tin. Những tân thừa sai được huấn luyện trong các trường thuộc Thánh bộ, được yêu cầu tuyên thệ sẵn sàng để Thánh bộ tùy nghi bổ nhiệm và không gia nhập vào các dòng tu.
Hoạt động của Thánh Bộ Truyền Bá Ðức Tin ở Âu Châu tương đối dễ tiến hành, còn ở hải ngoại, vì lý do phương tiện giao thông, sự tiến hành đòi hỏi phải nhiều năm. Trước tiên thơ ký thánh bộ Ingoli tìm hỏi nơi các tu hội truyền giáo những báo cáo về tình hình những hội thừa sai. Tình trạng truyền giáo thật bất lợi trong những xứ do vua bảo trợ. Bổ nhiệm một sứ thần tòa thánh đặc biệt tại Ấn Ðộ hoặc mọi liên lạc của các sứ thần Tòa Thánh ở Madrid và Lisbonne với các lãnh thổ hải ngoại bị coi như một sự lấn át quyền vua. Người bản xứ không được đi học. Hồi đầu thế kỷ XVIII, vua Philippe V cấm mở một chủng viện miền tại Manille. Lại nữa những chính quyền thuộc địa không muốn thấy uy quyền Roma thay thế họ trong việc lãnh đạo Giáo Hội truyền giáo. Vì vậy Thánh bộ bắt buộc khiêm tốn cầu cạnh triều đình Lisbonne và triều đình Madrid cung cấp những tin tức. Giáo Hội không thể can thiệp trực tiếp, nhất là trong đế quốc thuộc địa Tây Ban Nha là nơi người ta đã đặt những tổ chức giáo sĩ thường, đã thành lập những giáo khu và tòa giám mục và nơi đây vua dành cho mình quyền bổ nhiệm các giám mục. Nếu các giám mục Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha ở Nam Mỹ không quan tâm đến những đòi hỏi cấp bách của thời đại, không học tiếng địa phương, không lo lắng đến nhiệm vụ tông đồ, và ngược lại chỉ lo tìm kiếm những lợi ích trần gian; nếu Thiên Chúa giáo đã không đi sâu hơn vào bán lục địa này, sự thiếu thốn ngày nay còn được coi như một duyên cớ đau thương của tình trạng suy nhược ở Châu Mỹ latinh trên phương diện tôn giáo: cái lỗi đó không phải là lỗi của Roma và của Thánh bộ Truyền Giáo.
Tình hình có phần hơi khác trong lãnh vực chủ quyền Bồ Ðào Nha ở Ðông phương. Trong chính những xứ thuộc địa, Thánh bộ chỉ có thể can thiệp một cách gián tiếp bằng huấn lệnh chỉ đạo tổng quát. Trái lại trong nhiều xứ Viễn Ðông bắt đầu từ mũi Bonne Esperance, qua Phi Châu, cho đến Nhật Bản, tất cả kể như tùy thuộc tòa giám mục Goa, liên lạc của Bộ Truyền Giáo với Bồ Ðào Nha có phần dễ thở hơn, và Roma có thể dễ dàng giải quyết nhiều vấn đề hơn. Thật vậy, giáo phận Goa được nâng lên hàng tòa tổng giám mục năm 1558, rồi theo đơn xin với sự tán trợ của Bồ Ðào Nha, Tòa Thánh thiết lập thêm mấy tòa giám mục qua tới Nhật Bản. Nhưng với bảy tòa giám mục (vào năm 1600) rải rác từ Ấn qua Nhật, con số linh mục Bồ Ðào Nha hoàn toàn không tương xứng với lãnh thổ hoạt động quá bao la. Các ngài quá ít ỏi để có thể điều hành chức vụ cách chặt chẽ, hiệu lực và có tổ chức hành chánh tốt đẹp trong những lãnh thổ đó. Thêm vào đó còn có sự nghi kỵ quốc gia của người Bồ Ðào Nha, dân này hiện đang dấn thân trong công cuộc tranh đấu để bảo tồn đế quốc thuộc địa của họ, chống lại những nhà thừa sai không phải là người Bồ Ðào Nha muốn vào truyền giáo trên lãnh thổ họ. Ðể có thể đào tạo hàng giáo sĩ bản xứ và để tránh mọi hiểu lầm là các thừa sai sửa soạn một chánh sách thuộc địa, Roma muốn thành lập một số đông tòa giám mục ít lệ thuộc Bồ Ðào Nha hơn. Vì sự cứu rỗi các linh hồn, giáo triều Roma tự đứng ra đảm nhiệm điều khiển các hội thừa sai, bổ nhiệm các giám mục. Nhưng, vì Bồ Ðào Nha tìm mọi mưu chước để ngăn cản Tòa Thánh không cho thiết lập những tòa tổng giám mục mới tách rời khỏi giáo khu trung ương Goa, Thánh Bộ Truyền Giáo đã tìm được một giải pháp rất thú vị là thay vì bổ nhiệm những giám mục chính tòa, Thánh bộ chỉ bổ nhiệm những giám mục hiệu tòa, đặc trách điều khiển các Giáo Hội địa phương nhân danh đức giáo hoàng. Giải pháp tinh vi đó đã được xử dụng ở Âu Châu từ khi bổ nhiệm đại diện tông tòa tiên khởi Utrecht. Năm 1637, các đại diện tông tòa tiên khởi tại Nhật Bản và tại Ấn Ðộ được bổ nhiệm. Ðại diện Tông tòa Ấn Ðộ là một linh mục thuộc phái Balamôn trở lại đạo. Dù vậy, ngài bị tổng giám mục Goa gây nhiều khó khăn trong việc thi hành chức vụ của ngài. Kể từ năm 1659 một số giám mục hiệu tòa khác được bổ nhiệm như Ðại Diện Tông Tòa, nhất là tại các xứ Ðông Dương và Trung Hoa. Những nơi này, các tân giám quản không bịchính quyền Bồ Ðào Nha xen vào. Nhưng vào khoảng thế kỷ XVII, đế quốc thuộc địa Bồ Ðào Nha bị xụp đổ cách nhanh chóng. Những lực lượng ngoại quốc thuộc giáo phái Tin Lành như lực lượng Tin Lành Anh Quốc và thương hội Hòa Lan vùng Ðông Ấn lần lần thừa hưởng từng lãnh thổ của Bồ Ðào Nha.
VII. NHỮNG THỪA SAI PHÁP Ở GIA NÃ ÐẠI, CẬN ÐÔNG VÀ VIỄN ÐÔNG.
Hai đại diện Tông tòa được bổ nhiệm năm 1659 là người Pháp. Nước Pháp đã dấn thân trong hơn một thế kỷ vào hoạt động truyền giáo sau nước Tây Ban Nha và nước Bồ Ðào Nha. Tất cả những năng lực mục vụ thuở trước đã qui hướng vào việc đem lại sự hiệp nhất tôn giáo cho đất nước và cải tổ đời sống Công Giáo. Những cha Dòng Tên Pháp đầu tiên đã tới xứ Tân Ecosse vào đầu thế kỷ XVII. Nhưng người Anh đã xua đuổi họ. Những vị đến sau cùng cũng chung số phận. Với sự củng cố uy quyền Pháp ở Gia Nã Ðại, các cha Dòng Tên mới có thể bắt đầu làm nhiệm vụ thật sự cạnh các dân thuộc địa và những nỗ lực truyền giáo canh tân mọi da đỏ. Chưa đầy 10 năm mà đã có 50 cha hoạt động trên Tân nước Pháp (Nouvelle France). Nhưng việc truyền giáo cho người da đỏ rất cực khổ, gian nan và kết quả không được bao nhiêu. Vài ngàn người mọi da đỏ trở lại đạo sanh sống trong những làng dọc theo sông Saint-Laurent. Số đông dân bộ lạc Hurons là tín đồ Công Giáo bị dân bộ lạc Iroquois, ngoại đạo, sát hại. Có ít nhất là 8 cha Dòng Tên đã chết vì đạo. Chỉ cần một ví dụ cũng đủ làm rạng rỡ sự tự nguyện hy sinh cao cả: Isaac Jogues được người Hòa Lan cứu thoát vào phút chót khỏi cột trụ tra tấn của bộ lạc Iroquois và đem về Pháp (1644). Ðức Urbanô VIII cho phép cha cử hành thánh lễ mặc dầu cả hai cánh tay của ngài đều bị dân mọi cắt cụt. Ngài nói :”Thật là nhục nhã khi cấm một người tử vì đạo Chúa uống máu Ðức Kitô”. Cha Jognes đã trở lại sở truyền giáo và Cha đã bị người mọi giết chết tại chỗ (1646).
Một giáo phận tông tòa được sáng lập năm 1657 trên phần đất thuộc địa, là khởi điểm cho mọi hoạt động truyền giáo. Tông tòa này sẽ được nâng lên làm tòa giám mục Québec năm 1674. Vị Ðại diện Tông tòa và giám mục đầu tiên là đức cha Montmorency-Laval, ngài đã xây cất một chủng viện năm 1667, tiền thân của đại học ngày nay mang tên ngài. Trước đó, nữ tu dòng Ursuline tên là Marie de l'Incarnation (Guyart) tới từ thành Tours, đã quảng đại và thành tâm dâng hiến đời mình cho công việc giáo dục các thiếu nữ bản xứ và các kiều dân thuộc địa, bà đã sáng lập nữ tu viện thánh Ursula đầu tiên ở Tân thế giới. Là nữ tu chiêm niệm, bà cương quyết thực hành những hành trình dài cô đơn để chu toàn công việc truyền giáo giữa dân mọi Iroquois, vì những dân địa phương khác từ từ di tản đến vùng Ðại biển hồ (Grands lacs). Các vị thừa sai cũng dùng cùng con đường đó xuyên qua rừng già âm u và ao hồ sình lầy. Nhà thừa sai truyền giáo Jacques Marquette là một trong những người sáng lập những trạm truyền giáo ngay trong xứ. Ngài đi tìm kiếm trong rừng những bộ lạc chưa ai biết tới để rao giảng Ðức Tin. Năm 1673, ngài nhận được lệnh khai thác lưu vực sông Missisippi và ngài đi từ Greenbay trong quận Wisconsin cho tới hải khẩu Arkansas ở miền Nam. Ngài định hướng được hải khẩu Mississippi trong vịnh Mễ Tây Cơ. Cuộc hành trình mạo hiểm của ngài trên chiếc xuồng làm bằng vỏ cây theo một lộ trình dài 4500 cây số trên những vùng nước lạ và náo nhiệt. Câu chuyện được kể lại cho chúng ta cách khiêm tốn mà vài người ngày nay không nhận tác giả là Marquette. Theo sự mong muốn của nhà truyền giáo, cuộc thám hiểm đó đi đến kết quả nếu không phải là sự khám phá ra con đường ngắn hơn từ Âu Châu sang Trung Quốc và Nhật Bản, thì ít ra cũng biểu hiện sự bành trướng ảnh hưởng thuộc địa Pháp. Thành phố Saint Louis được xây cất từ năm 1682. Rủi thay, nước Pháp không lợi dụng được những may mắn ấy, và họ đã tước đoạt công lao anh dũng và lâu bền của các thừa sai Dòng Tên. Kể từ đầu thế kỷ XVIII, người Hòa Lan và người Anh bắt đầu bách hại dữ dằn những miền truyền giáo Công Giáo. Và cho đến năm 1763, những lãnh thổ phía Ðông Mississippi trở thành thuộc địa của Anh và những lãnh thổ phía Tây trở thành thuộc địa Tây Ban Nha.
Lúc đầu, hội truyền giáo Bắc Mỹ Châu hưởng sự hỗ trợ chắc chắn của Richelieu, ông giúp đỡ hội truyền giáo vì quyền lợi thương mại và với mục đích ngăn chặn kiều dân Hugnenot thành lập một quốc gia Tin Lành Calvin trong Tân thế giới. Sự phối hợp giữa quyền lợi tôn giáo và quyền lợi kinh tế và quốc gia được biểu hiện trong sự nâng đỡ mà nước Pháp đã mang đến cho miền truyền giáo Tiểu Á. Sau khi thành lập Thánh Bộ Truyền Giáo và duy trì những liên lạc lỏng lẻo với Thánh bộ, Richelieu và cố vấn của ngài là cha Joseph, đã tổ chức những miền truyền giáo do các cha dòng Phanxicô phụ trách tại những thành phố lớn Ðông Phương. Không bao lâu, khoảng gần 100 cha dòng Phanxicô Pháp hoạt động từ Hy Lạp đến Ba Tư. Ðức hồng y nâng đỡ miền truyền giáo với sự tài trợ hằng năm rất dồi dào. Chúng ta không nên quên là các đại sứ bên cạnh vua Thổ Nhĩ Kỳ và vua nước Ba Tư đã liên minh với vua nước Pháp và do đó, đã để cho các nhà thừa sai Pháp một vài tự do hoạt động. Tuy nhiên, các ngài vẫn không được phép rao giảng Phúc Âm giữa những người hồi giáo, các nhà thừa sai chăm lo trước nhất những người công giáo chính thống và người Arménien. Mặc dầu có sự hợp tác giữa dòng Carmelô và dòng Ðaminh, kết quả truyền giáo thâu lượm được không mấy vẻ vang, cả sau khi Picquet chịu chức linh mục đã trở lại Cận Ðông với tư cách vừa là Ðại Diện Tông Tòa vừa là Ðại sứ vua Louis XIV.
Nhưng chúng ta hãy trở lại miền Viễn Ðông. Nơi đây, việc bổ nhiệm những Ðại Diện Tông Tòa gây thêm nhiều rắc rối mới. Những dòng tu chuyên lo hoạt động truyền giáo đã nhiều lần nhận được những đặc ân rõ rệt của Tòa Thánh, như được miễn quyền tài phán giám mục và được quyền ban phép thêm sức. Vì vậy, sau khi các đại diện Tông tòa đến, các cha thừa sai dòng vẫn cố chấp bảo vệ những đặc ân đã được và không muốn nhìn nhận uy quyền của các đại diện Tông tòa. Cho nên các cha thừa sai Dòng Tên Tây Ban Nha và Bồ Ðào Nha từ chối tùng phục các linh mục triều người Pháp mà bây giờ là các đấng bề trên của họ trong các xứ truyền giáo. Thánh bộ Truyền giáo đã nhiều phen cố thử tăng thêm quyền hành cho các vị bề trên mới. Các vị thừa sai Ðông Dương và Trung Quốc lễ ra từ nay phải tuyên thệ vâng lời các đại diện Tông tòa. Các thừa sai Dòng Tên ở Ðông Dương đã tạo được một cánh đồng mục vụ rất thịnh vượng. Cách riêng, giáo sĩ người Pháp Alexandre de Rhodes, nhờ vào sự liên kết thân hữu với các vua chúa và các nhà thông thái, thu phục được nhiều nhà trí thức Công Giáo, thế lực và giàu sang, đã thâu lượm được nhiều kết quả tốt đẹp. Trong số những người đã trở lại đạo, ngài chọn những thầy giảng (thày dạy giáo lý) và sau này những linh mục. Sự việc đó cắt nghĩa tại sao, chỉ có vài trăm ngàn tín đồ Công Giáo, với sự nâng đỡ của nhiều linh mục bản xứ đã đứng vững, mặc cho những đợt bách hại dồn dập đổ xuống trên Giáo Hội Việt Nam non trẻ.
