Ðêm ánh sáng huy hoàng
Michel Phạm Mỹ
Trời đang giữa mùa đông giá lạnh. Cành lá trơ trụi đứng chơ vơ. Gió lạnh từng cơn giữa khung trời hoang dã. Đường xá không người qua lại. Ai nấy đều ở trong nhà quây quần tìm hơi ấm.
1. Hành trình về Bethléem (x. Lc 2, 1-7)
Trên đường về Bethléem, có hai người lững thững từng bước bên cạnh vết chân lạc đà. Giuse đã đính hôn với Maria đang mang thai bởi Chúa Thánh Thần. Cả hai tuy là ‘‘vô danh tiểu tốt’’ nhưng lại thuộc giòng giống David. Theo lệnh vua Auguste, đêm nay hai Ông Bà bắt buộc trở về nguyên quán để kiểm tra dân số.
Đường từ Nazareth, miền Galilée đến Bethléem dài 150 cây số. Nếu tính theo bước đi chậm chạp của lạc đà, thì cuộc hành trình phải kéo dài mất 4, 5 ngày đàng.
Rời Nazareth xuôi về cánh đồng Jérusalem. Vùng đất lịch sử. Rồi đến Jezreel, băng qua Samarie mới bước vào Judée, núi đồi khô cạn...Thành Thánh xuất hiện. Trong vui mừng, Ông Bà an ủi và dâng lờI cảm tạ :
Ai sẽ lên núi Chúa
Ai được ở trong đền thánh của Người
Đó là kẻ tay sạch lòng thanh
Chẳng mê theo ngẫu tượng,
không thề gian thề dối. (Tv 24, 3-4)
Cuộc hành trình tốt đẹp, nhưng nhiều gian lao mệt nhọc và đầy lo âu. Từng đoàn người đổ xô về kính viếng Thành Thánh trước khi về quê khai sổ nhân danh. Bethléem cách Jérusalem có 8 cây số về phía Nam. Một thị trấn nhỏ nằm ngang trên 2 ngọn đồi song song, cao 800 mét, bao quanh bởi những vườn Olive và cây ăn trái. Vì thế, Bethléem cũng mang tên Éphrata, có nghĩa là ‘‘xứ trái cây’’, hay Bethléem còn có nghĩa là ‘‘ngôi nhà bánh’’.
Bước vào thị trấn, Maria và Giuse nhớ lời ngôn sứ Mikha :
Hỡi Bethléem, đất Ephrata, ngươi không bé nhỏ hơn các thành trì Juda, vì từ nơi ngươi, Ta sẽ cho xuất hiện một Đấng có sứ mệnh thống trị Israel (Mi 5,1).
Giuse cảm thấy trách nhiệm lớn lao. Đi tìm chỗ trọ.Thị trấn chen chúc đầy người đổ về. Tại những nơi công cộng, có những chiếc lều lộ thiên cho người ngả lưng, nghỉ ngơi sau hành trình dài.
Những giếng nước cho người và vật dùng chung. Bãi trống và sân cỏ cột đầy súc vật, trên lưng toàn là những kiện hàng nặng nề. Tuyệt nhiên hàng quà hết sạch, không còn gì cung cấp cho khách thập phương. Tất cả biến thị trấn trở thảnh nhộn nhịp, náo nhiệt tưng bừng chưa bao giờ có. Trẻ em tung tăng, lần đầu tiên đến nơi đô hội. Phụ nữ mệt mỏi tìm nơi nghỉ ngơi cho lại sức. Tiếng người thăm hỏi, lo lắng băn khoăn, tìm đường về làng quê quán cũ. Bị từ chối hết chỗ nơi quán trọ, hai Ông Bà đành phải tìm đường khác.
2. Đêm nay rực rỡ ánh sao huy hòang
Giuse quen với địa thế Bethléem. Dưới chân đồi có nhiều động đá. Nơi mục đồng thường dừng chân nghỉ ngơi qua đêm, hoặc tránh gió mưa bão táp...Ít ra, đây cũng là nơi gia đình và Maria chuẩn bị bầu khi linh thiêng đón Chúa Hài Nhi.
