THƠ TIN CẬY MẾN CỦA HÀN MẶC TỬ - Phần 2
Lê Đình Thông
III - ĐỨC CẬY TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ :
3.1. Tổng quan về đức cậy : Trong văn bộ thánh Phaolô, từ ngữ elpis có ý nghĩa tương đồng với cậy trông trong sách Bảy mươi (Septante) của Cựu ước. Nói chung, đức cậy (espérance) là đợi chờ ngày mai, được gặp gỡ, kết hiệp cùng Thiên Chúa và Chúa Kitô phục sinh : ‘‘Chúng ta đã được cứu độ, nhưng vẫn còn phải trông mong. Thấy được điều mình trông mong thì không còn là trông mong nữa’’. (Rm 8,24) Niềm hy vọng vào cuộc sống trường sinh còn là cậy trông đổi mới, mong ước trường sinh.
3.2. Đức cậy trong văn xuôi Hàn Mặc Tử :
Ca đoàn Giáo Xứ hợp xướng Ave Maria, Đà Lạt Trăng Mờ
(thơ : Hàn Mặc Tử. Nhạc & hòa âm : Hải Linh)
Khi đưa ra ‘‘Quan niệm thơ’’, Hàn Mặc Tử bày tỏ niềm cậy trông vào Thiên Chúa : ‘‘Thi sĩ chỉ có thể trút hết hận tình với Đức Chúa Trời, kể lể hết niềm đau thương với Người, dâng cho Người những bài thơ sáng láng anh hoa, thế mới là mãn nguyện. Vì Đức Chúa Trời đã tạo ra thơ ở thế gian này, nhưng thi sĩ là người khát khao vô tận, cứ nhất định muốn hưởng cái thơ trên cái thơ khác nữa. Chỉ có Đức Chúa Trời mới làm vừa lòng thi sĩ’’. (21) ; vì nhà thơ ‘‘phải lấy Đức Chúa Trời làm chân lý, làm tiêu chuẩn cho văn thơ. Văn thơ không phải bởi không mà có’’.(22)
Quan niệm thơ của Hàn Mặc Tử khác biệt với Huy Cận :
Hỡi Thượng đế, tôi cúi đầu trả lại
Linh hồn tôi là một kiếp đi hoang
hoặc Chế Lan Viên :
với tôi tất cả đều vô nghĩa.
3.3. Đức cậy trong thơ Hàn Mặc Tử :
Niềm trông cậy của Hàn Mặc Tử được diễn tả tượng trưng qua vầng trăng. Trong tiếng Pháp, thuật từ ‘‘khuynh hướng tượng trưng’’ (symbolisme) do tiếng latinh symbolictum (symbole de foi). Hàn Mặc Tử viết nhiều về trăng. Trăng giãi sáng văn thơ của Hàn : văn xuôi có Chơi giữa mùa trăng ; văn vần có nhiều bài, từ Uống trăng, Sáng trăng, Ngủ với trăng, Một miệng trăng, Say trăng, Rượt trăng, Trăng vàng trăng ngọc, Vầng trăng ; đến Trăng mờ Đà Lạt.
Hàn Mặc Tử yêu trăng cũng là dễ hiểu, vì nhà thơ ‘‘yêu chuộng Mẹ Từ Bi’’ là Đấng ‘‘đẹp như mặt trăng’’. Trăng có trong Cựu ước và Tân ước. Sách Diễm ca (còn gọi là Nhã ca) chép rằng :
‘‘Kìa Bà nào đang tiến lên như rạng đông,
đẹp như mặt trăng, rực rỡ như mặt trời,
uy hùng như đạo binh xếp hàng vào trận.’’ (Dc 6,10)
Theo Thánh vịnh, ‘‘Chúa đặt vầng trăng để đo thời tiết. Fecit lunam in tempora’’ (Tv 104,19). Vì Thiên Chúa đã phán: ‘‘Phải có những vầng sáng trên vầng trời để phân rẽ ngày với đêm.’’ (St 1,14)
Trong Tân ước, ba Phúc âm nhất lãm (Mt 27,45 ; Mc 23,44 ; Lc 23,44) cũng như Phúc âm theo thánh Gioan (Ga 19,28) đều thuật lại việc Đức Giêsu chịu chết và sống lại. Theo niên lịch phụng vụ, lễ Phục sinh được định vào chủ nhật thứ nhất tiếp theo vầng trăng tròn phục sinh (pleine lune pascale), để tưởng niệm việc Đức Kitô chịu chết vào ngày thứ sáu 7 tháng 4 năm 30.