Một năm trước khi ”Tông đồ xứ Annam” tạ thế, biệt danh đặt cho cha Alexandre de Rhodes năm 1659, thì cựu kinh sĩ thành Tours là Francois Pallu được bổ nhiệm làm Ðại diện Tông tòa miền Bắc (Bắc kỳ, địa phận đàng ngoài). Nhờ cha Alexandre de Rhodes mà sự nghiệp truyền giáo đã đến với cha Pallu. Khi cha Alexandre de Rhodes vận động tại Roma với mục đích đề cử nhiều giám mục cho xứ Ðông Dương, ngài nhận được giấy ủy nhiệm của Thánh Bộ Truyền Giáo để tuyển lựa những linh mục có khả năng hầu gởi qua các xứ Ðông Phương với tư cách Ðại Diện Tông Tòa. Vì muốn tránh tất cả các tị hiềm đối với các dòng tu, Thánh Bộ Truyền Giáo muốn lựa chọn các Ðại Diện Tông Tòa trong hàng ngũ hàng giáo sĩ triều. Sự may mắn đã đến với Alexandre de Rhodes ngay tại xứ sở ngài. Những mẫu chuyện của ngài thuở trước về sự truyền giáo ở Ðông Dương đã thức tỉnh sự phấn khởi truyền giáo rất lớn lao. Một số đông linh mục đã theo học tại trường Charles de Condren tin là đã nghe tiếng gọi của Thiên Chúa qua những lời cha cầu xin. Trong số các linh mục đó, cha Alexandre đã chọn cha Pallu một lượt với một cha khác (Lambert de la Motte). Hai cha đã được phong chức giám mục tại thành Rouen. Nhiệm vụ chính của hai vị giám mục, như thánh bộ đã quyết định là đào tạo hàng giáo sĩ địa phương. Ðức giám mục Pallu chỉ lên đường sang Viễn Ðông sau khi đã thành lập tại Paris một chủng viện để đào tạo những huấn luyện viên cho các ứng viên bản xứ vào chức linh mục, đó là chủng viện lo việc trở lại của dân ngoại ở ngoại quốc được gọi là chủng viện Hội Thừa Sai Truyền Giáo ở nước ngoài và được vua nước Pháp chính thức công nhận. Nhiệm vụ chính của Hội Thừa Sai Paris không phải là rao giảng Ðức Tin, nhưng là thiết lập ngay một hàng giáo phẩm bản xứ. Hội thừa sai tiên khởi này không muốn là một dòng tu mà chỉ là một hiệp hội các linh mục triều chuyên lo hoạt động truyền giáo. Ngày ra đời của Hội là ngày đáng ghi nhớ trong niên giám truyền giáo và được coi như biến cố quan phòng. Bởi vì tiếp đó, công việc truyền giáo biểu dương một sức mạnh tuyệt vời. Theo nhận định của Pastor, chủng viện các xứ truyền giáo đã cung ứng cho Công Giáo Pháp nguồn nhân sự dồi dào có khả năng tạo nên ưu thế trong sứ vụ truyền giáo cho dân ngoại hiện nay.
VIII. TRANH LUẬN VỀ NGHI LỄ.
Việc bổ nhiệm các Ðại Diện Tông Tòa vẫn tiếp tục, bất chấp những yêu sách của Bồ Ðào Nha. Thế là chấm dứt độc quyền của Dòng Tên, ngay cả trong những quốc gia cho tới nay không có những tu hội khác. Trong những vùng, như ở Trung Hoa, mà các cha dòng Phanxicô và Ðaminh đã khởi sự hoạt động, những chỉ trích về những phương pháp truyền giáo của các cha Dòng Tên, trước kia ít công hiệu, nay gay gắt thêm. Vì những Ðại Diện Tông Tòa và những thừa sai không thuộc Dòng Tên đã mau mắn mở một mặt trận chung chống đối chủ quyền Bồ Ðào Nha. Chỉ dưới khía cạnh đó mới có thể hiểu được cái cảnh huống lâm ly sẽ xẩy ra vào cuối thế kỷ XVII mà người ta đồng thuận gọi là ”cuộc tranh luận về nghi lễ”. Nói đúng ra, danh xưng thường dùng cho cuộc tranh luận chỉ xoay quanh một phần các vấn đề. Không phải chỉ có những nghi lễ Trung Hoa, chỉ có phần tương tự kinh thần tụng, cũng không chỉ có sự thờ Khổng Tử và Tổ Tiên. Ðúng hơn, ở Trung Hoa và Ấn Ðộ, đó là thuộc nguyên tắc thích nghi, khởi sự bằng những vấn đề hình thức bên ngoài như cách ăn mặc của các vị thừa sai giống như các quan tại triều đình và lối sống, cách giảng dạy, tuân giữ những luật Giáo Hội ngày Chúa nhật và giữ luật ăn chay, bỏ bớt nhiều lễ nghi trong nghi thức Rửa Tội, bỏ nghi thức xức dầu thánh cho đàn bà, dùng tên các vị thần Trung Hoa ”Trời” và “Ðấng tối cao” cũng có nghĩa là hoàng đế. Sự thích nghi với những tập quán quốc gia cũng nằm trong những nguyên tắc chính yếu cho sự tuyên xưng Ðức Tin Công Giáo. Có nhiều khó khăn nội bộ về thể thức sống của Giáo Hội, từ cộng đoàn sơ khai Kitô Do Thái cho tới đế quốc Công Giáo La Ðức xuyên qua thế giới cổ Hy Lạp và ngoại đạo. Trong đà tiến đó, thánh Phaolô và thánh Gregoire cả là những người đi tiền hô, có những cái nhìn rộng lớn và một tự do nội tại bao la. Ở thế kỷ XVI và XVII, các cha Dòng Tên hẳn là hiện thân của quan niệm cấp tiến đó theo đúng nghĩa của nó. Có thể là các cha Dòng Tên đã bắt đầu nghĩ đến cách hợp lý sự thích nghi như một phương tiện thực tiễn để thực hiện và phát triển truyền giáo. Cho dầu các ngài không đến nổi phải đào sâu tận cùng nền tảng thần học theo đó mỗi văn minh đều là sự tạo dựng của Thiên Chúa, và gói ghém một vài giá trị nội tại, thì thần học của các cha Dòng Tên đã chiếm một chỗ rất lớn trong sự cộng tác của nhân loại với Thiên Chúa, thần học của các ngài nằm trong kế hoạch đó. Thêm vào đó, còn có sự xác tín là Giáo Hội bắt đầu một cuộc khởi hành mới mẻ và vinh thắng khả dĩ tiếp thu vào lòng Giáo Hội những tài năng của các quốc gia mới, những nền văn minh mới, để rồi ”thanh tẩy”, nghĩa là Kitô hóa họ và biến đổi họ. Quả thật, những xác tín như vậy, không được bày tỏ cách trung thực bằng những cách nói như vậy, nhưng trong tiềm thức đã có nhiều ảnh hưởng sâu đậm trên những quyết định.
Thường những chiến sĩ tiên phong của sự thích nghi tỷ như một Ricci (5), đôi khi đã đi quá xa cho tới ranh giới của những nhượng bộ tín lý. Phương pháp của cha Dòng Tên này đã gây những chống đối đầu tiên ngay trong nội bộ của Dòng. Khi nghiên cứu tỉ mỉ triết học Trung Hoa, người ta tưởng nhận ra là nơi triết lý đó không có sự khác biệt thiết yếu giữa tinh thần và vật chất, như tên của các vị thần Trung Hoa phát biểu một cái gì vật chất vì thế hoàn toàn không phù hợp với Thiên Chúa của đạo Công Giáo. Vì thế năm 1629 giám tỉnh hội thừa sai Dòng Tên bên Trung Hoa đã cấm dùng những tên các vị thần Trung Hoa, nhưng đầu năm sau, bề trên Tổng quyền Dòng Tên đã bãi bỏ lệnh cấm đó và từ nay toàn Dòng Tên chấp nhận nguyên tắc thích nghi.
Những khi các thừa sai dòng khất sĩ người Tây Ban Nha đến Trung Hoa, họ có thái độ rõ rệt không công nhận Khổng Giáo, tay cầm Thánh Giá, rao giảng một cách bộc trực về sự trở lại đạo. Cách giảng đạo như vậy đã không mang lại thành công, mà còn gây nên những bắt bớ, trục xuất, và làm cho các tân tòng rất hoang mang.
Không đi đến một cuộc đối thoại nào, không có một thỏa thuận nào giữa những phương pháp truyền giáo khác biệt. Hơn nữa, kể từ khi Bồ Ðào Nha chiếm lại được độc lập đối với Tây Ban Nha (1640) những mối kình địch quốc gia gây thêm căng thẳng và trầm trọng. Các cha dòng Daminh lúc bấy giờ thảo một giác thơ ngoại giao gởi cho Tòa Thánh, trình bày 17 điểm hoài nghi về sự hợp pháp của phương pháp Dòng Tên. Năm 1645, sau những cuộc thảo luận lâu dài, Thánh Bộ Truyền Giáo và Thánh Bộ Ðức Tin tuyên bố lên án những tập quán Trung Hoa là vô thần và cấm các cha Dòng Tên không được dễ dãi trong vấn đề đó. Các thừa sai Dòng Tên cho bản án đó đã căn cứ trên những tin tức sai lầm, liền làm một tường trình rõ ràng cho vấn đề đó. Liền đó, một sắc luật mới được ban hành năm 1656 phân biệt giữa tập quán tôn giáo và tập quán xã hội và cho phép áp dụng những tập quán xã hội kể cả sự sùng kính Khổng Tử và thờ kính Tổ Tiên với điều kiện là tránh mọi mê tín (6). Tuy vậy, khi được hỏi về sắc luật năm 1645 có được hủy bỏ hay không, đức giáo hoàng Clément IX đã trả lời năm 1669 là không hủy bỏ. Phải cứu xét trong mỗi trường hợp đặc biệt, coi những điều kiện cần thiết có được hội đủ hay không để hoặc cấm đoán hoặc cho phép. Sau cùng đi đến những cuộc bút chiến rất dữ dội với sự can thiệp của phái Jansenites Pháp. Phái này coi đó như một lối đả kích các cha Dòng Tên và thần học luân lý của họ. Một vụ việc tương tự cũng đã xẩy ra ở Ấn Ðộ, ở đó các cha thừa sai dòng Capucin tiếp tay với các cha dòng Phanxicô để đả phá những tập quán malaba.
Kế đó, năm 1690 các Ðại Diện Tông Tòa đến Trung Quốc. Cũng năm đó đức Alexandre VIII thiết lập tại đây hai giáo khu cố chủ khác là giáo khu Bắc kinh và giáo khu Nam kinh hai giáo khu này tùy thuộc giáo khu Goa. Vị Ðại Diện Tông Tòa Phúc Kiến, trước kia là nhân viên chủng viện thừa sai Paris, năm 1693 ngăn cấm các thừa sai thuộc quyền ngài dùng tên những thần Trung Hoa cũng như tham gia, dầu với tư cách thường dân, những lễ nghi thờ kính Khổng Tử và các Tổ Tiên. Quyết nghị năm 1656 theo ngài đã căn cứ theo những tin tức sai lầm vì vậy được coi như vô hiệu. Ngài không được sự tùng phục của tất cả thừa sai. Ðại diện Tông tòa gửi quyết định sang Roma với mục đích xin cứu xét. Ðức giáo hoàng Innocent XII cho điều tra cách sâu rộng quyết định. Cuộc điều tra cho thấy có nhiều hy vọng kết thúc tốt đẹp bằng quyết định cho phép xử dụng phương pháp, nếu như đức Innocent XII còn sống lâu hơn. Ðức giáo hoàng kế tiếp là Clément XI rất quan tâm đến vấn đề đó. Nhưng cả hai phe hiện diện, phe nào cũng muốn vận động để quyết định Roma nghiên về phía mình. Một cộng sự viên của Ðại Diện Tông Tòa Phúc Kiến khẩn khoản xin Tổng giám mục Paris là Louis Antoine de Noailles can thiệp. Ðức tổng giám mục Paris không có nhiều thiện cảm với các thừa sai Dòng Tên, ngài can thiệp để Sorbonne lên án nhiều luận thuyết về cách thức hành truyền giáo của các cha Dòng Tên, vì người ta cho rằng ở Pháp điều đó rất nguy hiểm cho sự trở lại của các tín đồ Calvin. Về phần các cha Dòng Tên, các cha đã gửi qua Roma bản tuyên ngôn của hoàng đế Trung Hoa theo đó những nghi lễ để kính Khổng Tử và Tổ Tiên chỉ là một lối phát biểu lòng hiếu thảo dân tộc. Ðang lúc ấy, đức giáo hoàng phái sang Ðông Phương Charles Maillard de Tournon, với tư cách Ðại Diện Tông Tòa và Ðặc Sứ Tòa Thánh, để mở những liên lạc thân hữu giữa Roma và triều đình Bắc Kinh. Việc chọn lựa Thượng Phụ hiệu tòa Antioche bị coi như một sự lầm lẫn, bởi lẽ, tuy là một nhân vật đầy nhiệt huyết nhưng ngài không am tường tình thế và không thông thạo ngôn ngữ Ấn Ðộ và Trung Hoa. Với quyền cứu xét và giải quyết vấn đề tại chỗ, ngài đã lên án 16 tập quán Malaba ở Ấn Ðộ theo quyết định của Roma.
Quyết định này cương quyết bảo toàn đạo Công Giáo ở Trung Hoa khỏi mọi nghi ngờ về mê tín và tà giáo. Quyết định cấm vĩnh viễn việc dùng tên các vị thần, việc tôn kính Khổng Tử và Tổ Tiên. Những phân biệt giữa nghĩa dân sự và nghĩa tôn giáo của những nghi lễ là những phân biệt của những người thông thái, còn đối với đại chúng, tất cả là nghi lễ tôn giáo. Vì những nghi thức tương quan với những quan niệm không đúng (như sự hiện diện của các vong hồn trong những bài vị Khổng Tử và các Tổ Tiên), nên phải dứt bỏ những quan niệm đó; còn về tên các vị thần, nó biểu thị mối nguy hiểm của một quan niệm sai lầm về thần thánh. Tournon phải thông báo sắc luật cho các thừa sai bên Trung Hoa. Khi ngài đến Bắc Kinh, một sắc chỉ nhà vua được công bố buộc các hoạt động truyền giáo phải có giấy phép, giấy phép này chỉ được cấp với điều kiện là hứa không đả kích những tập quán Trung Hoa. Trong khi Tournon, qua một thơ khuyến cáo gửi cho các thừa sai, ám chỉ cấm các thừa sai nhận giấy phép như vậy, lập tức tranh chấp bùng nổ. Kể từ đấy, hoàng đế Trung Hoa không còn thiện cảm đối với đạo Công Giáo như trước nữa. Sau cùng, khi đã công khai công bố quyết nghị Roma, vì đặc sứ của Tòa Thánh bị người Trung Hoa đuổi về Macao. Tại đây, vua Bồ Ðào Nha ra lệnh quản thúc ngài, nhưng đức giáo hoàng phong ngài lên chức hồng y. Ðến năm 1710, vì kiệt sức, mệt mỏi, suy yếu và thiếu thốn, ngài tạ thế tại Macao. Tiếp theo những phản đối gửi đến Roma, đức Clement XI tái khẳng định sắc luật năm 1704 và yêu cầu các Ðại Diện Tông Tòa phải công bố. Những nhân vật ôn hòa như giám mục dòng Phanxicô ở Bắc Kinh là Bernardino della Chiesa và những vị khác cho tới nay không chịu công bố án lệnh của Tournon vì cho là không đúng lúc. Khi nhận được lệnh trực tiếp, Della Chiesa bắt buộc phải công bố năm 1714 quyết định Roma mà đức giáo hoàng còn nhắc lại một lần nữa năm 1715. Ðồng thời, hoàng đế Trung Hoa cấm không được công bố Tông hiến và còn phê chuẩn một nghị định của tòa án ra lệnh cho các thừa sai truyền giáo phải rời Trung Hoa và cấm đạo Công Giáo tại Trung Hoa.
Hai bên vẫn tiếp tục tấn công lẫn nhau, chúng ta không cần trình bày ở đây. Trong những thập niên sau này, các đức giáo hoàng cố gắng làm cho những quyết định của Tòa Thánh được tôn trọng, còn các thừa sai Dòng Tên khôn khéo xoay trở để các nghi lễ khỏi bị ngăn cấm. Sự sáng suốt của các thừa sai Dòng Tên mà số mệnh tương lai của công việc truyền giáo đã minh xác, làm cho các vì hiểu rằng mọi tiến bộ trong sứ vụ đều hoàn toàn tùy thuộc lòng khoan dung của vua và sự tuân giữ những tập quán Trung Hoa. Sự sáng suốt đó biện minh cho sự bất phục tùng dứt khoát ý muốn của đức giáo hoàng, mặc dầu trái ngược với lời hứa đặc biệt là ”vâng lời của ngài”. Vì chưng các vị thừa sai đã va chạm với ý muốn của đức giáo hoàng qua các đại diện của Tòa Thánh là những người không thông thạo ngôn ngữ địa phương và có thể bị chỉ trích về cách các ngài đối xử cao cường và giải thích mơ hồ quyết định của Toà Thánh. Kết cục, Roma bắt buộc tất cả các thừa sai, trước khi lên đường sang Ðông phương phải tuyên hứa tôn trọng nghiêm chỉnh sắc luật của Tòa Thánh và yêu cầu Bề Trên Tổng quyền Dòng Tên tạm ngưng gửi các thừa sai sang Trung Hoa, cho tới khi có lệnh mới. Sau cùng đức giáo hoàng Benoit XIV, một nhà thông thạo giáo luật, năm 1742, đã ký Tông hiến ”Ex quo singulari” (Từ trường hợp đặc biệt), sau bài tường thuật chi tiết tất cả cuộc tranh luận, đã xác định lại quyết nghị của giáo hoàng Clément XI và đe dọa sẽ bị trưng phạt nặng nề theo luật Giáo Hội những ai vi phạm sắc luật. Hai năm sau, cũng dứt khoát lên án những tập quán Malaba, và tổng giám mục Goa đã bênh vực để chống lại những cấm chỉ của Tournon. Ðược phép có một thừa tác vụ riêng cho giai cấp cùng đinh tại Ấn Ðộ, nhưng không có Giáo Hội phân biệt các giai cấp. Sau cùng các thừa sai Dòng Tên cũng phải tuân lệnh.