Đêm lịch sử của con người đã đến.
Thánh sử Luca viết : Đang khi hai Ông Bà ở đó, thì Bà Maria đã tới thời mãn nguyệt khai hoa. Bà sinh con trai đầu lòng, lấy tã bọc con, rồi đặt nằm trong máng cỏ. Vì hai Ông Bà không tìm được chỗ trong nhà trọ. Lc 2, 7-8)
Sinh con đầu lòng là diễm phúc. Mẹ ẫm con vào lòng. Tự tay lấy khăn bọc con và đặt nằm trong máng cỏ. Tả sao cho hết vui mừng sung sướng khi người mẹ nâng niu ẵm bồng con Vua Trời. Mẹ cưu mang con trong nhiệm lạ, thì đêm nay sinh ra con không tổn thương khiết trinh. Ôi, nhiệm mầu kỳ diệu.
Ông bà qùi gối thờ lạy. Vì đây là con Thiên Chúa xuống thế làm người. Tiếng khóc chào đời của con là lời chúc bình an hạnh phúc cho muôn dân. Nỗi vui mừng của Cha Mẹ là đón nhận hồng ân tràn đầy. Đây đâu phải con mình, mà là người của đất trời, vua nhân loại.
Mà thực, đêm nay Bethléem trừ tịch tăm tối, trở nên huy hoàng đầy ánh sao. Vang vang lời chúc bình an hòa bình cho muôn người.
Vinh danh Thiên Chúa trên trời,
Bình an dưới thế cho người lòng ngay.
Đêm nay Thiên Chúa đến với con người. Loài người không đến với Thiên Chúa dược, thì Ngài đến và cùng sống với họ. Sách Khôn Ngoan viết : Khi vạn vật chìm sâu trong thinh lặng, lúc đêm trường chừng như điểm canh ba. Thì từ trời cao thẳm, thì này đây : Lời quyền năng của Thiên Chúa đã rời khỏi ngai báu, ví tựa người chiến sỹ can trường, xông vào miền đất bị tru diệt... (Kn 18,14-15).
Từ đây, thông điệp vui mừng và hy vọng được tiên tri Isaia diễn tả :
Dân đang lần bước giữa tối tăm
đã thấy một ánh sáng huy hoàng.
Đám người sống trong vùng bóng tối,
được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. (Is 9,1)
Vua hòa bình đến với muôn dân :
Vì một trẻ thơ đã chào đời để cứu ta
Một người con đã được ban tặng cho ta
Người gánh vác quyền bính trên vai
Danh hiệu Người Cố Vấn kỳ diệu,
Thần Linh dũng mãnh,
Người Cha muôn thuở, Thủ lãnh hòa bình.
(Is 9,5)
3. Tin Mừng được loan báo và đón nhận (x. Lc 2, 8-20)
Khác với mọi đêm, những người chăn chiên đang sống giữa đồng chăm lo cho đoàn vật, bỗng lo sợ vì thấy sứ thần Thiên Chúa hiện đến ngay bên, và loan báo : Chúa Giêsu Cứu Độ đã sinh ra. Họ vội vã đến, và thờ lạy, dâng tặng những gì họ có. Họ vui sướng cùng đoàn ‘‘thiên binh’’ hát múa chào mừng Hài Nhi. Họ là những người đầu tiên được loan báo. Họ hồn nhiên, mau mắn chạy đến để tôn kính Chúa Hài Đồng.
Nhìn ngắm Chúa Hài Đồng xong, các mục đồng trở ra loan báo cho bạn bè xa gần đến tôn kính Chúa Hài Đồng. Nhớ lại lời Cựu Ước loan báo, họ tin tưởng vào tương lai, vào cuộc sống ngày mai. Niềm vui chan chứa trong lòng.
4. Hồng Ân của đêm Ánh Sáng
Đêm nay, chúng ta cùng nhau đến và qùi trước hang đá máng cỏ để suy mầu nhiệm Giáng Sinh và hãy mở tâm hồn ra, đốt lên ngọn lửa yêu mến nồng nàn, như xưa thánh Phanxico Assisi chạy ra đường phố hô to : ‘‘Hãy yêu mến Chúa Hài Đồng’’. Từ hang đá thô sơ, Chúa Hài Đồng sẽ cậy nhờ, và biến chúng ta thành những tông đồ của các trẻ nhỏ.