Năm 1983, tạp chí khoa học Nature công bố công trình nghiên cứu của hai nhà vật lý thiên văn C.J. Humphreys và W.G. Waddington của Đại học Oxford, dựa trên sách Công vụ Tông đồ : ‘‘Mặt trời sẽ trở nên tối tăm, mặt trăng hóa thành máu, trước khi ngày của Chúa đến’’. (Cv 2,20). Màu đỏ được giải thích bằng việc ánh sáng lướt qua trên bầu khí quyển, hấp thụ cụm mây xanh. Từ năm 26 đến 36, hiện tượng nguyệt thực quan sát được ở Jérusalem nhằm ngày 3 tháng 4 năm 33, ngày Đức Kitô chịu chết.
Trong tập Gái quê, Hàn sáng tác 7 bài thơ nói về trăng. Qua tập Đau thương là 17 bài thơ trăng. Hành trình trăng của Hàn Mặc Tử cũng là hành trình thơ. Bài thơ cuối đời nói đến cái chết của nhà thơ là trăng tròn thụ nạn :
Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương, anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm.
Trong số các thi phẩm của Hàn Mặc Tử, Đà Lạt Trăng mờ là thơ trăng toàn bích, nói lên niềm cậy trông của thi nhân trong phút thiêng liêng vừa hé mở :
Đà Lạt Trăng Mờ
Đây phút thiêng liêng đã khởi đầu.
Trời mơ trong cảnh thực huyền mơ
Trăng sao đắm đuối trong sương nhạt
Như đón từ xa một ý thơ.
Ai hãy làm thinh chớ nói nhiều
Để nghe dưới đáy nước hồ reo
Để nghe tơ liễu run trong gió
Và để xem trời giải nghĩa yêu.
Hàng thông lấp loáng đứng trong im
Cành lá in như đã lặng chìm
Hư thực làm sao phân biệt được
Sông Ngân Hà nổi giữa màn đêm.
Cả trời say nhuộm một màu trăng
Và cả lòng tôi chẳng nói rằng
Không một tiếng gì nghe động chạm,
Dẫu là tiếng vỡ của sao băng.
Trong tập hồi ký ‘‘Đôi nét về Hàn Mặc Tử’’, nhà thơ Quách Tấn kể lại rằng :
* mùa xuân năm 1933, nhân được nghỉ phép, Hàn Mặc Tử cùng gia đình bà Bùi Xuân Lang lên Đà Lạt thăm tôi (tr. 16).
* Dạo cảnh Đà Lạt lúc ban đêm cũng là một kỳ thú. Những con đường quanh co, khi lên cao, khi xuống thấp, nhiều khi đường chồng lên nhau. (tr.26)
* Đến bờ hồ, nhìn xuống mặt nước, chúng tôi mới nhớ là đêm trăng. Mặt hồ lóng lánh. Và vầng trăng dưới nước trông trong sáng gấp mấy lần vầng trăng ở trên mây. Tử nói:
- Cứ xem bóng trăng cũng biết nước hồ Đà Lạt trong đến ngần nào.
Tôi tiếp:
- Theo tôi, chỉ có nước hồ Đà Lạt và nước sông Hương mới đáng gọi là nước. Nước ở các sông các hồ, dù trong đến đâu, sâu đến đâu, sắc xanh cũng có phần lợt lạt. Duy có nước hồ Đà Lạt và nước sông Hương là đượm đà màu nước biển.
Từ trầm ngâm hồi lâu rồi nói:
- Không có cảnh thì khó có thơ, mà đứng trước cảnh đẹp quá, thơ nghĩ cũng không ra được. (tr.27)
* Chúng tôi đương nói chuyện thì dường như có một luồng ánh sáng từ trong hồ bay ra và thoáng nhẹ ở trước mắt. Chúng tôi chú mục: một đám sương lớn bằng một chiếc chiếu chõng, nổi lềnh bềnh trên mặt hồ. Sương mỗi lúc mỗi vun cao và lan rộng, phản chiếu ánh trăng sáng hụt cả bốn bên.
Chúng tôi có cảm giác là trời đất đã tan thành thủy tinh và chúng tôi đương đứng lơ lửng giữa hư vô. Tôi nói khẽ cùng Tử :
- Mình đương chìm vào mộng, hay mộng đương lắng vào mình ?