Như vậy luật pháp được thỏa mãn và chân lý được bảo toàn. Có lẽ chưa đến lúc trình bày chân lý trong ngôn từ trí thức và theo những tập quán của nên văn minh ngoại quốc mà không gặp phương hại. Tiếp theo các bậc đại tiền hô, là dòng dõi hậu lai là những người rất ý thức và quan tâm nhưng đôi khi nhu nhược. Hoạt động truyền giáo ở Trung Hoa lâm vào tình trạng đình trệ, lại luôn bị bách hại và áp bức. Ðó chính là cái giá phải trả của những điều ngăn cấm. Những đứa con trung thành nhất của Giáo Hội ở miền Viễn Ðông cảm thấy thảm kịch đau thương vì những hẹp hòi nhân loại mà Giáo Hội Viễn Ðông không tránh khỏi được.
IX. NHỮNG CUỘC TRỞ LẠI Ở ÂU CHÂU.
Sau khi được đổi mới, Giáo Hội Công Giáo đã phát huy một sự thu hút mãnh liệt tại Âu Châu. Rất nhiều nhân vật đang giữ những vai trò quan trọng trong phạm vi văn hóa hay chính trị đã trở lại. Họ trở lại vì nhận thấy có sự hài hòa trong tín điều Công Giáo và sự hiệp nhất Giáo Hội hoàn vũ. Ðối với họ, việc trở lại còn làm tăng thêm sức sống khải hoàn của đạo Công Giáo thời Baroque. Thật vậy, nhiều động cơ khác nhau có thể có tác động trên sự trở lại. Ðôi khi vì hy vọng sẽ nhận được nhiều quyền lợi khi chính trị thắng thế hay vì hy vọng sẽ bảo trì ngôi báu. Tuy nhiên, không nên lẫn lộn việc trở lại như trên với sự hoán cải của một người sau nhiều tranh đấu nội tâm mới đạt được sự xác thực Ðức Tin Công Giáo; lúc đó họ không ngần ngại hy sinh vì Ðức Tin những tương quan nhân loại, kể cả những thành công và sự nghiệp. Rất nhiều người trở lại trong thế kỷ XVII đã làm nổi bật hình ảnh này, họ không ôm ấp một hy vọng nào về những lợi ích bên ngoài, trái lại, họ đã gánh chịu nhiều hy sinh to tát. Dĩ nhiên, chúng ta không thể phủ nhận rằng: uy tín, ảnh hưởng và quyền lực là những yếu tố được quan tâm nhiều trong đạo Công Giáo thời Baroque. Phẩm cách đế vương được coi như phản ảnh vẻ uy nghi của Thiên Chúa và những bổng lộc của Giáo Hội cấp cho các hoàng thân là việc rất thông thường. Những lợi tức của kinh sĩ đoàn và của các giáo phận là những đặc ân của giai cấp quý tộc: các Sứ Thần Tòa Thánh cho là hoàn toàn thông thường khi dành những đặc ân ấy cho những người trở lại. Chính Giáo Hội cũng quan niệm rằng: nhờ các hoàng thân đang cầm quyền trở lại, Giáo Hội có hy vọng lấy lại những lãnh thổ trước đây đã bị mất. Và trong chiều hướng đó, Giáo Hội đã khuyến dụ rất nhiều người trở lại. Nhưng trong mọi trường hợp, Giáo Hội luôn coi sự chấp nhận Ðức Tin nơi tâm hồn là điều kiện tiên quyết để hưởng các đặc ân. Dĩ nhiên, không thể phán đoán và đánh giá sự trở lại của một đại tướng trong quân đội hoàng thân Eugène de Savoie theo cùng một tiêu chuẩn với sự trở lại của Newman (hồng y).
Những khởi điểm thiêng liêng trên con đường dẫn đến Giáo Hội Công Giáo rất đa diện. Chủ trương tinh thần khoan dung và đại kết, vì chán ghét những bó buộc quá gắt gao trong Giáo Hội Cải cách Hòa Lan, Joost ven den Vondel (1587-1679) trở lại năm 1641. Sau công đồng giám mục ở Dordrecht, tín đồ giáo phái Cải cách Menno đã phải tham dự vụ hành hình Oldeubarnevelt, một chánh khách quốc gia lỗi lạc, vì ông này không muốn tuân theo những yêu sách của tín đồ giáo phái Calvin cực đoan, còn người bào chữa cho ông là Grotius thì bị kết án tù chung thân. Vondel một thi sĩ Hòa Lan nổi tiếng, cũng là nhà buôn bán mũ và nón, đã bị khánh tận tài sản. Trong những vở kịch của ông, từ vở đầu tay ”Sự vô tội bị bách hại” (đề tặng Oldeubarnevelt) cho đến vở kịch tuyệt tác”Quỉ vương Lucifer”, ông đã bày tỏ những tình cảm tôn giáo với lối văn rất cảm động. Có thể ông đã học giáo lý với các thừa sai Dòng Tên lén lút đến từ Bỉ. Sau khi trở lại, ông muốn làm chứng cho học thuyết của Giáo Hội bằng những bài thơ giảng huấn, chứa đựng niềm tin sâu xa và có một thể thơ độc đáo.
Năm 1653 Johannes Scheffler 29 tuổi (Angelus Silesius 1624-1677), bác sĩ thường của một công tước miền Silesic đã theo đạo Công Giáo. Lý do đem ông đến với Ðức Tin Công Giáo là do một dịp trao đổi những cảm nghĩ với các bạn của nhà thông thần học Jakob Bohme, đã bỏ giáo phái Luther, và do sự tìm hiểu, nghiên cứu các giáo phụ và thần bí học thời Trung Cổ. Tám năm sau, ông được thụ phong linh mục. Thi hào thiên tài cách ngôn đó với tác phẩm ”Cherubinischer Wandersmann” (Khách hành hương trẻ đẹp) rất nổi tiếng, nhưng ngay lúc ấy, vì những tấn công của các nhà thần học phái Luther, bắt buộc ông phải chứng minh sự lựa chọn của ông với những luận chứng vững chắc. Ðối với ông đó là bắt đầu một sự nghiệp hết sức phong phú trong văn chương tranh luận thần học.
Trong số các văn sĩ và nhà thông thái trở lại vào thời đó, có Kaspar Schoppe vốn được coi là địch thủ của các cha Dòng Tên và người biện hộ cho Machievel, đã trở lại nhờ việc đọc cuốn ”Niên Giám” của Baronius. Nhà ngôn ngữ học thành Hambourg, là Lukas Holste (Holstenius 1596-1661) trở lại Công Giáo tại Paris năm 1625. Khi trách nhiệm về thư viện Vatican, ông khám phá ra bản mẫu khác về Giáo Hội Trung Cổ Roma, cuốn ”Liber diurnus” đồng thời ông biên soạn quyển ”Codex regularum”, còn rất giá trị cho tới ngày nay, nói về các dòng tu nam nữ. Mười hai năm sau khi trở lại, ông đã khuyến dụ được người chắt của lãnh chúa Philippe de Hesse là lãnh chúa Fréderic de Hesse Darmstadt sau này trở thành hồng y bảo trợ nước Ðức và tạ thế lúc là giáo chủ hồng y thành Breslau. Nhờ ảnh hưởng của các cha Dòng Tên ở Roma, ông Niels Stensten, người Ðan Mạch (Stenon 1638-1687) trở lại đạo (1667) đang lúc nổi danh về khoa giải phẫu và địa chất học. Tám năm sau ông được thụ phong linh mục và từ đó, ông hoàn toàn dấn thân cho hoạt động tông đồ trong chức vụ đại diện các xứ truyền giáo miền Bắc, tại Schwerin.
Không gia đình quý tộc nào mà không có một hay nhiều thân nhân trở lại đạo. Vì vậy một người chắt khác của lãnh chúa Philippe, là lãnh chúa Ernest de Hesse Rhemfels đã trở lại. Ông này đã xao xuyến vì những lời dí dỏm chua cay của viên đại tướng Thụy Ðiển Konisgmarck trong cuốn ”La confusion d'Ausbourd” (Sự lầm lẫn của Augsbourd), và đã quyết định trở lại đạo lúc ông lưu trú ở Vienne. Vì trước đây đã chịu ảnh hưởng của Georg Calixt và Ernest, nên ngay sau khi trở lại (1652), ông vận động không mỏi mệt cho sự hiệp nhất Kitô giáo. Vì lý do đó, ông đã triệu tập một cuộc hội thảo tôn giáo trong lâu đài của ông tại Rheinfels với sự tham gia của các nhà thần học miền Hesse Darmstadt và các người công giáo do tu sĩ dòng Capucin là Valeriano Magni hướng dẫn. Tác phẩm trình bày những lý do trở lại đạo ”Conversionis Motiva” do hai người trở lại đạo thành Rotterdam, là hai anh em Walenburch soạn, cũng vì mục đích đó. Ernest cũng có soạn cuốn ”Der discrete Catholischer” (Người công giáo kín đáo), trong đó ông khuyên tất cả những ai có thật lòng ưu tư về sự chia rẽ đau thương của Kitô giáo, nên khôn ngoan và vì tình yêu Kitô giáo, tìm ra những biện pháp hiệp nhất. Sự trao đổi thơ từ rất nhiều giữa ông với các ông Calixt, Antoine Arnauld và Leibniz xoay xung quanh cùng vấn đề. Lại nữa vua xứ của Leibniz là quận công Jean Frédéric de Hanovre cũng trở lại đạo. Chúng ta đã gặp ông trong những cuộc thương nghị do Spinola hướng dẫn với mục đích cổ động sự hiệp nhất. Vì ngài chết không có con, nên người em của ngài theo giáo phái Luther lên ngôi nối nghiệp ngài. Ở các xứ Bade, Brandebourg, Mecklembourg và ở Saxe các hoàng thân phục vụ trong quân đội hoàng gia đều theo đạo Công Giáo. Ðó là chưa đến một số đông gia đình quý tộc ở Bohême và ở Áo. Ðến phiên công tước Antoine Ulrich xứ Brunswick-Wolfenbuttel vốn quen thân với Leibniz trở lại đạo Công Giáo năm 1709. Vài người trong số những người trở lại đã chọn thiên chức linh mục và được những địa vị cao trong Giáo Hội. Như Bernard Gustave xứ Bade vá Christian-Auguste xứ Saxe-Zeitz đã nhận mũ hồng y. Về sau, ông có ảnh hưởng rất lớn trên người bà con là Auguste le Fort tuyển vương xứ Saxe. Mặc dầu bởi nhiều lý do chính trị, nhưng cũng có thể nói, nhờ sự trở lại đạo mà năm 1697 tuyển hầu Saxe đã được chọn làm vua Balan. Noi gương cha, năm 1712, hoàng thái tử thiết lập một triều đại Công Giáo mới ở Saxe, và đã cung cấp cho Giáo Hội nhiều nhân tài. Tuy vậy sự trở lại này không tương hợp với chức chủ tịch của ”Corpus Evangelicorum”. Vì thế từ nay vai trò uy quyền hướng dẫn và bảo vệ của giáo phái Tin Lành Ðức được chuyển giao cho Brandebourg-Prusse. Năm 1712 hoàng tử Charles Alexandre xứ Wuztemberg trở lại đạo tại Vienne được coi như người kế vị trên lãnh thổ của công tước mà ông sẽ trị vì kể từ năm 1733. Trái lại trong các xứ như Hanovre, Brunswick, Saxe hay Wurtemberg, sự trở lại của vua không thay đổi màu sắc tôn giáo trong dân chúng. Trên thực tế, do hiệp ước Wesphalie, quyền Cải cách của các hoàng tử không được áp dụng nữa. Ðể hủy bỏ quyền đó, tổ chức chánh quyền cao cấp ở Saxe và ở Wurtemberg yêu cầu cấp những tờ ”bảo đảm tôn giáo” hay ”thơ nhân nhượng” để duy trì nguyên vẹn bản ”La Confession d'Augsbourg” (tuyên xưng đức tin của phái Luther), tài sản thuộc về giáo đường, trường học và đại học, đặc biệt là những quy chế pháp lý ưu đãi, và chỉ cho phép vua đem phụng vụ Công Giáo vào đời sống tư mà thôi. Việc đó không ngăn cản được tuyển hầu chuyên chế Saxe biến đổi kịch trường cũ, tọa lạc bên cạnh lâu đài Dresde, thành ngôi thánh đường đầu tiên cho người công giáo, mặc dầu họ chỉ là một cộng đoàn nhỏ bé.
Việc trở lại đạo của hoàng hậu Christine nước Thụy Ðiển (1626-1689) con gái của Gustave-Adolphe đã làm chấn động khắp Âu Châu. Hoàng hậu trẻ tuổi đã lớn lên trong cô lập và từ nhỏ đã chán ghét cực độ phái Tin Lành Luther nghiêm khắc và thệ phản của xứ bà. Bà cho mời tới Stockholm những người có tinh thần phóng khoáng như quản thủ thư viện pháp Naudé và những triết gia cận đại như Descartes để đàm đạo với họ. Qua trung gian của Descartes và các cha Dòng Tên phụ trách các nhà nguyện ở các tòa đại sứ, hoàng hậu tìm hiểu sâu xa đạo Công Giáo. Tôn giáo này được trình bày như một hình thức văn hóa đầy khoan dung và có thể giúp bà sống một cuộc sống không bị câu thúc bởi những lề luật quá khắt khe của xứ bà. Theo tiểu sử mới nhất thì bà có bản tính hay áy náy lo sợ, coi mình là trung tâm vũ trụ. Quyết định trở lại đạo, bà thoái vị vào hè năm 1654, vì theo hiến pháp, một người công giáo không được làm hoàng hậu Thụy Ðiển. Ngày áp lễ Giáng Sinh cùng năm, bà tuyên xưng Ðức Tin Công Giáo cách lén lút tại Bruxelles và bà công khai tuyên xưng lại vào tháng 11 năm 1665 ở nhà thờ của triều đình Innsbruck. Sau đó bà sang Roma và được đức giáo hoàng Alexandre VII tiếp đón cách trọng thể. Chính đức giáo hoàng thuở xưa vào năm 1648, với tư cách sứ thần tòa thánh Munster đã phản đối những điều khoản hòa bình rất bất lợi cho Giáo Hội Công Giáo, những điều khoản đó do chính Thụy Ðiển đưa ra. Bây giờ, với sự trở lại đạo của hoàng hậu Christine hy vọng tình hình Thụy Ðiển có phần khả quan hơn. Tiếc là đã không khả quan hơn mà còn trầm trọng thêm: Charles X, Tân Vương Thụy Ðiển sợ ngai vàng của mình bị lung lay vì hoàng hậu Christine có thể trở về nước, nên từ nay chấm dứt vĩnh viễn mọi đối thoại với Giáo Hội Công Giáo. Còn về hoàng hậu Christine từ năm 1668, bà định cư luôn tại Roma, quy tụ nhiều nhà thông thái và nghệ sĩ nhờ được Tòa Thánh đài thọ mọi phí tổn. Thái độ tâm linh của thiếu phụ lạ lùng đó được diễn tả trong những câu châm ngôn của bà. Bà chịu ảnh hưởng mạnh mẽ thuyết vô vi của Molinos và của phái khắc kỷ cổ truyền, đầy lòng luyến ái với Thiên Chúa nhưng tự thân ít gắn bó với Ðức Kitô.
