ĐIỀU HÒA SINH SẢN KẾ HOẠCH HÓA GIA ĐÌNH NGỪA THAI
BS. TẠ THANH MINH
ĐIỀU HÒA SINH SẢN
KẾ HOẠCH HÓA
GIA ĐÌNH NGỪA THAI
Ba cách gọi tùy theo cách nhìn luân lý, chính quyền hay y khoa. Theo giáo huấn của Giáo Hội, đời sống sinh lý nam nữ chỉ có thể đạt đến đích thực và ý nghĩa trong hôn nhân nam nữ. Ngoài cứu cánh truyền sinh, tác động giao hợp giữa vợ chồng được công nhận là chính đáng vì “có mục đích biểu lộ và làm cho sự liên kết vợ chồng thêm bền chặt”.
Khái niệm về Cơ Thể và Sinh lý: (hình 1)
Từ lúc kinh nguyệt (les règles), là 4 ngày đầu của chu kỳ (cycle) 28 ngày, ở một trong hai buồng trứng non (ovule), được bao che trong một bọc (follicule). Chịu ảnh hưởng của kích tố Folliculine (Oestrogène), bọc lớn dần, rồi đến khoảng giữa chu kỳ tức khoảng 14 ngày và trứng: đó là thời kỳ trứng rụng (ovulation). Trứng di chuyễn vào vòi tử cung (une des 2 trompes), đến dần bên trong tử cung (utérus). Mỗi trứng sống tối đa 24 giờ.
Ở người nam, hằng triệu tinh trùng (spermatozoides) được liên tục phát sinh từ 2 dịch hoàn (testicules), rồi di chuyễn dần hồi theo kinh dẫn tinh vào tích trử ở 2 túi chứa, nằm phía sau bọng đái (vessie). Khi cơ quan sinh dục bị kích thích mãnh liệt, 2 túi chứa co thắt mạnh làm xuất tinh (éjaculation) vào ống tiểu. Mỗi lần xuất là vài cc tinh dịch, nhưng chứa trăm triệu tinh trùng. Tinh trùng chỉ sống khoảng 3 ngày.
Chỉ cần một tinh trùng xuyên nhập qua màng bọc vào được bên trong trứng là thụ thai (fécondation), và trứng đậu (oeuf fécondé) sẽ tụ ổ (nidation) ở bên trong tử cung, gọi là niêm mạc hay màng niêm (muqueuse utérine). Trứng đậu sẽ tăng trưởng dần, trở thành phôi thai (embryon), rồi bào thai (foetus).
Hầu hết những phương pháp điều hòa sinh sản đều được áp dụng cho người nữ. Xin lược kê 2 loại phương pháp: - tự nhiên, - và nhân tạo.
I. Phương pháp điều hòa sinh sản tự nhiên:
Được Giáo Hội chuẩn nhận và khuyến khích vì mang ý nghĩa tích cực:
- đòi hỏi nhiều cố gắng tìm hiểu để áp dụng đúng đắn,
- đòi hỏi sự cộng tác của đôi vợ chồng.
1. Theo Ogino-Knauss: Phương pháp dựa vào chu kinh nguyệt 28 ngày.
(Hình 2)
Nếu tính từ ngày đầu của kinh nguyệt, trứng rụng ở khoảng ngày 14 (từ 12 đến 15), có thể sớm hay trể hơn 4, 5 ngày. Do đó:
• Thời kỳ có thể thụ thai, từ ngày 9 đến 19;
• Và 2 thời kỳ không thụ thai, từ ngày 4 đến 8 và từ ngày 20 đến 28 (tức là đến ngày đầu của kinh kỳ sau).
2. Phương pháp Billings’ (John và Evelyn): Khám chất nhờn cổ tử cung (glaire cervicale).
Sau kỳ kinh, người nữ có thể tự quan sát hiện tượng bài tiết (sécrétion) chất dịch. Bên trong âm đạo và ở đầu mũi cổ tử cung (col utérin), trạng thái khô (3 hay 4 ngày) sẽ biến đổi dần hồi qua ẩm, rồi ướt (khoảng 4, 5 ngày). Đến ngày 13 hay 14, chất nhờn trở nên dẽo dính và đặc sệt là lúc trứng rụng (ovulation). Thật ra, trứng có thể rụng lúc chất nhờn còn ướt, lỏng và chảy (như nước). Đó là thời kỳ dễ thụ thai (ngày 11 đến 15).