- Hư thực, phân biệt làm sao được ! Nhưng chớ nói nhiều… Hãy lắng nghe… Dường như có tiếng thì thầm từ đáy hồ vọng đến. Tôi không mơ đâu nhé ! Hãy lắng nghe…
Rồi sương tan dần, và dần dần mặt trăng trở lại. Tử nói :
- Cảnh thật huyền mơ ! Tiếng lòng lẫn cùng tiếng tạo vật. Con người hòa hẳn vào thiên nhiên.
Và tuy Tử sống với Đà Lạt không được nhiều ngày, song vẻ đẹp huyền diệu của non sông ảnh hưởng vào thơ Tử sau này không ít. Tử có bài Đà Lạt Trăng Mờ. (tr.28-30) (23)
Học giả Thái Văn Kiểm chuyển ngữ Đà Lạt Trăng Mờ là ‘‘Đà Lạt, sous la lune diaphane’’(24). Trong La pureté de l’âme, Hàn Mặc Tử cũng dùng chữ (lumière) diaphane. Dịch giả Hélènr Péras và Vũ Thị Bích dịch la Lune voilée à Dalat(25).
Mỗi bài thơ trăng của Hàn là một khắc khoải, đợi trông. Trong bài Chơi giữa mùa trăng, thi nhân viết :
‘‘Tôi bỗng thấy chị tôi có vẻ thanh thoát quá, tinh khôi, tươi tốt và oai nghi như pho tượng Đức Bà Maria là Đấng tinh tuyền chí thánh. Tôi muốn sốt sắng, quỳ lạy mong ơn bào chữa.’’
Phần kết luận đoản văn Chơi giữa mùa trăng nói lên niềm trông cậy, đợi chờ :
‘‘ - Không không, chị ơi, rồi ánh sáng đêm nay sẽ tan đi, ta sẽ buồn thương và nhớ tiếc. Em muốn bay thẳng lên trời để tìm ánh sáng muôn năm thôi’’.(26)
Hàn Mặc Tử còn viết đoản văn Ra đời, Nhà thơ gom ánh nguyệt trong bản sonate ‘‘Ánh Trăng’’ (Clair de lune), sáng soi từng thi tứ :
‘‘Cho mau lên dồn ánh nguyệt vào đây
Lời thơ ta sẽ sáng trưng như thất bảo.’’
Đối với nhà thơ, vầng trăng tin cậy mến linh thiêng, cao giá :
Lạy Chúa tôi, vầng trăng cao giá lắm
Xin ban ơn bằng cách sáng thêm lên
Ánh thêm lên cho không gian rất đẫm
Linh hồn thơ mát rợn với hương nguyền.
Đức tin và niềm trông cậy chắp cánh càng khiến thơ Hàn Mặc Tử thăng hoa với lòng mến Chúa, yêu người tha thiết.
IV - ĐỨC MẾN TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ :
4.1. Tổng quan về đức mến :
Trong cổ ngữ Hy lạp, άγάπη (agapè - đức mến) do động từ άγαπάω (agapáô) có nghĩa là tiếp rước với tình bằng hữu, xử sự với lòng cảm mến. Trong sách Septante, agapè diễn tả tình yêu Thiên Chúa đối với loài người (Đnl 4,37), của loài người đối với Thiên Chúa (Xh 20,6). tình yêu lứa đôi (St 24,67), tình phụ tử (St 22,2), tình đồng loại, nghĩa đồng bào (Lv 19,18-34).
Theo thánh Phaolô :
* ‘‘Ðức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ðức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả’’. (1 Cr 13,4-7).
* ‘‘Hiện nay, đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến’’. (1 Cr 13,13)
Đức mến có ý nghĩa rộng hơn tình bạn. Vì đức mến là yêu mến mọi người, cho dù thân phận có khác nhau. Thánh Phaolô dùng chữ agapè nói đến tình yêu mọi người, tứ hải giai huynh đệ.
Thánh nhân sử dụng định từ ἀγαπητός (agapētos :yêu dấu) để chỉ định các tín hữu (Rm 1,7), động từ αγαπάω (agapao: yêu) để nhắc nhở người tín hữu đều được Chúa yêu thương (Rm 8,37). Đức mến là chung của cộng đoàn (1 Th 4,9) nhưng còn là riêng tư của mỗi người (1 Co 14,1). Sự phân biệt giữa chung và riêng của tình yêu cho phép ta tìm hiểu đức mến trong thơ Hàn Mặc Tử trong tình cảm riêng tư.