X. CÁCH MẠNG ANH NĂM 1688.
Ðây là cuộc cách mạng đã làm cho nhà vua trở lại đạo. Bên Anh Quốc, sự khôi phục triều đại Stuarts (năm 1660) lúc đầu không đem lại một sự thay đổi nào trong quy chế pháp lý của người công giáo. Có thể là vua Charles II đã kết hôn với một công chúa Bồ Ðào Nha và từ khi sống lưu vong dưới thời Cromwell, ngài trao đổi những giao tiếp tốt đẹp với vua Louis XIV và như vậy lệ thuộc nhà vua về tài chánh. Sự chuyên chế của vua nước Pháp rất phù hợp với lý tưởng cai trị của cá nhân ông. Charles II đã phải trì hoãn việc trở lại của ngài cho tới lúc chết ngõ hầu tránh mọi chống đối của giáo phái Tin Lành. Vua chết không có con nối nghiệp nên người em là Jacques thừa kế ngôi báu, vua này cũng không hơn gì vua anh về đời sống tôn giáo, ngài trở lại đạo Công Giáo năm 1672. Quốc hội lúc đó đã chấp thuận luật Bill du Test, theo đó tất cả những công chức và sĩ quan cao cấp phải trình chứng thơ là họ đã rước lễ dưới hai hình thức, tuyên thệ nhận ưu quyền của nhà vua và không chấp nhận quyền tối thượng của giáo hoàng. Jacques từ chối tuyên thệ, nên ông phải từ chức đề đốc hải quân. Vì Titus Oates phao tin có cuộc âm mưu mà người Anh gọi là ”âm mưu của giáo hoàng” nên dư luận chống giáo hoàng lên đến mức độ cuồng loạn tại Anh Quốc. Nhận được lệnh của Giáo Hội Anh, Oates trở thành tín đồ Công Giáo cho chiếu lệ và gia nhập tập đoàn Dòng Tên tại Tây Ban Nha và tại Flandres. Bị thải hồi, ông liền bịa đặt một câu chuyện tiểu thuyết: Ðức giáo hoàng và bề trên tổng quyền Dòng Tên đã xúi dục một âm mưu để ám sát vua Anh và tái lập bằng võ lực đạo Công Giáo trên đất Anh (năm 1678)
Nếu vua Charles II không tin vào những điều quả quyết của tên bịp bợm, thì trái lại, quốc hội và dư luận quần chúng rất chú ý đến những điều vu khống đó. Trong hoàn cảnh sôi động, một số rất ít thượng nghị sĩ Công Giáo còn lại phải từ chức thượng viện. Các trại giam đầy những người công giáo. Vào khoảng 30 người vô tội, trong đó có 11 cha Dòng Tên, bị hành hình rất ác độc (7). Nhiều giáo dân khác bị lưu đầy, như cha linh hướng của bà công tước York là cha Dòng Tên Claude de la Colombière, trước kia là linh hướng của nữ tu Marguerite-Marie Alacoque. Vua không dám chống lại những cuộc bách hại, thẩm chí cả khi giáo chủ xứ Ái Nhĩ Lan là Oliver Plunket, tổng giám mục thành Armagh bị bắt bất hợp pháp, bị điệu về Luân Ðôn, bị vu cáo có ý âm mưu và thông đồng với nước Pháp, và do đó bị kết án tử hình treo cổ (1681) vua cũng không dám lên tiếng.
Trong một bầu không khí xao động như vậy, năm 1685 một biến cố lại bùng nổ trên ngôi vua Jacques II: vua tuyên bố công khai mình là tín đồ Công Giáo. Cùng năm đó người ta hủy bỏ chỉ dụ Nantes. Sự hủy bỏ này đã gây lo sợ cho tín đồ Tin Lành Anh. Nhưng thực tế vua đã sống trong ảo tưởng, khi vua nghĩ rằng mình là Vua mặt trời, là vua gương mẫu, mình có quyền xử dụng uy quyền ngay trong lãnh vực tôn giáo. Bấy giờ bên Anh, số tín đồ Công Giáo sa sút rất mau chóng. Số tín đồ Công Giáo dưới triều vua Jacques II chỉ còn khoảng 30.000 người. Với số giáo dân còn lại đó, vua cố tổ chức việc quản lý giáo phẩm. Dưới triều đại này Roma đã bổ nhiệm Ðại Diện Tông Tòa đầu tiên cho toàn Anh Quốc và năm 1688 thêm 3 vị khác được phong chức cách trọng thể tại Luân Ðôn. Vua cũng đình hủy bỏ những khoản luật đặc biệt, miễn tuyên hứa về quyền ưu đẳng và đình lại những vụ án chống người bất tuân. Hơn thế, vua muốn cho tuyên bố những biện pháp đó trên các tòa giảng Anh Giáo. Làm như vậy là vua thiếu chính trị. Chống đối lan tràn và càng ngày càng trầm trọng hơn. Về việc nối nghiệp triều vua, người công giáo xem ra như được bảo đảm khi hoàng thái tử chào đời. Nhưng tín đồ giáo phái Giám Mục (Épiscopalien) và giáo phái Trưởng Lão (Presbytérien) hợp nhau lại để chống sự chuyên chế của vua, đòi cho quốc hội và tôn giáo được tự do, và mời con rể của vua là tổng chỉ huy quân lực xứ Hòa Lan Guillaume d'Orange trở về cứu nước. Ông này trở lại Luân Ðôn năm 1688. Với sự trợ lực của quân đội Ái Nhĩ Lan, vua Jacques II cố cứu vãn ngai vàng nhưng bị thua và phải lưu vong. Tại Pháp ngài gặp nơi Armand de Rancé, nhà Cải cách dòng Citeaux và nhà sáng lập dòng Trappe, một người bạn có nhiều ảnh hưởng trên đời sống đạo đức của ông. Triều đình lưu vong đã định cư tại Saint Germain.
Sau khi vua Jacques II băng hà, biệt thự Stuart ở Roma thành nơi cư ngụ sau cùng của triều đại vua.
Theo gương Hòa Lan, từ nay nước Anh được tự do tôn giáo, nhưng tín đồ Công Giáo không được hưởng quy chế này.
Ðể ngăn cản nhà Stuart trở về, vì nhiều linh mục công giáo vẫn còn trung thành với họ, một đạo luật được biểu quyết tuyên bố tất cả những người trong hoàng tộc theo đạo Công Giáo không đủ khả năng để làm vua. Cũng như ở Ái Nhĩ Lan, mặc dầu có những thỏa ước được vua Guillaume III ký kết năm 1691, người công giáo vẫn tiếp tục bị áp bức, và do những đạo luật hạn chế và cấm đoán, người công giáo trở thành giai cấp thấp hèn trong xã hội Anh Quốc.
XI. ROMA KIỂU BAROQUE VÀ NHỮNG NGHỆ SĨ.
Ðể chống đối những cố gắng làm giảm giá trị của công trình Canh tân, tỉnh tự sống động của đạo Công Giáo sau công đồng Trente, và việc chấp nhận trần thế này như tạo vật của Thiên Chúa, đã tìm thấy được một cách diễn tả trong nền văn hóa đặc thù, được coi như một thể hiện mới mẻ có mạch lạc của thế giới mang dấu ấn Ðức tin Công giáo. Roma kiểu baroque biểu lộ tinh thần mới mẻ trên các khối đá và các màu sắc. Chúng ta có thể theo dõi những biến dạng của tinh thần thời ấy, kể từ thời phục hưng cho đến tuyệt đỉnh kiểu baroque, tại vương cung thánh đường Thánh Phêrô được xây cất vào thời kỳ này.
Vào thời kỳ mà Thiên Chúa Giáo còn hiệp nhất, đức Jules II đã quyết định xây cất một vương cung thánh đường mới và ngài đã đặt viên đá đầu tiên vào năm 1506 để chào mừng Ðấng Toàn Năng trong một thời gian duy nhất, và để ”thay thế những kỷ niệm của một quá khứ đáng kính, tiêu biểu nét vĩ đại của hiện tại và của tương lai” (8). Kiến trúc sư của ngài là Bramante muốn nêu bật một trí thông minh mới của thời Phục hưng và thời Thượng cổ, bằng cách thực hiện một nghệ thuật vĩ đại hòa hợp với những khối kiến trúc rộng lớn. Ông soạn thảo những đồ án cho một lâu đài với kích thước kỳ lạ theo giống hình dạng thập tự Hy Lạp, được bổ túc với bốn tháp cạnh làm thành một hình vuông vĩ đại, trên là một tháp vòm bát úp theo kiểu điện Panthéon. Ông Bramante muốn sống lâu để trông thấy dựng lên cái tháp chuông vòm bát úp bên trên những vòm bán nguyệt ôm lấy mặt nền vuông như những vòng cung khải hoàn hướng thẳng về trời. Trên giường chết ông nhắn nhủ đức tân giáo hoàng Léon X nên mời Raphael d'Urbin đến để nối nghiệp ông. Ngài đã làm như lời trối, nhưng cái chết quá sớm của nghệ sĩ tài hoa đó (1520) đã cản trở ông thi hành kế hoạch mới mà ông vừa sáng nghĩ ra. Tiếp theo một thời kỳ đầy những trở ngại và những khó khăn vì tài chánh thiếu hụt dưới triều giáo hoàng Léon X, vì phong trào Cải cách ở Ðức (gây nên do việc ban ân xá để có tiền lo việc xây cất đền Thánh Phêrô) và sau hết, vì quân đánh giặc mướn Ðức cướp phá thành Roma năm 1527. Kết quả, công trường xây cất đền thờ Thánh Phêrô trở nên hoang vắng; Cỏ dại và bụi rậm xấm lấn hết những vòng cung mà Bramante đã hãnh diện hoạch định. Cho đến ngày đức giáo hoàng Phaolô III, ngoài việc xúc động một tinh thần mới để canh tân hồng y đoàn và triệu tập công đồng Trente, đã cho mời nhà họa sĩ kiêm điêu khắc gia Michel Ange, lúc đó đã cao niên, vào chức vụ kiến trúc sư trưởng cho vương cung thánh đường mới. Ông là người Florence, đang lúc còn phải chạm trổ bức tượng Pietà cho đền thờ thánh Phêrô cũ, trước đó 41 năm đã trốn khỏi Roma khi Bramante được bổ nhiệm. Việc ông từ chối mọi thù lao chứng tỏ tinh thần làm việc của người khổng lồ. Vì tình yêu Ðấng đã chịu đóng đinh trên thánh giá mà ông thường hát trong những bài của ông và để chào mừng thánh Phêrô, ông làm việc với một sự hăng say vô bờ bến ròng rã trong 17 năm còn lại của đời ông. Họa sĩ nhà nguyện Sixtine không ham muốn vẽ nữa và trong những năm dài đó, ông chỉ rời khỏi Roma một lần thôi để đi hành hương Lorette thể theo lời ông đã nguyện hứa. Ông không dám chắc là ông sẽ trông thấy hoàn thành tác phẩm của ông. Vì vậy ông đã làm việc với kiên trì để ít ra cũng xây được những nền móng cho ngôi thánh đường mới ngõ hầu toàn thể kế hoạch không bị chỉ trích. Công tác của ông tại thánh đường thánh Phêrô hầu như trùng hợp với những việc làm của công đồng. Ông khởi sự một năm sau khi công đồng khai mạc và hoàn thành công tác hai tháng sau ngày công đồng bế mạc. Ông tạ thế tháng hai năm 1564, hưởng thọ 89 tuổi. Sự trùng hợp đó là một biểu tượng. Ông thầy lỗi lạc vào bực nhất của thời phục hưng đã hiến mình trọn vẹn cho tinh thần đổi mới của Giáo Hội, cho việc canh tân và sự hứng khởi Ðức Tin. Lúc Michel Ange chết, ngăn đệm cửa và gian ngang hông đã hoàn thành. Ðồ án hai vòm bán cầu của tháp bát úp ở giữa, kỳ công tuyệt tác của nghệ sĩ, đã hoàn thành. Vòm bán cầu bên trong tiêu biểu sự bình tâm của thời phục hưng, như Bramante đã mong muốn cho dự án của ông, còn vòm bán nguyệt phía ngoài diễn tả niềm khát vọng vươn lên cao, biểu hiệu của Giáo Hội dưới trần gian. Nó vươn ra để chạm đến cõi khải hoàn ngoài tầm tay người hạ giới. Michel Anges đã sửa đổi đồ án của Bramante. Ông muốn chỉ nhìn một cái là có thể thấy bao quát hết ngôi thánh đường và khi thâu hẹp hai cánh gian hông lại, ông duy trì được những công trình nghệ thuật của Vatican khỏi bị đập phá. Cho đến năm 1590, viên đá sau cùng với bản khắc tên Sixte Quint mới được gắn vào nóc vòm. Phải đợi 36 năm sau mới xây cất lòng nhà thờ, cửa chính và mặt tiền do Maderno thực hiện. Nhưng mãi tới năm 1669, tân vương cung thánh đường Thánh Phêrô mới được làm phép khánh thành cách trọng thể, Bernin mới hoàn thành hàng cột nổi tiếng với hình vòng cánh tay tiếp đón vừa rộng rãi thênh thang vừa bám khít vào công trường đã có trước. Ðó là công trình được hoàn thành sau 163 năm kể từ ngày đặt viên đá đầu tiên. Ðó cũng là ngày kiến trúc baroque đi lần đến suy tàn, nhất là tại miền Nam Âu Châu.
Kiểm kê ở đây nguồn phong phú và đa diện của những sáng tạo kiểu baroque, là một chuyện không thể được. Bất kỳ ai sang Roma ngày nay, từ đồi Janicule nhìn xuống hay trước một nhà thờ lớn, hãy còn nhận thấy dấu tích quá đặc biệt của thành phố muôn thuở được nghệ thuật baroque trao tặng nhiều vòm bán nguyệt. Không một triều đại giáo hoàng nào trong thời đó mang những dấu ấn khải hoàn của Giáo Hội hơn triều đại của đức Sixte Quint, một nhà thống trị có bản lãnh, nhiệt tình, hoạt động và nhiều thiên tài. Nhưng người ta sẽ sai lầm nếu coi vòm đền Thánh Phêrô như một tác phẩm nghệ thuật siêu đẳng hiển nhiên của triều giáo hoàng Sixte Quint, hay nếu cho đó là bằng chứng duy nhất về tài tổ chức đặc biệt baroque của đức giáo hoàng, một giáo hoàng giầu nghị lực, không thể lay chuyển và giầu năng khiếu thông minh sắc bén hiếm có. Khi còn là hồng y, đức giáo hoàng Sixte Quint đã được sự hợp tác của kiến trúc sư trẻ tuổi Domenico Fontana, quê ở biển hồ Lugano, với tinh thần nghiêng về những vấn đề thực tiễn. Ngài khởi sự xây cất những thủy lộ lớn, với mục đích làm cho dân chúng có thể xây nhà và sinh sống trên những ngọn đồi Roma. Kể từ đó, nước từ Acqua Felice chảy vào hồ Quatre-Fontaines (hồ nước bốn vòi). Chưa hết, với nhiều kế hoạch táo bạo, ngài mở những đường phố để có thể nhìn thấy từ bảy thánh đường thượng phụ, cái nọ sang cái kia và làm sao để mỗi phố có những cửa ra, những giếng nước hay một lâu đài nào khác. Tất cả những cái đó không phải vì lý do say mê kiến trúc, nhưng cũng để dễ dàng tổ chức việc đi chặng đàng Thánh Giá và việc hành hương tới bảy vương cung thượng phụ. Ðức giáo hoàng muốn chứng tỏ sự toàn thắng trên nền ngoại giáo cũ còn nhó đầu đó đây trong thời Phục hưng, bằng cách giải tỏa, trùng tu, nhắc nhớ và đem những cột trụ khải hoàn cổ và những cột tháp cao để phụng sự Giáo Hội. Trên đỉnh cột trụ những bức tượng của các hoàng đế Trajan và Marc-Aurète được thay thế bằng những bức tượng các thánh Tông Ðồ. Còn khải hoàn nào to hơn, khi vào tháng năm năm 1586, nhờ sự hợp lực của 907 công nhân và 75 con ngựa kéo 40 cái pu-li-kép mà cột trụ Caligula đã có trên ngàn năm, nay được nhắc ra khỏi nền. Tháng chín năm sau, theo lệnh khẩn cấp của đức Giáo hoàng, cây tháp đó lại được dựng lên ngay chính giữa công trường Thánh Phêrô. Công việc dựng tháp được diễn ra đúng ngay lúc ông đại sứ Pháp tiến vào đền Thánh Phêrô cách trọng thể, khiến đại sứ phải xúc động trước uy quyền của giáo hoàng. Cây Thánh Giá được đặt thay thế mũi nhọn trên chóp tháp. Trên nền hình vuông được khắc những hàng chữ tuyên dương sự toàn thắng của Thiên Chúa Giáo, trên mặt phía Tây có bảng khắc nổi tiếng: Christus Vincit, Christus Régnat, Christus Imperat, Christus ab omni malo plebem suam defendat (Giêsu chiến thắng, Giêsu thống trị, Giêsu là Vua, Giêsu che chở dân ngài khỏi mọi sự dữ) (9)
Việc khẳng định những giá trị của thời thượng cổ đi đôi với niềm xác tín là Thiên Chúa Giáo có khả năng chuyển hóa, chuẩn nhận những phương pháp mà nhiều thập niên sau còn áp dụng, trước những di tích oai hùng của thời thượng cổ ngoại giáo. Dưới triều đại giáo hoàng Urbain VIII (1623-1644), Bernin đã sáng chế ra cái tán kỳ lạ trên hầm nguyệt đá Thánh Phêrô (mộ Thánh Phêrô), những đền đài thời thượng cổ còn sót lại biến thành những mỏ đá, người ta hồ hởi dùng những cột trụ bằng cẩm thạch và đá lót nền để xây cất nhà thờ. Sự việc này đã gây ra tiếng đồn khắp Roma với câu châm biếm chua chát: “Quod non fecerunt barbari fecerunt Barberini” (Cái mà quân mọi rợ không làm thì nhóm Barberini lại làm) (10).