Hiệu quả của phương pháp nầy tùy thuộc vào khả năng quan sát của vợ chồng: dưới 3% theo chỉ số Pearl.
Chỉ số Pearl là tỷ lệ “thất bại”, tỷ lệ mang thai tính trong một năm, ở 100 phụ nữ cùng dùng một phương pháp ngừa thai.
(Hình 3)
3. Phương pháp đo nhiệt độ (Van de Velde).
Nếu đo nhiệt độ mỗi ngày trong 3 chu kỳ liên tiếp,
- lúc sáng trước khi ra khỏi giường,
- ống thủy đặt ở hậu môn hay âm đạo (hiện nay dùng ThermoScan đặt vào lổ tai),
- ghi kết quả vào biểu đồ,
Thì có thể quan sát hiện tượng nhiệt độ gia tăng:
• từ mức thấp, 2/10 đến 5/10 dưới 37°, ở phần đầu của chu kỳ,
• vượt lên bằng hay trên 37°, khoảng 1/10 hay 2/10, ở phần sau của chu kỳ,
• ngày nhiệt độ tăng vượt 3/10 đến 5/10 độ trên 37° là ngày trứng rụng.
Khoảng thời gian có thể thụ thai: từ ngày 9 đến 17, tròn 3 ngày sau khi trứng rụng.
Hiệu quả: phương pháp rất chính xác để định lúc trứng rụng, nhưng đòi hỏi người nữ nhiều cố gắng.
4. Giao hợp gián đoạn (Coïtus interruptus):
Khi giao hợp, lúc người chồng cảm thấy sắp xuất tinh, phải vội rời vợ để tinh xuất bên ngoài. Phương pháp nầy hoàn toàn do trách nhiệm của người chồng để tránh thất bại.
Nếu kết hợp hai phương pháp 2 và 3 thì hiệu quả khá cao.
II. Phương pháp điều hòa sinh sản nhân tạo:
1 Bao cao su (Préservatif, condom):
Dùng từ 1872. Từ thập niên 1990, với sự xuất hiện của Tụ Chứng Liệt Kháng (SIDA, AIDS) và sự gia tăng của những sự bệnh truyền nhiểm đường sinh dục (MST, Maladies Sexuellement Transmissibles), nhiều chiến dịch thông tin và quản bá được các quốc gia cổ võ và khuyến khích xử dụng «trong mọi trường hợp, mọi nơi».
Phương pháp nầy khá hiệu nghiệm.
2. Màng cách cổ tử cung (cape cervicale, diaphragme féminin):
Rất ít được dùng vì khó xử dụng.
3. Bao cao su phụ nữ (Préservatif féminin):
Là một bọc mỏng bằng polyuréthane hay cao su (latex) dùng phủ che phiá trong âm đạo. Là phương cách rất hiệu lực ngăn ngừa những bịnh truyền nhiễm sinh dục.
4. Chất diệt tinh (Spermicides):
Là phương pháp ngừa thai âm đạo (contraception vaginale) dùng chất hóa học dưới nhiều dạng thức khác nhau như: kem (crème), thuốc viên âm đạo (ovule), hay mousse tan. Có nhiều hiệu như Pharmatex, Tarocap, Semicid, Genola…
Nếu dùng đúng cách, phương pháp nầy cũng khá hiệu nghiệm, mà còn ngừa chống một số bệnh nhiểm trùng sinh dục. Đòi hỏi thời gian chuẩn bị trước.
5. Vòng xoắn (Stérilet, Dispositif Intra-Utérin):
- được dùng từ thời Trung Cổ,
- phát triển từ thập niên 1960,
- có hơn 100 triệu phụ nữ trên thế giới xử dụng. Ở Pháp, khoảng 20% phụ nữ.
Vòng xoắn đặt bên trong tử cung (utérus) có tác dụng ngăn cản sự di chuyển của tinh trùng (spermatozoïde) và còn làm thay đổi môi trường màng niêm (muqueuse) tử cung, nên dù trứng có đậu (œuf fécondé) cũng khó tụ ổ (nidation) để phát triển.