4.2. Đức mến trong văn xuôi Hàn Mặc Tử :
Hàn Mặc Tử đã bày tỏ quan niệm về đức mến bàng bạc khắp các sáng tác. Sau đây là một số trích đoạn tiêu biểu :
4.2.2. Apagè : ‘‘Thấy người đói rách thì thương, Rách thường cho mặc đói thường cho ăn’’ (Nguyễn Trãi):
Nguyễn Bá Tín thuật lại vài mẩu chuyện về lòng bác ái của Hàn Mặc Tử :
* ‘‘Anh không hề hờn giận ai, rất dễ quên, những gì anh đã làm thiệt hại cho người khác, và ngược lại cũng không nhớ ai đã làm gì thiệt hại cho anh’’.
* ‘‘Nghe nói, hồi ở Saigon, anh tự xem như có bổn phận lo lắng cho tất cả như triết gia Mặc Địch thời Chiến quốc chủ trương thuyết Kiêm Ái. Anh nói : Tụi nó đói nhăn răng ra mà để dành tiền làm chi’’.
* ‘‘Mẹ tôi thì quán xuyến hơn, thỉnh thoảng lưu ý đến áo quần anh, bà cho tôi biết có nhiều bộ đồ mới biến đâu mất, kể cả bộ đồ nỉ nâu, anh thừa hưởng của anh Mộng Châu để lại. Tôi hỏi Bùi Tuân, hắn hời hợt :’’Có lẽ để giúp một vài người bạn vừa đi tù về’’.(27)
Câu nói : ‘‘Có lẽ để giúp một vài người bạn vừa đi tù về’’ chứng tỏ Hàn Mặc Tử đã làm theo lời Chúa dạy : ‘‘Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc, hãy đến thừa hưởng Vương quốc dọn sẵn cho các ngươi ngay từ thuở tạo thiên lập địa. Vì xưa ta đói, các người đã cho ăn ; Ta khát, các người đã cho uống, Ta là khách lạ, các người đã tiếp rước ; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc ; Ta đau yếu, các người đã thăm viếng ; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han’.’ (Mt 25,34-36).
Hàn Mặc Tử ‘‘không hề hờn giận ai, rất dễ quên những gì anh đã làm thiệt hại cho người khác, và ngược lại cũng không nhớ ai đã làm gì thiệt hại cho anh’’, làm được bấy nhiêu là Hàn đã thực hiện bài ca đức mến của thánh Phaolô : ‘‘Ðức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Ðức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, chịu đựng tất cả’’. (1 Cr 13,4-7).
Thi nhân còn thể hiện đức mến theo nghĩa hẹp (stricto sensu), nghĩa là tình yêu lứa đôi.
4.2.2. Apagè : ‘‘Trăm năm vẫn một lòng yêu, Và còn yêu nữa rất nhiều em ơi’’ (Hàn Mặc Tử) :
* ‘‘Lòng ta hừng hực mỗi khi nắng hanh lên. Ấy là dấu hiệu mùa thơ đã chín. Gặt hái cho mau, kẻo ngọn thơ càng cao, người thơ càng điên dại. Nàng ơi, hãy mượn lưỡi liềm của trăng non mà hái, xin đừng dẫm lên bờ lòng ta.
* ‘‘Một đêm say rượu nhớ Nàng Khách đã khóc sưng vù đôi mắt, và từng giọt lệ đã vô tình nhỏ vào ly rượu ; có ai ngờ nhớ khách đến cuồng tâm dại trí nhúng cả mảnh hình Nàng trong rượu rồi mê man, vừa uống vào lòng cả rượu, cả nước mắt và cả bóng dáng xinh tươi của Nàng !’’(28)
* ‘‘Tôi say tình cũng như tôi say trăng, say người thục nữ, say kinh cầu nguyện, say trời tương tư. Tình không những châu lưu trong khí huyết hồn tôi, tình còn lưu lộ ra làn da nong nóng, hồng đào như trứng gà so. Tình còn trút ra ở đầu mày, cuối mắt, đằng môi. Và thiết tha chưa, lời nói bằng hơi thôi đã bối rối vì mê…’’ (29)
* ‘‘Tôi đã sống mãnh liệt và đầy đủ. Sống bằng tim, bằng phổi, bằng máu, bằng lệ, bằng hồn ; Tôi đã phát triển hết cả cảm giác của tình yêu. Tôi đã vui, buồn, giận, hờn đến gần đứt sự sống’’.(30)
4.3. Đức mến trong thơ Hàn Mặc Tử :
Trong Hàn Mặc Tử anh tôi, tác giả đã thuật lại mối tình lặng lẽ của Hàn với một thiếu nữ Huế, nhà ở thôn Vĩ Dạ :
‘‘Năm 1936, anh về hội chợ Huế, gặp chị Kim Cúc mà cả hai đều rụt rè e thẹn. Anh Trí mang sách Gái Quê tặng các em chị, nhưng lại không dám trao cho chị. Chị Cúc kể lại và ân hận về thái độ rụt rè đó : ‘‘Càng tội nghiệp hơn là hôm sau anh xuống Vĩ Dạ đứng trước cổng hồi lâu rồi lặng lẽ bỏ đi’’. Cho đến khi anh đau nặng hồi 1939, chị Cúc còn gởi cho anh một phiến ảnh cỡ 6x9. Chị mặc áo dài lụa trắng như những cô gái Huế thời bấy giờ đứng trong vòm cây xanh mát. Anh làm ngay bài ‘‘Đây Thôn Vĩ Dạ’’.(31)
Giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh kể lại rằng thân phụ Hoàng Thị Kim Cúc là chánh sở Đạc điền ở Qui Nhơn. Khi Hàn Mặc Tử vào Saigon làm báo, Kim Cúc theo gia đình về thôn Vĩ Dạ.