Roma, dưới triều đức Sixte Quint trở thành thủ đô thế giới, thậm chí các hoàng thân Nhật Bản cũng đến yết kiến đức giáo hoàng, lúc đó Tòa Thánh tiếp nhận đền thờ Latran mới, thư viện Vatican mới, dinh thự giáo hoàng hướng về phía sân đền thánh Damase trong nội điện Vatican. Trong thời gian đó điện Quirinal được mở rộng ra, nhà nguyện Scala Santa được xây cất. Theo gương đức giáo hoàng trong việc kiến thiết các cơ sở lâu bền, các gia đình quý tộc cũng xây cất đền đài, các dòng tu, nhất là những dòng tu mới thành lập, cũng xây cất nhà thờ hay trung tâm huấn luyện đạo đức xã hội cho các tu sĩ của họ rải rác trên thế giới. Ðiển hình, ngay giữa trung tâm Roma, nhà thờ Giesù là thánh đường chính của Dòng Tên được xây cất với tất cả vẻ tráng lệ và nguy nga, do một người ái mộ Michel Ange và được chính đức Grégoire XIII đến khánh thành năm 1583. Bề trên tổng quyền dòng yêu cầu cất một ngôi thánh đường với một gian giữa duy nhất kèm thêm những nhà nguyện hai bên hông. Thật là tài tình, kiến trúc sư đã biết phối hợp lòng bàn thờ sâu thẳm duy nhất với vòm bán nguyệt. Như vậy những ai đi vào thánh đường đều có cảm tưởng như đi về phía ánh sáng. Trong một thánh đường như vậy, bổn đạo có thể vô từng đoàn đông đảo. Thánh đường Giesù với một gian giữa duy nhất và một vòm bát úp vĩ đại giống hình cái nôi và mặt tiền đồ sộ, hai lớp sẽ là nguyên mẫu cho các thánh đường kiểu baroque. Các thánh đường thánh Micae ở Munich và thánh đường Thánh Phêrô và Phaolô ở Cracovie được phỏng theo kiểu Roma này.
Roma baroque với những giáo hoàng và các hồng y trong chính sách gia đình trị, với những gia đình quý tộc đầy kiêu hãnh, những tu viện thế lực và hoàn toàn có ý thức về tầm quan trọng của mình, là thủ đô tiêu biểu nhất cho sự bảo trợ văn hóa có một không hai. Công trình bảo trợ này chẳng những có lợi cho các kiến trúc sư và các điêu khắc gia mà còn cho cả các họa sĩ mọi quốc gia Công Giáo. Ðây có họa sĩ Dominiquin đã vẽ những bức họa trên tường trong thánh đường thánh Andrea delle Valle của các tu sĩ dòng Théatins. Những bức họa trên tường này đã làm thích thú văn hào Goethe khi ông thăm viếng nước Ý, mặc dầu ông không đồng quan niệm về văn hóa và tình cảm. Ðây có Pierre de Cortone trang hoàng cho điện Barberini, đây có thày Pozzo Dòng Tên là người sau này được gọi đi Vienne vẽ trên chóp vòm nhà thờ thánh Ignace rất hoa mỹ với bức phối cảnh có tác dụng rất lớn, diễn tả việc nhập thiên đàng của đấng lập Dòng Tên. Những nghệ sĩ của mọi quốc gia cùng hẹn gặp nhau tại thành phố Roma vĩnh cửu. Chẳng hạn họa sĩ người Pháp là Nicolas Poussin đã nhận Hàn Lâm Viện Hội Họa Roma là quê hương thứ hai của ông. Các họa sĩ Rubens, Van Dyck, Velasquez là nhân viên tập đoàn họa sĩ xung quanh công trường Tây Ban Nha. Những họa sĩ của thế hệ trẻ khi phân tán đi khắp thế giới đã gieo vãi khắp nơi muôn vẻ vinh quang và nghệ thuật của Roma. Thật vậy, khi Bernin, nhận lời mời của vua Louis XIV tới Paris, đã vội trở về Roma. Vì vừa khi hoàn tất dự án về viện bảo tàng Louvre, ông cảm thấy bơ vơ, xa lạ với khí hậu Paris, nên ông đã ra đi như kiểu chạy trốn.
Trái lại, họa sĩ Pierre Paul Rubens (1577-1640), chỉ nêu tên một mình ông thôi, đã nhìn nhận xứ Flandres là quê hương thứ hai của ông. Ông sinh trưởng tại Siegen ở Wesphalie là thế giới của phản Cải cách. Ông tiếp nhận và diễn đạt cách trân trọng sức sống khải hoàn của Giáo Hội mà ông đã cảm nghiệm được qua các màu sắc của Titien, trong cách bố cục của Tintoret, trong vẻ hào phóng vĩ đại của Michel Ange, trong nghệ thuật dùng ánh sáng của Caravage, trong sức mạnh hùng tráng của thời thượng cổ cũng như trong những khuynh hướng của bạn hữu người Roma của ông. Mặt tiền thánh đường Dòng Tên ở Anvers đã được xây cất theo những hướng dẫn của Rubens, người gốc Flamamnd. Lối vẽ của Rubens được áp dụng để trang hoàng phần lớn các thánh đường tại Bỉ. Ðối với chính Rubens, cách bố cục những khối cô đặc và cường độ ánh sáng của màu sắc chỉ là những công cụ của một lối vẽ rất cá nhân, làm nổi bật sức mạnh vô tận của nguồn tư tưởng sáng tạo, một thiên tài họa hiếm, tự đồng hóa với các nhân vật trong những bức họa của ông, một xác định có ý thức về vẻ đẹp nhậy cảm và những ý nghĩa thâm sâu của sự thanh cao thiêng liêng. Bỏ qua những huyền thoại về phía phụ nữ, những mơn trớn và lối sống nhục dục của ông, người ta không thể phủ nhận nơi nghệ sĩ cái vinh dự đã là một nghệ sĩ tôn giáo. Xưởng họa của ông đầy những đại danh tài đã du nhập nghệ thuật mới trên toàn nước Bỉ. Trong số các danh họa đó, họa sĩ Van Dyck biểu lộ ít sức mạnh trong lối diễn tả, nhưng có thể có cảm xúc thâm trầm hơn cả thầy mình. Người ta thường gặp những đề tài như Ðức Tin luôn luôn đại thắng trong các chiến trận, Ðức Bà Mân Côi hay những lần rước lễ sau cùng của các thánh, sự cầu bầu hay gương sáng của các ngài, những lời kinh cho các linh hồn nơi luyện ngục. Những đề tài đó đã được sao lại với vô số dị bản trong các nước thuộc quyền cai trị của hoàng tộc Habsbourg. Ngoại trừ Roma, người ta chỉ có thể so sánh sự phát triển đó với sự phát triển của Tây Ban Nha baroque. Họa sĩ Greco và Murillo đã hướng dẫn hội họa baroque trong một thế kỷ: nếu Greco đem vào các nhân vật một nhiệt tình tôn giáo gần như xuất thần, thì Murillo lại mô tả tới 30 lần về Ðức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội và các Thánh trong sự phó thác cho Thiên Chúa.
Còn về nước Ðức, nghệ thuật baroque chỉ nẩy nở sau những gian khổ của chiến tranh 30 năm. Lúc đầu ở miền Nam nước Ðức và ở Bavière, những thủ lãnh nghệ thuật còn là những kiến trúc sư người Ý. Nhưng vào cuối thế kỷ XVII, rất đông kiến trúc sư Ðức đã đem nghệ thuật baroque vào trong việc xây cất thánh đường và tu viện với một mức độ toàn hảo nghệ thuật hiếm có. Sự phát triển mạnh mẽ của nghệ thuật baroque Ðức được nhận diện vào thế kỷ XVIII. Chỉ vào năm 1754, ngôi thánh đường Wies mới được khánh thành và đan viện hoàng gia Ottobeuren mới có đại giáo đường vào năm 1766 (11).
XII. KHOA THẦN HỌC.
Khoa thần học cũng hưởng được sự phát triển mới. Trong bối cảnh của cuộc bút chiến với những nhà Cải cách và những cuộc thảo luận của Công đồng Trente, trước tiên người ta giới hạn trong những tranh luận, nhưng đồng thời phải sớm lưu tâm đến những bộ môn có hệ thống. Song song với những hoạt động hữu hiệu của thánh Robert Bellarmin, chúng ta thấy xuất hiện như một trái cây chín mùi trong vòng gần một thế kỷ, một tác phẩm tập thể rất quý giá của các cha dòng Carmes Cải cách Salamanque, là cuốnCursus Salmanticensis, một bộ Thần Học Tín Lý theo thần hứng thánh Thomas d'Aquin và dựa vào tinh thần của ngài để giải thích những vấn đề về ơn thánh do Cải cách nêu ra.
Trong khi đó, những vấn đề về Conquista, nghĩa là về chính trị Tây Ban Nha ở Mỹ Châu, không cho phép thiết định quyền bính của các dân tộc theo nhãn giới Thiên Chúa Giáo, cũng không cho phép nêu bật căn tính của chính phủ. Theo Bellarmin, vấn đề đó làm bận tâm người Tây Ban Nha nhất, chẳng hạn cha Dòng Tên Suarez và cha dòng Ðaminh Vittoria. Như vậy là lương tâm Công Giáo đã được thức tỉnh.
Trong thế kỷ XVI, môn thần học thực dụng được khoa nhân bản thuc đẩy nhiều. Nhưng vấn đề lịch sử liên quan đến cuộc ly giáo lại được đề cập tới trong phạm vi tranh luận thần học dựa vào những dẫn chứng Thánh Kinh hay những luận chứng hộ giáo. Nhiều sáng kiến mới đã xuất hiện khi các tín đồ giáo phái Luther tìm cách biện hộ cho Cải cách về phương diện lịch sử và trách cứ Giáo Hội của giáo hoàng đã chối bỏ Phúc Âm và nền giáo huấn của Giáo Hội sơ khai. Ðó chính là nội dung của cuốn Magdeburger Centurien (Ðoàn quân 100 cuả Magdebourg) mà Mathias Flacius và các cộng sự viên đã biên soạn.
Từ đó, điều quan trọng cần chứng minh là Giáo Hội đã lãnh nhận quyền giáo huấn của các Thánh Tông Ðồ, là những thiết chế và tập quán đã có từ thời rất xa xưa, là thanh lọc và đặt lại đúng chỗ trong lịch sử, những chứng nhân được Flacius nêu lên để biện minh cho những điều ông khẳng định. Người ta nhìn nhận ích lợi của những văn bản về nguồn gốc Ðức Tin và đã tìm được một số nhỏ các bản văn giáo phụ. Riêng cha dòng Oratoire là Cesar Baronius từ năm 1588 đã xuất bản bộ ”Annales ecclesiastici” (Biên niên Giáo Hội), gồm 12 cuốn tường trình cho tới năm 1198, và căn cứ vào những nguồn liệu theo đó vị giám quản thư viện Tòa Thánh tương lai sẽ có thể tham khảo dễ dàng hơn là tham khảo toàn bộ Lịch Sử Giáo Hội. Khuynh hướng hộ giáo khá rõ nét và được biểu lộ trong lời đề tặng đức Sixte Quint: ”Trước hết là để chống lại nhưõng nhà canh tân của thời đại chúng ta, đó là bằng chứng những thánh truyền thời xa xưa và về uy quyền của Giáo Hội Roma”. Trên kia chúng ta đã thấy lịch sử đầu tiên của Giáo Hội bắt nguồn từ những buổi hội thảo tại nguyên đường Philippe Néri.
Chúa Quan Phòng hình như đã khai thông nguồn mạch mới cho Lịch Sử Giáo Hội xa xưa. Vì vào năm 1578, tại nhà một nhà người trồng nho ở đường Salaria, đất bị sụp xuống và để lộ ra một đường hầm đi về một thế giới đã bị quên lãng từ lâu, đó là nghĩa địa hầm mộ đạo. Nào là mồ mả, hình ảnh và mộ bia nói lên biết bao nhiêu là chứng cớ rõ rệt về Ðức Tin của Giáo Hội thuở ban đầu mà những nhà Canh tân đã nhận hão cho mình. Antonio Bosio, lúc còn phục vụ cho đoàn kỵ mã thánh Gioan, là người đầu tiên đã nhận thấy tầm quan trọng của các hầm mộ về phương diện khoa học.
XIII. BOLLANDISTES VÀ MARISTES.
Ðể chống lại cuốn "Testes Veritatis” (Chứng nhân Chân Lý) của Flacius, trước tiên người ta sưu tầm các sách hạnh các thánh mà không cần bình phẩm. Nhưng cha Rosweyde, linh mục Dòng Tên Flamand, loại bỏ những huyền thoại không đáng tin cậy và muốn khai triển thêm những công việc phê bình của cha dòng Chartreux Surius ở Cologne. Cha dự định ấn hành truyện các thánh theo nguyên văn mà không lưu ý đến các sửa đổi lối hành văn theo phái nhân bản, và như vậy ngài thu tập chính những thủ bản xa xưa. Công việc này, một người không thể chu toàn được, dầu có uyên thâm lỗi lạc hay có sức làm việc phi thường đến đâu đi nữa. Vì lẽ đó Bellarmin là người được cha cho biết phương án làm việc, năm 1607 đã hết sức khuyên dụ người bạn đồng dòng đừng tiếp tục công việc quá lớn lao đó. Cha Rosweyde chết năm 1629. Tài liệu dồi dào mà cha thu lượm được cho 18 cuốn như đã trù liệu, được các bề trên giao cho cha Dòng Tên người Bỉ là Jean Bolland và ít lâu sau, các ngài còn cử thêm hai linh mục phụ tá cha Bolland là cha Godefroi Henschen và Daniel Papebroch. Năm 1643 hai cuốn Acta Sanctorum (Công vụ các Thánh) đầu tiên được xuất bản. Cha Bolland còn sống lâu để thấy xuất bản cuốn thứ ba. Sau khi cha từ trần (năm 1665) cha Papebroch tiếp tục công việc. Trọn bộ gồm tất cả các thánh mà người ta thâu lượm được tiểu sử cách trọn vẹn hoặc chỉ được biết qua những ghi chú vắn tắt mà thôi. Thứ tự những ngày lễ của mỗi vị thánh, khởi sự từ ngày 1 tháng giêng được chấp thuận. Một thư viện đặc biệt và một phân bộ thủ bản được thành lập tại Anvers. Cha Papebroch đã tận dụng sản nghiệp kếch sù của ngài vào công trình này, và tu hội Dòng Tên, ngay từ buổi đầu đã công nhận tầm quan trọng khoa học rất lớn lao của nhóm Bolland, nên đã dự bị sẵn những người có khả năng để tiếp tục đảm nhiệm công tác đó. Như vậy, cộng đoàn làm việc của các cha Dòng Tên là cộng đoàn duy nhất vẫn tiếp tục hoạt động cho tới ngày nay. Việc giải tán Dòng Tên cũng như cách mạng Pháp không làm biến mất hoàn toàn công trình đó. Một cuốn khác lại được xuất bản năm 1794. Cuốn kế tiếp chỉ được xuất bản sau một thời gian gián đoạn khá lâu. Nhờ liên lạc tham khảo thường xuyên những tài liệu chánh gốc, phương pháp làm việc được hoàn hảo hơn. Sau những bồng bột ban đầu, người ta dùng phương pháp phê bình những tài liệu nguyên thủy mà không quan tâm đến truyền thống đạo đức đến nỗi việc làm của nhóm này chẳng những đã gây lo ngại cho các dòng tu khác như dòng các cha Camêlô, mà còn gây cạnh tranh với các bực tài giỏi dòng Bênêditô.