Thánh Têrêsa Hài Đồng đã viết trong Tự Thuật về hồng ân Chị được trong đêm thứ sáu 24 rạng lễ Giáng Sinh 25-12-1886, như sau :
Một ngày không thể quên. Chính trong đêm Ánh Sáng chói lọi những hồng ân của Ba Ngôi Cực Thánh này, Chúa Giêsu thơ ấu dịu hiền đã biến đêm tối của hồn con thành luồng ánh sáng. Trong đêm đó, Ngài hóa thân yếu hèn và đau khổ vì thương yêu con để làm cho con trở nên mạnh mẽ và can trường. Ngài đã võ trang cho con bằng võ khí của Ngài. Từ đêm diễm phúc ấy, con không thất bại trong cuộc giao chiến nào. Trái lại, con luôn bước đi trong hết chiến thắng này tới chiến thăng khác. Có thể nói,con đã bắt đầu đi cái bước của người khổng lồ (x.TV 18, 5). Dòng lệ con đã cạn khô đến nỗi rất khó và họa huần con mới khóc. Thực đúng như lời đã nói cho con : Vì trong thời thơ ấu con đã khóc quá nhiều, nên về sau con không còn nước mắt mà khóc nữa.
Chính trong đêm 25-12-1886, con lãnh nhận hồng ân thoát ly tuổi trẻ, đúng ra ơn trở lại hoàn toàn. Trong Thánh Lễ, con diễm phúc rước Chúa toàn năng... Con càng thêm sung sướng hơn nữa. Vì Chúa Giêsu muốn tỏ cho con biết phải thoát ly khỏi mọi khuyết điểm của tuổi trẻ, nên Ngài đã đưa con ra khỏi những thú vui ngây thơ. (Thủ Bản Tự Thuật, Hương Việt. 1997, tr. 99-100)
Thầy Michel Văn (1928-1959) đã bắt chước Thánh Têrêsa yêu mến Chúa Hài Đồng. Và được Chúa rất qúi mến và trao cho trách nhiệm ‘‘làm tông đồ nơi trẻ em’’. Xin đọc lại mẩu đối thoại giữa Chúa Hài Đồng và Micel Văn :
Văn, Anh rất thương em. Hãy biết rằng Anh đặc biệt yêu mến trẻ em. Nếu chúng muốn kiếm Anh thật dễ dàng. Chúng chỉ cần nghiệm xét hành động của chúng, và chúng sẽ tìm thấy Anh trong người của chúng. Anh hứa Nước Trời cho trẻ em, và chúng chẳng phải làm khác ngoài việc tiếp nhận Nước Trờì.
Văn, em phải làm việc tông đồ của em trong đám trẻ. Anh muốn em đưa chúng đến với Anh. Anh yêu thương chúng quá đi. Khi chúng chơi banh, tập bơi lội, nô đùa với nhau, luôn luôn có Anh giữa chúng.
Em Văn ạ ! Tất cả nơi trẻ em đều làm Anh thích thú. Một lời nói, một nụ cười mà ngay cả một giọt nước mắt buồn phiền, tất cả mọi thứ ấy làm động lòng Anh. (Tình Yêu Không Thể Chết.1990, tr. 216)
Xin cho điệp khúc ‘‘vinh danh Thiên Chúa’’ được chiếu rọi vào từng tâm hồn mỗi người, đồng thời vang vọng xa hơn đến những nơi đang mong chờ hòa bình, và cần yêu thương. Như trong thông điệp ‘‘Thiên Chúa là tình yêu’’ ĐGH Benedictô viết : Lòng yêu mến tha nhân là con đường gặp gỡ Thiên Chúa’’(16). Chính vì thế, ĐTC đã chọn đề tài ngày hỏa bình lần thứ 40 năm nay (1-1-2007) là : Con người : trung tâm hòa bình’’
Michel Phạm Mỹ