Có nhiều loại và hình dạng khác nhau, nhưng tất cả đều bằng plastique (silicone) mà cơ thể dễ chấp nhận. Trục giữa hình viêm que (bâtonnet) và đầu dưới được cột 2 sợi nylon. Ngày nay, trục giữa còn được quấn thật nhiều vòng bởi một sợi dây đồng nhỏ (như bô-bin điện), có tác dụng làm giảm số lượng và sinh lực tinh trùng. Mẫu Progestasert có trục giữa còn chứa thêm chất kích tố Progestérone để tiết ra dần hồi trong khoảng 3 năm.
Hiệu quả của vòng xoắn: từ 0,5 đến 1% trong 2 đến 4 năm.
Đôi khi gây bất lợi: - kinh nhiều và kéo dài, - họa nhiểm trùng (risque d’infection), 3 đến 5%, - ở một số phụ nữ, bị tống đẩy (expulsion) ra ngoài vì cơ thể không chấp nhận, rất hiếm.
Trường hợp nhiễm trùng thường gặp khi phụ nữ có nhiều bạn tình (partenaires multiples). Hậu quả có thể gặp là hiếm muộn (stérilité) hay thụ thai ngoài tử cung (grossesse extra-utérine).
6. Thuốc viên ngừa thai (pilule contraceptive):
Năm 1956, Ông Pincus là người đầu tiên kết hợp 2 kích tố (hormones): Oestrogène và Progestérone trong một viên thuốc, mà tác dụng là:
- ngăn cản sự phát triển và chín mùi (maturité) của bọc trứng (follicule),
- ngăn trứng rụng (blocage de l’ovulation)
- biến chất nhờn cổ tử cung (glaire cervicle) thành một rào cản tinh trùng xâm nhập tử cung.
Ở Pháp, hơn 45% phụ nữ dùng thuốc viên và có khoảng 40 hiệu thuốc, chưa kể đến thuốc génériques. Mỗi hiệu thuốc thường có 21 viên, mỗi tối uống một viên theo thứ tự, viên 1 ngày đầu có kinh (1er jour des règles) trong 3 tuần liên tiếp, rồi ngưng 7 (đến 8, 9) ngày, chờ kinh kỳ sau.
Nếu lở quên một tối, sáng hôm sau uống lại viên thuốc quên, rồi tối đến uống tiếp tục.
Phương pháp nầy rất hiệu quả với chỉ số Pearl dưới 1%, nhưng đòi hỏi nhiều ràng buộc: thường xuyên khám nghiệm y khoa, cử thuốc lá, uống thuốc đều mỗi tối.
7. Thuốc dán da Evra patch.
Phương pháp hiện đại: thuốc dán (timbre hay patch) có chứa 2 kích tố, oestro-progestatif, được thả dần hồi xuyên qua da để vào cơ thể, mỗi liều thuốc có hiệu nghiệm một tuần lễ, tương tự như các loại dán da dùng cho phụ nữ đã dứt kinh (ménopause). Mỗi chu kỳ 28 ngày cần 3 liều thuốc cho 3 tuần đầu, tuần thứ 4 không dán thuốc, như thuốc viên ngừa thai.
8. Vòng âm đạo có liều kích tố (anneau vaginal avec oestroprogestatif).
Hiệu quả trong 3 tuần đầu của chu kỳ kinh nguyệt. Tuần thứ 4 không cần thiết. Chỉ cần một vòng mỗi tháng. Hai liều kích tố oetro-progestatif có lượng rất thấp. Tên thương mại: Nuvaring.
9. Thuốc cấy ngừa thai (Implant contraceptif): Implanon và Nexplanon
Là phương pháp hiện đại nhất dùng một que tẩm thuốc 2mm x 4cm (là kích tố progestatif đong lại), đặt dưới da cánh tay, sau khi gây tê tại chỗ (anesthésie locale). Thời gian hiệu quả khoảng 3 năm. Trước hạn kỳ, lại gây tê, rọc một đường nhỏ ngoài da để rút que cấy ra.
Trên lý thuyết, hiệu quả của phương pháp cao hơn so với thuốc viên, có chỉ số Pearl 0%. Cần tuân giữ những ràng buộc như thuốc viên.