Trước hết là trường hợp các cha Bênêditô thuộc tu viện Saint Maur, cải tổ lại năm 1618, và trong khoảng thế kỷ đó, đa số các tu viện ở Pháp cùng dòng về sáp nhập vào. Ðiều khiển các tu viện này chỉ còn lại các tu viện trưởng. Các ngài lưu tâm đặc biệt về sự tuân thủ luật dòng cách nghiêm túc và sống đời tu hành rất khắc khổ. Các tu viện này không có ý hiệp nhau để trở thành một đại cộng đoàn theo pháp lý có một bề trên cả và một tổng tu nghị. Vì thế, các tu viện này đã sớm trở thành một tập đoàn quan trọng về hoạt động khoa học theo một chương trình rõ rệt và chỉ chuyên lo đặc biệt về Lịch Sử Giáo Hội và việc điều hành của dòng thánh Bênêditô. Cha Dom Luc d'Achery trách nhiệm việc tái thiết, canh tân và mở rộng thêm thư viện Saint Germain des Prés và thư viện này trở thành trung tâm tôn giáo. Năm 1647 cha bề trên tổng quyền trình bày một kế hoạch chi tiết với mục đích soạn thảo lịch sử của dòng. Các tu sĩ của sáu tu viện có khả năng về khoa học được giao phó những công tác rõ rệt. Người ta đào tạo liên tục các đệ tử và truyền lại cho thế hệ sau công trình nghiên cứu lịch sử lợi ích này, và còn đi xa hơn thời đại chúng ta đang nghiên cứu, cho đến ngày cách mạng Pháp bùng nổ và càn quét công trình này cách tàn nhẫn. Ðiều người ta tìm hiểu trước tiên, không phải chỉ tìm hiểu hoàn toàn về lý thuyết. Thật ra, những nghiên cứu có chủ yếu nêu cao đời sống tu trì khổ hạnh. Người ta muốn biết đích xác tối đa đời sống vật chất và đời sống thiêng liêng của các tu sĩ dòng thuở xưa, ngõ hầu bắt chước mẫu mực giống hình ảnh các đấng ấy. Vì các tu viện cũ chứa đựng nhiều kho tàng thủ bản rất dồi dào, nên khi sáu tu viện họp thành một tu hội, thì đương nhiên người ta khai thác với óc phê bình, những tài liệu căn bản còn tồn trữ. Sự việc này gây ra nhiều vấn đề đặc biệt mà từ nay người ta quan tâm nghiên cứu cẩn thận mà vẫn không để mất cái nhìn tổng quát. Nếu Achery đã làm chúng ta chú ý đến những kho tàng của thư viện, khi các cha dòng Bênêditô bên Pháp xuất bản một số những thủ bản, thì chính đệ tử của ông là Jean Mabillon lại đầy công trạng, vì ngài là người khai sáng lịch sử phụng vụ tên tuổi nhất.
Trong chuyến du hành qua các nước Thụy Sĩ, Ðức và Ý, ông Jean Mabillon thu lượm được trong các thư viện và trong các hồ sơ những tài liệu của lịch sử phụng vụ Galican. Nhờ đó, ông thấy được những gì xẩy ra bên kia ranh giới nước Pháp. Những cuộc viễn du mà ông tường thuật lại trong các báo du lịch đã dẫn ông vào chính năm quân Thổ Nhĩ Kỳ vây hãm thành Vienne và tới Salzbourg là nơi các tu sĩ dòng Melk mới di tản đến. Cũng như các tu sĩ cùng dòng, Jean Mabillon thắng vượt mọi căng thẳng chính trị và mọi thành kiến quốc gia. Ông ngạc nhiên trước sự trung thành giữ luật dòng của các Ðan viện Thụy Sĩ và Souabes và hết sức khâm phục những thư viện sang trọng của họ. Ngoài vấn đề phụng vụ, ông rất chú ý đến các vị thánh của dòng Bênêditô.
D'Achery đã quan tâm đến các đấng ấy. Ông coi việc làm của những tu sĩ thuộc nhóm Bolland như một khích lệ lớn. Những cuộc du hành thăm viếng các thư viện cũng như những trao đổi thơ từ với tất cả các Ðan viện trưởng dòng Bênêditô đã giúp ông góp được nhiều tài liệu chánh gốc. Trong 13 năm ông đã xuất bản chín cuốn trong bộ: Acta Sanctorum Ordinis s. Benedicti (Hạnh tích các Thánh thuộc dòng thánh Bênêditô). Với tựa đề cuốn sách, ông đã trả lời cho việc làm của các cha Dòng Tên, mặc dầu tham vọng của ông cũng như tất cả công trình thực hiện còn khiêm tốn (có lẽ đây là kinh nghiệm đáng học hỏi của nhóm cha Bolland). Phần lớn những niên giám về lịch sử của toàn dòng chỉ được xuất bản sau khi ông chết (1707). Lại nữa, một cuộc tranh luận về kỹ thuật khoa học đã xẩy ra giữa Mabillon và Papebroch. Nhóm Bolland không coi là trung thực những tài liệu của thời kỳ Mérovingien. Ðây là những tài liệu căn bản đầu tiên của lịch sử các tu viện và các đấng thánh bên Pháp, Mabillon đã trả lời thái độ phê bình khe khắt đó bằng một phương pháp đích xác về việc sưu tâm tài liệu qua cuốn De re diplomatica. Ðây là sách chuyên khảo căn bản và đầu tiên về các khoa học phụ của lịch sử. Người ta đã buộc tội sai là lời tựa cho ấn bản của nhóm Mauriste trách cứ các tác phẩm của thánh Augustin có khuynh hướng Janseniste (khắc nghiệt). Dầu vậy, ít ra là ở thế kỷ thứ XVII, các cha dòng thánh Maur không đứng vào lập trường Janseniste. Tuy nhiên những đả kích của các cha Dòng Tên chống đối những tác phẩm khoa học đã khiến các cha dòng Maur giảm bớt thiện cảm đối với dòng Tên. Vị đan sĩ bác học còn có thể đưa ra một bằng chứng về sự kín đáo của dòng thánh Benoit trong cuộc tranh luận chống với đan viện trưởng Rancé, người cải tổ dòng Citeaux. Rancé, vị sáng lập tu viện Trappe, nhất quyết hạn chế đời sống tu viện Cải cách của ông vào kinh nguyện, phụng vụ và lao động tay chân, loại trừ tất cả những hoạt động có tính cách khoa học. Trước lập trường nghiêm nhặt như vậy, trong một khảo luận bằng pháp ngữ (khảo luận về những học hỏi của các dòng tu, Paris 1691), Jean Mabillon biện hộ về giá trị sự học hỏi của các tu viện và của Giáo Hội nói chung, cũng như về quyền lợi và bổn phận của các tu sĩ dòng phải học hỏi. Mabillon đã chấm dứt cuộc bút chiến bằng lần đi viếng thăm hòa giải tại tu viện Trappe. Ông có uy tín để đương đầu với đan viện trưởng trứ danh dòng Citeaux. Khi mới được 25 tuổi ông đã phát hành những tác phẩm về thánh Bernard, một bộ sách còn giá trị cho tới ngày nay.
Người ta mang ơn Thierry Ruinart, người bạn chí thiết và đồng hành của Mabillon, cũng là đan sĩ có đời sống khiêm tốn và ẩn dật. Chính trong nếp sống này, Ruinart đã hoàn thành một tác phẩm giá trị lâu bền, là nghiên cứu về công vụ các thánh tử đạo. Với trí tuệ thông minh, ông biết nhận định và rút ra những sự kiện xác thực từ đống sách đầy dãy những yếu tố sai lầm và những câu chuyện huyền thoại.
Tu sĩ Ðan viện Bernard de Montfaucon (+1741) hướng công việc nghiên cứu về các Giáo Phụ Hy Lạp. Ông là một sĩ quan trẻ tuổi thuộc gia đình quý tộc, ông trở thành đan sĩ dòng Bênêditô năm 1675, ông theo học tiếp Hy Lạp và bắt đầu xuất bản tác phẩm về các Giáo Phụ trong bộ Analecta Graeca (Tinh hoa Hylạp). Tiếp theo là ấn bản nổi tiếng về những tác phẩm của thánh Athanase. Ông phải tự học phương pháp để đọc và diễn giảng những thủ bản Hy Lạp, và ông ghi lại những kinh nghiệm bản thân về vấn đề đó trong cuốn Paloeographia Graeca (Phương pháp tìm đọc các bản văn cổ Hy Lạp) (1708). Không hề biết mệt và có một trình độ văn hóa đa diện, ông chưa hài lòng về việc nghiên cứu đời sống và sự nghiệp của các Giáo Phụ Hy Lạp và ngôn ngữ đông phương. Dưới ngòi bút của ông, cuốn ”Hexaples” được ấn hành, tức là cuốn Kinh Thánh có 6 cột của nhà thần học Origène và những danh mục nguyên thủy về khảo cổ học mà chỉ một danh mục cũng đã có không dưới 40.000 bản sao lại và chia ra thành 10 cuốn khổ đôi. Cùng với ông, có Edmond Martène (+1739) cũng là cựu đồ đệ của Mabillon, cũng thâu lượm những tài liệu nguyên thủy về phụng vụ, ấn hành những bản văn của các Giáo Phụ và biên soạn bộ lịch sử các đan sĩ thánh Maur gồm chín cuốn.
Công lao của những vị mà chúng ta vừa nêu lên đây, cũng như nhiều nhân vật khác, được biết tên hay không biết tên, thuộc dòng Bênêditô, không thể không gây tiếng vang trong dòng bên ngoài nước Pháp cho dù những phần đóng góp và những kết quả thực tiễn trong phạm vi hoạt động chỉ được biết đến sau thời kỳ chúng ta bàn đến ở đây. Bên Ðức, những tai họa của chiến tranh 30 năm và mối ưu tiên tuyệt đối dành cho sự tái thiết vật chất không cho phép thực hiện những công tác khoa học lớn. Chúng ta nên đề cập ở đây những cố gắng của các tu sĩ dòng Bênêditô người Áo. Năm 1732, Bessel, tu viện trưởng tu viện Gottweig, đã phát hành cuốnProdromus (Triệu Chứng) cho những nghiên cứu lịch sử, tác phẩm đầu tiên bằng Ðức ngữ về cách nghiên cứu các văn kiện cổ. Hai anh em đan sĩ Pez thuộc tu viện Melk, có liên lạc trao đổi thơ từ với ông, đã thâu lượm trong nhiều dịp viễn du, người này xin tài liệu cho tác phẩm vĩ đại về lịch sử văn chương của dòng thánh Bênêditô, người khác xin tài liệu lấy tận nguyên thủy về lịch sử nước Áo. Trái lại, những dự án hai ông muốn thiết lập một thứ hàn lâm viện theo gương các cha dòng thánh Maur, thì không thực hiện được. Chúng ta không thể ngừng lại ở đây mà không nhớ đến các sử gia thông thái Ý và Tây Ban Nha, các sử gia Ðức đã soạn những bản chuyên khảo về các giáo phận hay các dòng tu; đến công trình nghiên cứu của các cha Dòng Tên, của các tu sĩ dòng Oratoire và của nhiều linh mục triều trong phạm vi Lịch Sử Giáo hội.
XIV. GIÁO HỘI VÀ NHỮNG KHOA HỌC THIÊN NHIÊN.
Trong số những khoa học đời, khoa học thiên nhiên ít được chú ý đến. Phương pháp thực nghiệm và quy nạp cũng như việc tìm kiếm những hiểu biết mới bằng phương pháp quan sát xem ra hoàn toàn đố kỵ với tinh thần canh tân Công Giáo. Não trạng Công Giáo vẫn giữ nguyên truyền thống và quy tắc tôn giáo của các bậc tiền bối. Nếu ngay từ bây giờ bắt đầu tung ra những ý niệm làm đảo lộn sự khôn ngoan của các vị tiền bối, thì có nên sợ một cuộc cách mạng mới giống như phong trào Cải cách không? Và lúc đó sẽ có một nguy cơ độc hại cho Giáo Hội chăng? Thêm vào đó, nhiều vị có thẩm quyền trong hàng giáo sĩ dòng vẫn một mực trung thành với những quan niệm mà thánh Thomas d'Aquin đã thừa hưởng trong khoa vật lý của Aristote. Vì vậy, mọi canh tân đều bị các vị ấy coi là một sự tấn công chống lại toàn diện phương pháp Aristote. Phải nhìn thấy như vậy mới cắt nghĩa được tại sao vai trò ưu thế trong y học và trong những khoa học thiên nhiên đã thoát ra khỏi nước Ý, tại sao những khoa học đó lại đi vào những con đường lìa xa các học thuyết của Giáo Hội và tại sao sau này người ta dựa vào những khoa học đó để phá hoại Ðức Tin.
Ðó là sự kiện hết sức bi đát và đau thương trong Lịch Sử Giáo Hội. Bởi vì những người chủ trương và trình bày cho thế giới các quan niệm tân tiến, những người đi tiên phong trong nhiều hiểu biết sâu xa về thiên nhiên học, lại là những tín đồ muốn trung thành với Giáo Hội. Chúng ta nêu ra vài trường hợp điển hình. Kinh sĩ Nicolas Copernic đã 70 tuổi đời, sống tại Frauenbourg trong tỉnh Eremland, lúc đó thuộc lãnh thổ Balan. Năm 1543, cũng là năm ông từ trần, ông đề tặng đức Phaolô III tác phẩm của ông, cuốn De Revolutionbus Orbium caelestium. (Về những biến chuyển của thiên văn). Ông tưởng là một khi tác phẩm của ông đến tay đức giáo hoàng, nó sẽ được dùng để tạo nên một sự tương hợp giữa khoa học và Ðức Tin. Ông không coi hệ thống nhật tâm (système hélicocentrique) mà ông trình bày là do chính ông tìm ra, mà là do quyết định của Thiên Chúa. Ðức giáo hoàng vui vẻ nhận lời đề tặng. Lúc đó, ở Roma Thánh Kinh không được hiểu theo nghĩa quá khắt khe như nơi những nhà Cải cách là những người không chấp nhận học thuyết Copernic bởi vì hoàn toàn trái ngược với Thánh Kinh. Tiếc là Giáo Hội Công Giáo, vì quá lo lắng bảo vệ và làm sáng tỏ những tín điều căn bản của Giáo Hội, nên đã không quan tâm đến cử chỉ thân thiện không gây liên lụy gì cho Giáo Hội. Rốt cuộc, mặc dầu bài tựa bị Osiander, một tín đồ tin lành sửa chữa, tác phẩm chỉ có tham vọng đưa ra những giả thuyết mới mẻ và đáng thán phục, nhưng chưa được chứng minh. Ðiều không may là từ nay những người đứng ra bênh vực thuyết Copernic là những người không đứng vào lập trường của Giáo Hội Công Giáo. Cựu tu sĩ dòng Ða Minh là Giordano Bruno đã giải thích Thiên Chúa Giáo theo lối phiếm thần bằng cách chối bỏ sự nhập thể của Chúa Kitô. Ông cưỡng đoạt thuyết Copernic để sáp nhập nó vào hệ thống của một thế giới vô tận và bất động. Sau khi sống một cuộc sống vô định và đầy biến cố trên khắp Âu Châu, kẻ phản đạo bị đưa ra trước tòa án thẩm tra tại Roma. Vụ án kéo dài một thời gian lâu, sau cùng ông bị án thiêu năm 1600. Tiếp đến, nhà thiên văn học Ðức là Johannes Kepler, năm 1609, đã xuất bản tác phẩm Astronomia Nova (Tân thiên văn học), theo đó những định luật dựa trên sự quan sát, ông chứng minh cách rõ ràng giá trị của những quan niệm của Copernic nêu lên. Trước kia Kepler là một tín đồ tin lành, nay ông muốn coi mình thuộc về Giáo Hội Công Giáo hoàn vũ cho tới khi chết (1630). Nhưng vì ông chống đối mọi cưỡng bức về phương diện đức Tin của các người đồng đạo, nên ông bị loại ra khỏi tiệc thánh và chịu nhiều đả kích.
Vấn đề là các bác học Ý rất bận tâm muốn biết xem những đình luật của Kepler trong quỹ đạo các hành tinh có thật sự xác nhận hệ thống của Copernic hay không. Sinh trưởng tại thành Pise, Galilée (Galileo Galilei, 1564-1642) đã tìm được những định luật đẳng thời tín (les lois de l'isochronisme) về sự đong đưa nhỏ của đồng hồ và sự rơi của những vật thể. Nhờ thiên lý kính do ông chế tạo, ông cũng khám phá được những vệ tinh của Mộc tinh và cả quang hoàn của Thổ tinh. Với tư cách là nhà thiên văn học của triều đình Toscane, ông không ngần ngại tự cho mình là vô địch về hệ thống Copernic. Ông đạt nhiều danh vọng và kinh thành vĩnh cửu không phải là thành phố sau cùng đem nhiều danh vọng đến cho ông. Ðây là nơi rất thuận lợi đối với khoa học vật lý và khoa học tự nhiên. Hàn lâm viện Dei Lincei được thành lập ngay từ năm 1602. Nhà toán học nổi tiếng Clavius dạy ở trường Dòng Tên tại Roma là người đã có công rất nhiều trong việc điều chỉnh lại niên lịch. Tất cả mọi người đều biết sự sửa đổi đó đã làm cho uy tín của đức giáo hoàng lên cao rất nhiều. Ngay từ Bắc Kinh, cha Ricci đã viết nhiều thơ đề cao sự quan trọng mà khoa học tự nhiên có thể đem lại cho hoạt động truyền giáo. Các cha Dòng Tên rất ca tụng nhà nghiên cứu xuất sắc và đức giáo hoàng Phaolô V đã sẵn sàng cho ông yết kiến. Nhưng Galilée có nhiều đối thủ là những người dựa vào lý lẽ Kinh Thánh để phản đối ông. Trong nhiều bức thư, ông Galilée đã bảo vệ quan điểm của ông, là không thể có mâu thuẫn giữa khoa học tự nhiên và mạc khải, vì thế, người ta không nên dùng một sự việc nêu lên trong Kinh Thánh để chống lại một luận cứ của khoa học vật lý. Thánh Kinh chỉ có uy thế đối với những vấn đề thuộc về sự cứu rỗi, ngôn ngữ của Thánh Kinh không có tính cách khoa học nhưng có tính cách bình dân. Những biện chứng đó đã được trình bày với một vẻ ngoan cố của cuộc bút chiến và những đối thủ của ông rất bất mãn. Thế kỷ baroque không phải là thế kỷ của những nhà thần học giáo dân. Bấy giờ người ta trách cứ Galilée có tham vọng giảng giải Thánh Kinh. Tiếp theo những lời của Caccini, tu sĩ Ða Minh, gay gắt buộc tội ông, còn có Ingoli, sau này là thơ ký Thánh Bộ Truyền Giáo, đã dùng ngòi bút đả kích kịch liệt ông, tòa án Roma đứng ra lãnh trách nhiệm vấn đề đó. Galilée không muốn tự ý rút lại những quan điểm của ông, thánh bộ kiểm duyệt công bố năm 1616: hai luận đề theo đó mặt trời là trung tâm bất động của vũ trụ và trái đất xoay xung quanh mặt trời là trái ngược với Thánh Kinh. Chính đức hồng y Bellarmin đã thông báo bản án cho nhà bác học. Galilée buộc phải hứa không bênh vực những lý thuyết đó nữa. Cùng một lúc, tác phẩm của Copernic bị liệt kê vào những sách cấm, trong khi chờ đợi tu chỉnh tác phẩm và trình bày những quan niệm mới như những giả thuyết thường mà thôi. Vào năm 1632, dưới triều giáo hoàng Urbano VIII mà Galilée có thể hy vọng vào lòng khoan dung, Galilée táo bạo trình bày trong cuộc Ðối thoại về hai hệ thống chính yếu của vũ trụ, hệ thống nhật tâm như một luận cứ hiển nhiên. Ông bị triệu về Roma năm 1633 do lịnh tòa thẩm tra. Trước những do dự của ông, người ta hâm dọa tra tấn, buộc ông phải có thái độ dứt khoát. Thế là, Galilée đã công khai chối bỏ quan điểm của Copernic coi như sai lầm và trái với Kinh Thánh.
Nếu vụ án lần thứ hai được coi như do sự khoe khoang và thiếu thành thật của Galilée, thì vụ lên án lần thứ nhất năm 1616, được coi như một sai lầm thật đáng tiếc và phải nhận định những hậu quả của nó, phải hối tiếc về một lầm lẫn thảm hại. Thảm hại không phải tại nhiều cấm đoán đã thông báo bằng miệng cho nhà bác học, mà do thái độ coi là nguy hại những tác phẩm của Copernic và của những người bênh vực ông. Cho đến nay tại nhiều nơi cũng như tại những đại học ở Graz và Salamanque vẫn trân trọng nêu danh những nhân vật ấy với nhiều cung kính. Dĩ nhiên người ta có cảm tưởng là Giáo Hội Công Giáo không muốn tham gia vào những công cuộc nghiên cứu khoa học và nghi ngờ tất cả mọi kết quả nghiên cứu. Có lẽ hơi quá đáng, nhưng người ta có thể nói rằng Giáo Hội đã cản trở bước tiến khoa học. Sự tranh chấp hoàn toàn vô ích giữa Giáo Hội với những khoa học tự nhiên trên đà phát triển, những phương thức mới và những phương pháp kỹ thuật, đã đưa đến hậu quả: những vấn đề quan trọng cứ phó mặc cho những người ở ngoài Giáo Hội, do đó xẩy ra nhiều căng thẳng, hiểu lầm và chống đối vô bổ. Tình trạng này trở nên trầm trọng hơn vì mãi tới năm 1737, Giáo Hội mới rút những tác phẩm của Copernic ra khỏi thư mục sách cấm, nghĩa là 70 năm sau khi nhà bác học Anh Isaac Newton với tác phẩm chính của ông đã loại bỏ những nghi ngờ sau cùng về sự hữu hiệu của định luật Kepler và hệ thống Copernic. Còn số phận Galilée, ông chỉ được phục quyền lại vào năm 1822.
Tuy có nhiều kết quả khả quan, những thí nghiệm, của mấy nhà nghiên cứu khoa học Công Giáo riêng rẽ, đặc biệt các cha Dòng Tên, đã không xóa bỏ được những hậu quả tai hại của lối lấn quyền ấy, cũng không ngăn chặn nổi cha Dòng Tên Schreiner ở Ingolstadt trong việc khám phá ra những cái chấm trên mặt trời hay bạn đồng tu của ngài là cha Grimaldi đã phác họa bản đồ về mặt trăng. Ấy là chưa kể đến vô số những quan sát và những thí nghiệm do các cha Dòng Tên khác thực hiện được. Sau vụ Galilée, các Hàn lâm viện Ý thôi không tập họp lại với nhau nữa và nhiều hiệp hội khoa học xuất hiện ở Paris và Londres, như muốn xa tránh Roma.
Quá trình rạn nức dần dần giữa Giáo Hội và khoa học còn ghi đậm nhiều hậu quả không tốt trên bình diện giáo dục, đặc biệt sau công đồng Trente. Hầu hết khắp nơi, phong trào sư phạm của Dòng Tên sau chiến tranh 30 năm đã bắt đầu đi xuống giốc. Những căng thẳng nội bộ giữa quan niệm bảo thủ và quan niệm cởi mở về vấn đề thần học luân lý đã làm tê liệt từ từ nhiệt tâm của các cha Dòng Tên. Việc học trong các trường bị suy thoái. Phương pháp giáo dục lý tưởng của thánh Ignace vẫn còn mang nặng ảnh hưởng thuyết nhân bản, không gò bó. Những hiểu biết mới không còn bị ràng buộc với những vấn đề chủ yếu. Những môn học mới được đem vào chương trình giáo dục tùy theo nhu cầu thời đại, nơi này người ta dạy nghệ thuật xây cất thành lũy, nơi khác người ta tìm cách làm tăng kiến thức, làm tổn thương đến nền văn hóa trung thực. Vào thế kỷ XVIII, một số trường bị sa sút và người ta nhận thấy trong những trường lớn ở Paris, việc giáo dục tôn giáo và luân lý bị sao nhãng. Nhưng sự kiện đó đã khởi sự từ thế kỷ XVII. Hơn nữa, và không thể phân tách đúng mức nền triết lý Cartésien, người ta đành lòng loại bỏ mấy luận đề trong các trường. Sự trở về với ý thức siêu nhiên không đủ sức chống lại những nguy hiểm mà thời đại đã tiêm nhiễm vào lý tưởng giáo dục.
XV. KỊCH TRƯỜNG CỦA CÁC CHA DÒNG TÊN TẠI BALDE VÀ CALDESON.
Ðiều đáng ghi là không phải nơi nào cơn khủng hoảng cũng xẩy ra theo cùng một nồng độ. Ðặc biệt, thuyết Janséniste ảnh hưởng rất ít trong những vùng nói tiếng Ðức, chỉ vài nhà trí thức quan tâm đến những lời chỉ trích của Pascal chống các cha Dòng Tên. Công tác giáo dục của các ngài xem ra vẫn phồn thịnh. Chúng ta nhận thấy dấu hiệu phồn thịnh ấy trong ”các vở kịch giáo huấn” được các cha Dòng Tên canh tân và được ái mộ đặc biệt vào giữa thế kỷ XVII. Trước khi đem ra trình diễn tại kịch trường, người ta đã trình diễn loại kịch này trong các buổi đại nhạc hội của triều đình Vienne. Chúng cũng được trình diễn nhiều ở Hòa Lan. Mục đích trước tiên là giúp vui cho các học sinh, nhưng các cha coi đó như một dụng cụ mục vụ. Bắt chước các vở kịch giáo huấn nhân bản trong các trường nghệ thuật thơ, bị ảnh hưởng ít nhiều của Tin Lành, những buổi trình diễn đầu tiên hầu như không lôi cuốn được sự chú ý nào. Những buổi trình diễn đã được nêu lên trong ”Ratio studiorum”. Các cha đã phải nhờ đến các tiết mục của nhiều tác giả khác. Chẳng hạn kịch luân lý chọn lọc trong những sáng tác của Plaute và của Térence, những vở kịch bình dân lấy từ các câu chuyện Kinh Thánh. Kế đó, các cha khởi sự soạn những bản kịch độc đáo cho sân khấu và sửa đổi tùy theo thì hiếu của khán giả. Tột đỉnh các vở kịch bình dân hình như đã đạt được ở Munich. Trong dịp làm phép nhà thờ thánh Michel năm 1597, các cha cho trình diễn vở kịch Triumphus divi Michaelis Archangeli (Sự toàn thắng của Tổng Lãnh Thiên Thần Micae) với nhiều màn liên tiếp sống động và kết thúc bằng màn hãi hùng của 300 Thiên thần rơi xuống hỏa ngục. Sau đó, các cha nhất quyết sửa lại vở kịch cho có một nội dung sâu sắc hơn, làm nổi bật dưới mọi hình thức có thể tưởng tượng được sự hiệp nhất giữa thế giới trần gian và thế giới bên kia trong trận chiến giữa sự lành và sự dữ, giữa thiện và ác. Trong thời gian bàn cãi về ân sủng, người ta đã cho thấy loài người bị dồi như quả banh giữa Thiên Chúa và Satan. Chẳng những các vở kịch đồng quê mà cả các vở đại bi kịch nữa, cũng từ Ý tràn về hướng Bắc. Rất nhiều vở kịch về các thánh và các đại anh hùng Thiên Chúa Giáo và hơn thế nữa, diễn tiến về các cuộc trở lại, được miêu tả một cách gợi ý, đã được trình diễn trước các vua chúa và triều đình, trước các giới trưởng giả và sinh viên. Chúng ta phải kể đến vở kịch cảm động và ngao ngán Cenodoxus (Bác sĩ thủ đô Paris) của Jacob Bidermann sáng tác năm 1602 tại Augsbourg và được trình diễn tại Paris và tại Ypres. Tại những nơi này, kịch trở thành bài giảng và những diễn viên đã chỉ vào khán giả để nói cho họ biết là chính định mệnh bất tử của họ đang được trình diễn trên sân khấu. Những buổi trình diễn trên sân khấu đã thu hút rất đông khán giả. Theo chúng ta biết, những kịch này được trình diễn tại 24 nơi khác nhau trong những lãnh thổ nói tiếng Ðức. Rất nhiều ”kịch các thánh” (mầu nhiệm) diễn tả sự biến hình thần bí về đời sống khổ hạnh. Không đề tài nào được chiếu cố nhiều như đề tài về các đấng tử đạo Nhật Bản, ít nhất 28 lần trong vòng nửa thế kỷ sau. Vả lại, người ta không chỉ giới hạn vào những kịch bản do các cha Dòng Tên Ðức sáng tác. Phương pháp tập quyền trung ương của Dòng Tên đã giúp cho việc trao đổi thêm phong phú. Kể từ năm 1578, bề trên tỉnh dòng Hoffaus đã gởi thỉnh nguyện lên bề trên tổng quyền yêu cầu ngài chỉ thì sáng tác hay sao lại tại Roma những bản kịch nổi tiếng (13). Các cha Dòng Tên Ý, Hòa Lan, Pháp gởi ra ngoài nước nhiều vở kịch đặc sắc về nội dung và nghệ thuật sáng tác. Riêng trường phái Anh tại Roma, năm 1650, cha Dòng Tên người Anh Joseph Simeons (+1671) một người mới trở lại, đã khuyên vua Jacques II trở lại đạo, và đã cho trình diễn những vở kịch do cha sáng tác, có nhiều nhân vật hào hùng làm rạng rỡ lòng trung thành với Thiên Chúa, với vua và với lương tâm. Các vở kịch do Dòng Tên sáng tác được phổ biến và trình diễn trước tiên tại các trường và trên các khán đài của dòng, rồi tại các trường học của các dòng khác nữa, đặc biệt tại các trường của dòng Bênêđitô và tại các đại học mới được thành lập ở Salzbourg và ở Einsiedeln. Khắp mọi nơi, người ta đã đem lên sân khấu vở kịch Pietas victrix (Lòng Thương Xót toàn thắng) (14), cho tới khi, vào khoảng cuối thế kỷ, ở đây hay ở nơi khác, chính phủ và thượng tầng chánh trị đã lấn át số phận của một cá nhân, nếp sống thanh lịch đã vượt qua ải tiến hóa lưỡng nan quá tàn nhẫn của định mệnh.
Tuy vậy, phải nói là tiếng latinh chỉ được thay thế bằng ngôn ngữ phàm tục và bình dân cách ngẫu nhiên trong những tiết mục chuyển tiếp, cũng đủ tạo cho kịch trường của Dòng Tên một âm điệu quý phái, vì vậy loại kịch này chỉ dành cho giới trí thức lỗi lạc. Cùng tiêu chuẩn đó, Jakob Balde người Alsace áp dụng cho những bài thi ca tuyệt tác do ông sáng tác bằng la ngữ và ông là thể hiện một thứ nguyên mẫu của con người thời đại baroque. Người sinh viên luật trẻ tuổi ở Ingolstadt đã đập tan cây đàn của anh, lúc nửa đêm, vào cây cột nhà của người yêu rồi la lên: ”cantatum satis, frangiton barbiton” trước ngày vào tu viện Dòng Tên và suốt cuộc đời anh bị hồn thơ thi ca trữ tình theo đuổi mãi. Nhưng người ta có thể nghĩ rằng một số cha Dòng Tên đã công nhận giới hạn của thi văn la ngữ. Bidermann đã góp nhặt nhiều bài ca bình dân Ðức và xuất bản dưới tựa đề Himmelsglocklein (Những chuông nhỏ trên trời). Ðồng thời với ông, nhà quý tộc Friedrich von Spee (+1633), trong thơ vắn trữ tình của ông tràn đầy những tình cảm nồng nàn, đã vun quén một thứ Kitô giáo sâu xa mà ông đã diễn tả trong một hình thức thi văn bằng Ðức ngữ (Trutz nachtigall): ”Mặc dầu con chim sơn ca”. Họ là những ngoại lệ.
Trong những nước nói tiếng Roman, sự việc lại khác hẳn, cho dù chúng ta không kể đến ở đây Pierre Corneille (+1684) cựu học sinh của các cha Dòng Tên. Thi sĩ Tây Ban Nha Calderon de la Barca (1600-1681), trong ngôn ngữ nước ông, xuất hiện như một thi hào baroque tài ba. Khi còn là sinh viên, ông biết những vở kịch giáo huấn của các cha Dòng Tên, ông vào đời bằng nghề chiến binh, ông tham gia chiến tranh và mãi sau mới được thụ phong linh mục, lúc đã 51 tuổi. Suốt những năm trước và sau biến cố đó, với một thiên tài vượt hơn những đại văn sĩ, ông đã sáng tác nhiều vở kịch cho sân khấu phàm tục và nhiều vở kịch cho lễ Mình Thánh Chúa (auto-sacramentales), trình diễn liên tục trong suốt tám ngày. Những bản kịch ấy đặt trọng tâm vào sự diễn giảng và sự thờ lạy Thánh Thể, sự tôn vinh và sự khải hoàn của Mình Thánh Chúa theo những định tín của công đồng Trente. Những màn trung gian có tính cách bình dân đã đánh dấu cho những định nghĩa đó. Như trong những vở kịch của Bidermann, ở đây khán giả tiếp nhận một bài giảng dưới hình thức kịch trường mà không bị bắt buộc phải lấy một quyết định, nhưng bị lôi cuốn vào đại phong trào do Giáo Hội chủ trương: tôn vinh sự khải hoàn của Thiên Chúa toàn năng và yêu thương. Toàn thể vũ trụ trở thành diễn viên. Lòng thương xót và tội lỗi, ý chí và tinh thần ở đây được nhân cách hóa, Trời và Ðất từ tạo thiên lập địa cho tới ngày nay là tấm màn che tất cả. Thần học và kinh nghiệm thần bí được trình bày, Thánh Kinh và phụng vụ được nổi bật lên cách khác thường. Một cách nào đó, ai đến xem kịch đều tham gia vào sự tự hào thống thiết của một Kitô giáo toàn thắng và bén rễ sâu vào tâm khảm của các tín đồ.