10. Dispositif Essure:
Phương pháp tiệt sản (stérilisation) hay ngừa thai vĩnh viễn: Dùng một loại “rờ so” đặt vào 2 vòi tử cung bằng đường tự nhiên (ống soi fibroscope).
* * *
Một vài con số thống kê
RÉSUMÉ:
RÉGULATION DE NAISSANCES – PLANNING FAMILIAL - CONTRAXEPTION
Trois dénominations différentes selon le point de vue moral, officiel ou médical. Suivant l’enseignement de l’Eglise, la vie sexuelle du couple ne peut atteindre la vérité et n’a de signification que dans le mariage entre l’homme et la femme. En dehors du but de procréation, l’acte sexuel entre mari et femme est reconnu comme juste, car «il pour but d’exprimer et de renforcer le lien marital».
Quelques Notions d’Anatomie:
Pour un cycle menstruel de 28 jours, dans l’un des 2 ovaires de la femme, un ovule se développe dans une enveloppe, le follicule. Sous stimulation d’une hormone, la Folliculine (Œstrogène), le follicule grossit progressivement pour atteindre la maturité, vers le 14e jour du cycle, et se rompt. L’ovule est libéré du follicule et de l’ovaire. C’est l’ovulation. L’ovule migre dans l’une des 2 trompes vers l’intérieur de l’utérus, à la rencontre éventuelle des spermatozoïdes du mari dont un seul arrive à le féconder. Ainsi l’oeuf fécondé, se fixe à la muqueuse de l’utérus (nidation) et se développe progressivement pour donner naissance à l’embryon qui continue à grandir pour devenir un fœtus.
La majorité des méthodes de régulation, concerne la femme.
I. Les méthodes naturelles de régulation de naissance: acceptées et encouragées par l’Eglise, car exigeant une implication active et une compréhension mutuelle de la femme et du mari.
1/ La méthode Ogino-Knauss.
2/ La méthode Billings’ (John và Evelyn): examen des glaires cervicales. Indice de Pearl à 3%.
3/ La méthode de la prise de température (Van de Velde): sur 3 cycles menstruels successifs pour déterminer la date exacte de l’ovulation.
4/ Le coïtus interruptus.
II. Les méthodes artificielles de régulation de naissance:
1/ Le préservatif (condom).
2/ La cape cervicale (diaphragme féminin).
3/ Le préservatif féminin.
4/ Les spermicides.
5/ Les stérilets (Dispositifs Intra-Utérins): connus depuis l’Antiquité, plus de 100 millions d’utilisatrices dans le monde, moins de 20% en France. Posés à l’intérieur de l’utérus, les stérilets, de formes très variables, présentent tous un bâtonnet central et vertical, noué en bas par 2 fils de nylon (présence et retrait). Le bâtonnet central est souvent enroulé d’un microfil de cuivre dont l’action diminue le nombre et la vitalité des spermatozoïdes.
6/ La pilule contraceptive, inventée par Pincus en 1956, associant 2 hormones, un œstrogène et un progestatif dans un même comprimé - pour bloquer le développement et la maturité du follicule, et aussi l’ovulation - et pour transformer les glaires cervicales en une barrière empêchant l’entrée des spermatozoïdes dans l’utérus. Avec 45% d’utilisatrices en France, plus de 40 médicaments, suivant l’ancienneté, groupés, en 1ère, 2e, 3e et 4e génération. Chaque plaquette de médicament comprend 21 ‘pilules’ (ou 28 = 21 + 7 placebos).
7/ Evra patch: Timbre à coller contenant les 2 hormones oestrogène et progestatif dont les doses trancutanées se libèrent dans le sang progressivement pendant 7 jours. Par cycle, il faut 3 timbres.
8/ Anneau vaginal avec oestroprogestatif (Nuvaring). Un anneau par cycle.
9/ Implant contraceptif (Implanon et Nexplanon): Cest un bâtonnet 2mm x 4cm à implanter, par anesthésie locale, sous la peau du bras et qui libère en continu un progestatif qui inhibe l’ovulation. La durée d’utilisation est de 3 ans. Indice de Pearl: 0%.
10/ Dispositif Essure: Aspect d’un ressort, à implanter dans les 2 trompes. Plutôt méthode de stérilisation.
SƠ ĐỒ - SCHÉMAS