XVI. LÒNG ÐẠO ÐỨC VÀ LỐI THUYẾT GIÁO BAROQUE.
Lòng sùng kính phép Thánh Thể do công đồng Trente chủ xướng là một trong những hiện tượng đặc biệt về lòng mộ đạo thời baroque. Công đồng Trente đã hủy bỏ nhiều lạm dụng trong cách thực hành lòng tôn sùng Thánh Thể thời Trung Cổ, như việc bổn đạo rước Máu Thánh Chúa nơi chén thánh và việc rước lễ ngày thứ sáu Tuần thánh đương nhiên bị bãi bỏ để tránh mọi giải thích sai lầm của các nhà Cải cách và không áp dụng những đặc ân địa phương cho phép rước lễ dưới hai hình sắc. Nhưng công đồng nhấn mạnh cách đặc biệt về lòng tin có sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu trong phép Thánh Thể. Mình Thánh Chúa được lấy ra từ cái hộp nhỏ đựng Mình Thánh hình gôtíc và đặt trên bàn thờ ngay giữa nhà thờ. Trên bàn thờ người ta làm một nhà tạm mỹ thuật, cất Mình Thánh Chúa ở trong, hai bên có Thiên Thần quỳ chầu thờ lạy. Trên nhà tạm, người ta xây thêm một ngai tòa để đặt Mình Thánh Chúa trong các giờ chầu và đặt một cái lọng che ngai tòa. Trong mọi nhà thờ, người ta dùng mặt nhật quý giá tượng trưng cho mặt trời và bên trên mặt nhật thường gắn vương miện. Hoàng đế Ferdinand II tự coi mình là vô địch về việc tôn sùng phép Thánh Thể (Pietas austriaca eucharistica), năm 1622, ngài đã ra sắc lệnh buộc triều đình Vienne từ nay phải tham gia cuộc rước kiệu hằng năm vào dịp lễ Thánh Thể để tôn sùng phép Thánh Thể (15). Trong các nước Roman, mỗi khi có rước kiệu, các quan cận thần và các quan trong triều, áo mão đại trào và mang gươm dài bên hông tháp tùng theo kiệu. Những cuộc rước kiệu này trở thành những đoàn người sùng kính với những lễ nghi quân đội. Dưới sự thúc đẩy của các cha dòng Tên, sự trưng bày Mình Thánh Chúa trong lúc cử hành thánh lễ được lan rộng vượt qua ngoài các lãnh thổ nói tiếng Ðức. Tất cả đều tỏ lòng biết ơn vua về lòng tôn sùng phép Thánh Thể. Lòng tôn sùng được thể hiện cụ thể trong đội quân hầu danh dự, trong việc tĩnh tâm và nguyện gẫm, trong các nghi lễ triều đình. Mọi người quan tâm dọn mình rước lễ sốt sắng. Người ta không tiến lên gần bàn thờ và đứng để rước như trước nữa, mà quỳ gối xung quanh bao lơn chấn quanh cung thánh. Vào cuối thời đại baroque, việc rước lễ lần đầu của trẻ em được tổ chức với lễ nghi tập thể do sáng kiến của người Ý. Người ta còn cử hành nghi thức hòa giải và đền tội chung hầu nêu bật ý nghĩa đoàn người thống hối tìm về với Thiên Chúa. Riêng trẻ em mặc y phục thiên thần để nêu cao ý nghĩa ”các em được mời dự tiệc thánh với các Thiên Thần”.
Nhưng quần chúng nhận biết trong Thánh Thể còn hơn vua trên các vua, sự hiện diện của Thiên Chúa làm người, gánh nhận sự vô ơn của những kẻ chối bỏ Chúa. Còn việc lãnh nhận bí tích Thánh Thể mỗi khi dâng lễ, theo như Công đồng Trente khuyến khích, giáo hữu còn ít siêng năng và sốt sáng hơn so với thời Trung Cổ. Những nhà truyền giáo bình dân đầy nhiệt huyết nhất là các cha dòng Tên, đi xa hơn các quyết định của thế kỷ XVII, khuyên năng rước lễ: ngoài những ngày lễ Giáng Sinh, lễ Phục Sinh và lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, nên rước lễ trong những ngày lễ trọng kính Ðức Mẹ. Hơn thế, trong các trường học dòng Tên, những ngày lễ có rước lễ còn là những ngày Chúa nhật dâng kính cách riêng cho thánh Ignace và thánh Louis de Gonzague. Những hội viên thuộc các hội đoàn đạo đức thường rước lễ hai tuần một lần. Tại các xứ truyền giáo bình dân hoặc tại các trung tâm hành hương được báo cáo là số người rước lễ lên rất cao vào đầu thế kỷ XVIII. Abraham a Santa Clara hăng say cổ võ việc năng rước lễ, nhưng gặp nhiều chống đối, nhất là vào lúc thuyết Janséniste bắt đầu xuất hiện. Những hội đoàn đạo đức thời Trung Cổ lại có dip trăm hoa đua nở. Tại Roma, giáo dân quy tụ thành hội đoàn tôn sùng đặc biệt Chúa Giêsu Thánh Thể. Năm 1539, đức giáo hoàng Phaolô III nâng hội đoàn này lên hàng hội của giáo triều và mang danh hiệu là Hiệp Hội Thánh Thể, lan rộng mau chóng trên toàn thế giới Công Giáo. Năm 1592, đức giáo hoàng Chément VIII đã cho phổ biến trong các nhà thờ tại Roma kinh nguyện 40 giờ để cử hành ễ táng xác Ðức Chúa Giêsu trong huyệt đá. Sau chiến tranh 30 năm, tiểu vương xứ Bavière và tổng giám mục thành Mayence thành lập trong lãnh thổ các đội chầu phiên. Hiệp hội Thánh Thể Paris sẽ nói đến sau, là một trong những bằng chứng sống động về lòng đạo đức này. Rất nhiều sinh hoạt đạo đức bình dân thoát sinh và phát triển từ niềm tin vào phép Thánh Thể: Chúa Giêsu hiện diện thực sự trong Mình Thánh, Ngài đầy khoan dung và yêu thương, Ngài chan hòa ân sủng xuống cho cả nhân loại và từng linh hồn.
Khuynh hướng đa cảm quá nhiều cá tính, tuy đã được kèm chế, vẫn là một trạng thái điển hình của lòng đạo đức bình dân thời ấy. Tình cảm chế ngự lời cầu nguyện. Tu sĩ dòng Phanxicô Martin von Cachem, một trong những văn sĩ bình dân tôn giáo dồi dào nhất của thời đó, cổ võ lối ”cầu nguyện với con tim” (Herzdringende Gebet). Vượt quá thái độ khách quan và những tiêu chuẩn phụng vụ vững chắc, lòng đạo đức dựa trên cuộc tử nạn của Chúa Giêsu đôi khi công khai gây khó chịu cho người khác. Người ta thấy xuất hiện nhiều việc đạo đức mới do chính sáng kiến của giáo dân, như sự sùng kính bảy lần Chúa ngã xuống đất, sùng kính những vết thương nơi vai và nơi lưỡi Chúa Giêsu... Trong cuốn Thành đô thần bí của Thiên Chúa (Mitica Ciudad de Dios Meadrid 1670), nữ tu Maria d'Agréde thuộc dòng thánh Phanxicô người Tây Ban Nha (1602-1665), đã viết lại như của riêng bà, những tư biện của thời hạ Trung Cổ về sự khổ nạn của Chúa Giêsu mà chúng ta không thấy nói đến trong Phúc Âm. Rồi, Martino von Cochem đã viết cuốn Ðời sống phi thường của Chúa Kitoâ (Das grosse leben Christi, 1680), làm cho giáo dân Ðức quen thuộc với cuộc khổ nạn mới lạ đó. Những cuộc rước kiệu thứ sáu tuần thánh dưới thời Trung Cổ lại được dịp bành trướng trở lại, với người vác thánh giá và người chịu đánh đòn. Ðược các phụng hội khuyến khích, Người ta làm sống lại những tuồng về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu hoặc để tỏ lòng tôn kính cuộc khổ hình đau thương hay năm dấu thánh Chúa Giêsu, hoặc để hoàn tất lời hứa đã làm trong lúc bị dịch tả, như trường hợp ở thành Oberammengau và ở miền Bắc Bavière.
Lời kinh và những việc làm phúc đức bình dân kết hợp chặt chẽ dung nhan Chúa Kitô đau khổ với dung nhan Mẹ Ngài. Với nhiệt tình lớn lao và một tính khí hiếu chiến, dân Công Giáo bênh vực, bảo vệ dung nhan Chúa Kitô chống lại mọi đả kích của những nhà Cải cách. Chuỗi môi khôi trở nên biểu hiệu của người công giáo, người ta đọc phần thứ hai của kinh Kính Mừng cách liến thoắng lạ thường. Hình ảnh Ðức Mẹ Vô Nhiễm xuất hiện trên những cờ xí của liên minh Công Giáo trong chiến cuộc 30 năm. Ðể tỏ lòng biết ơn, hoàng đế dựng một cây cột cao ”Am Hof” (đền vua thành Vienne) như ngài đã hứa trong lúc Thụy Ðiển lâm nguy. Cột trụ này dùng làm cột trụ mẫu cho nhiều cột trụ kỷ niệm và trên chót những cột này ngự trị nữ vương toàn thắng của các cuộc chiến tranh nhân danh Chúa. Hoàng đế Ferdinand III còn phong cho Ðức Mẹ danh hiệu ”Siêu chiến lược gia” (Archistratège). Vua Maximilien de Bavière gọi Mẹ là Quan Thầy của nước ngài và ra lệnh cho một đội lính hầu danh dự luôn luôn túc trực trước ảnh của Mẹ tại dinh thự ở Munich. Theo thói quen của thời ấy, vua Maximilien và vua Ferdinand II đã lấy máu viết những hàng chữ chúc tụng Mẹ (16). Những việc tôn kính Ðức Mẹ trong tháng năm bắt đầu được phổ biến trong khắp nước Ý vào cuối thời kỳ đó. Những phụng hội ca ngợi ơn ”cứu trợ những người công giáo” thì rất nhiều. Tuy nhiên, tất cả các lễ Ðức Mẹ quy hướng về đỉnh cao là lễ Ðức Mẹ Lên Trời: Mẹ khải hoàn lên Trời trong huy hoàng oai nghi, giữa đông đảo Thiên Thần hân hoan hầu vệ Mẹ. Nữ Vương Thiên Ðàng đội mũ triều thiên mà giám mục thành Wurzbourg, Echter von Mespelbrunu đã tuyên phong là ”bà chủ lâu đài” của ông. Ðó là những hình ảnh rất được ưa chuộng trong thời baroque.
Bên cạnh Mẹ Thiên Chúa là đoàn lũ các thánh mà những hài cốt được giữ gìn cách trân trọng trong các tu viện và được giáo dân tôn kính với lòng tin tưởng cao độ, nhiều khi đi quá trớn mặc dầu có nhiều cảnh cáo của các cha trên tòa giảng. Người ta coi các Thánh như một triều đình của vua trên trời. Các ngài đã là chứng nhân dương thế của vua trên trời và từ nay các ngài lại dự lễ hiến sinh cực thánh trong những phòng khánh tiết rộng lớn, là những giáo đường kiểu baroque với vòm bán nguyệt lộng lẫy biệu thì muôn vàn vinh quang. Người ta chuyển rời cách trọng thể những hài cốt của các thánh trong các hang toại đạo. Người ta vận động thỉnh cầu ban các ân xá, người ta tổ chức những cuộc rước kiệu các Thánh tại các địa điểm hành hương, như ”cuộc quần ngựa máu” ở Weingarten, tại miền Bắc Souabe. Tất cả những sự việc đó kéo dài cho tới giữa thế kỷ XVIII.
Những phương pháp kích động tình cảm và gây cảm xúc cũng là những hình thức mộ đạo của tin lành Ðức thời ấy. Chúng ta không nên quên rằng thời kỳ đó cũng là thời kỳ nhạc kịch tôn giáo về lễ Giáng Sinh và kịch thương khó Chúa Giêsu theo thánh Mathêu của Jean Sébastien Bach, cũng như những kịch nhạc về Thánh Kinh của Georg Friedrich Handel, bộc lộ bao nhiêu tình cảm tôn giáo sâu xa với một âm hưởng vươn lên thật cao vời. Khoa thuyết giáo cũng tùy tiện dùng những phương pháp tương tự để đánh động lòng giáo dân. Ẩn sĩ dòng thánh Augustin, Abraham ở Sancta-Clara (Ulrich Magerle, 1644-1709) là nhà thuyết giáo baroque nổi danh nhất trong các lãnh thổ nói tiếng Ðức. Ở Vienne và Graz trong thời kỳ đại thiên tai, dịch tả hay trong lúc Thổ Nhĩ Kỳ đe dọa, nhà thuyết giáo của triều đình không nguyên chỉ dùng những lời an ủi suông, mà ông còn tha thiết khuyến khích giáo dân có lòng đạo đức thật sự và lòng sám hối chân thành. Khi Abraham giảng, người ta nhận thấy có sự hiện diện toàn thể triều đình Habsbourg, bắt đầu là hoàng đế Léopold I, các tổng trưởng triều đình và thần dân, cho đến những thành phần trung lưu và những nông dân lưu vong, những người thấp hèn và những giáo dân đạo đức. Ông trình bày các bài giảng như những bức tranh và với những câu chuyện đầy vẻ hài hước nhưng ông vẫn tự chủ trong lời nói khôn ngoan và một óc tưởng tượng rất phong phú. Ông nói rất thẳng thắn và không quan tâm đến địa vị xã hội của các thính giả. Tóm lại, đối với ông đó chỉ là những cái mồi để phụng sự cho sự thật vĩnh cửu mà chính ông là phát ngôn viên, ông không cắt xén gì hết và nói khảng khái không gì lay chuyển được. Theo phát biểu của một sử gia văn học, những tác phẩm của Abraham như: Merk's Wien (1679) và Auf, auf, Ur Christin (1683) (có nghĩa tương tự như: ”Hãy nhớ điều đó, Vienne” và ”Hãy đứng lên, hãy đứng lên, người kitô giáo”), là kiệt tác về văn xuôi baroque, nội dung cũng như hình thức” (17). Bên cạnh ông, một số đông các vị thuyết giáo dòng Phanxicô dùng ngôn ngữ của đám bình dân để chỉ dẫn những con đường cứu rỗi cụ thể và gợi ý, giới thiệu một Kitô giáo thực tiễn, không đòi hỏi quá đáng trong đời sống thường nhật, về nghề nghiệp của mỗi cá nhân và trong những khó khăn hàng ngày. Các ngài cũng biết nhiều vị thuốc tự nhiên chống nản chí như: uống một ly rượu, đi dạo mát hay chơi một bàn ky (quilles), chơi hay nghe âm nhạc và bài ca. Người khuyên dùng những môn thuốc này để chống lại sự nhàm chán là một người trở lại đạo tên là Prokop von Templin (+1686), tu sĩ dòng Phanxicô, gốc ở Marche de Brandebourg. Prokop giúp chúng ta hiểu được thi văn baroque. Là nhà thuyết giáo baroque, ông đã sáng tác 536 bài hát. Một người khác là cựu kịch sĩ ở Innsbruck và Vienne, tu sĩ dòng Phanxicô, tên là Laurentius von Schnifis. Tại miền Vorarlberg, với tác phẩm Mirantische Maienpfelf (1691), ông đã soạn những bài hát bình dân mà mấy bài đã dành được một chỗ ngồi trang trọng trong tuyển tập những bài hát bình dân nổi tiếng nhất và vẫn luôn được dân công giáo hát (18). Một lối thuyết giáo rất khác biệt đến từ Ý. Ðó là các bài giảng được trình bày theo lối câu chuyện, bóng gió và tìm cách dựa theo những nét thiêng liêng và nghệ thuật mà không quan tâm phê phán. Còn có lối thuyết giáo khác biệt nữa là lối cứng rắn mà trong vòng 27 năm, cha Dòng Tên người Ý là Paolo Segneri (1624-1694) đã xử dụng tại nước Ý vào dịp Mùa Chay. Những bài giảng loại này thường dài dòng, không muốn gây mộng tưởng như trong lối baroque mà chỉ mạnh mẽ thúc đẩy thính giả ăn năn trở lại và cải thiện thật sự. Các cha truyền giáo bình dân Dòng Tên tại Thụy Sĩ và miền Nam nước Ðức đã bắt chước phương thức rao giảng của cha Ségnéri.