Theo Nguyễn Bá Tín, ‘‘năm 1939, Hoàng Cúc nhận được hung tin nói trên từ Hoàng Tùng Ngâm. Nàng chuẩn bị một số tiền định gửi cho Hàn Mặc Tử uống thuốc nhưng không dám gửi. Nàng bèn gửi cho Hàn Mặc Tử một bức ảnh chụp cảnh nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát. Nhận được ảnh, Hàn Mặc Tử rất vui. Chàng liền làm ngay bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ’’ . Trong Un grand poète vietnamien : Hàn Mặc Tử, học già Thái Văn Kiểm đã chú thích như sau : ‘‘Vĩ Dạ : quartier mandarinal et aristocratique de Huế’’ (Vĩ Dạ : thôn quan lại, hoàng phái xứ Huế).
Đây thôn Vĩ Dạ là thơ mới bảy chữ, gồm ba khổ :
* khổ 1 :
câu 1 : Sao anh không về thăm thôn Vĩ ? Giới thiệu không gian (thôn Vĩ). ‘‘Về’’, vì tuy không đi chung một chuyến đò mà tưởng như đã thân quen, người viễn khách về lại chốn cũ.
câu 2 : Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên : nói đến thời gian, vào lúc hừng đông.
câu 3 : Vườn ai mướt quá xanh như ngọc : không gian thu hẹp là vườn cau, khóm trúc.
câu 4 : Lá trúc che ngang mặt chữ điền : Người thôn nữ e ấp núp sau cành trúc, che ngang khuôn mặt tiểu thư khuê các, giống như tấm hình ‘‘nàng mặc áo lụa dài trắng đứng dưới vòm cây xanh mát’’.
Tác giả gieo vần gián cách, minh họa cho sự khắc khoải đợi trông.
Khổ 1 có 17 chữ vần bằng, 11 chữ vần trắc nên hơi thơ thoảng nhẹ như sương mai.
Câu 1 : tác giả sử dụng một lần chữ ‘‘anh’’ ; câu 10 một lần chữ ‘‘em’’. Còn lại là bốn chữ ‘‘ai’’, mỗi lần mang ý nghĩa khác nhau:
- câu 3 : Vườn ai mướt quá xanh như ngọc (ai : thôn nữ).
- câu 7 : Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó (ai : người lái đò).
- câu 12 : Ai biết tình ai có đậm đà (‘‘ai’’ đầu là viễn khách; ‘‘ai’’ sau là thôn nữ).
* khổ 2 :
câu 5 : Gió theo lối gió / mây đường mây. Cách ngắt câu : 4 rồi 3 chữ, tạo thành tiết tấu nhịp nhàng. Cách ngắt câu còn nói lên sự chia lìa, tan tác của mây và gió, của viễn khách và thôn nữ.
câu 6 : Dòng nước buồn thiu / hoa bắp lay. Nước sầu trôi lờ lững, bắp sầu nên nhẹ lay.
câu 7 : Vườn ai mướt quá xanh như ngọc. Tác giả biến sông Hương thành sông Trăng. Nhà thơ hỏi con thuyền liệu có xuôi dòng, chở kịp vầng nguyệt bạch, là người viễn khách hóa thân, vật vờ trên sông Hương, về kịp thăm thôn Vĩ, và cũng là thôn nữ ?
câu 8 : Lá trúc che ngang mặt chữ điền : Khuôn mặt thôn nữ chữ điền e ấp sau cành trúc la đà.
Số chữ vần trắc chỉ còn là 9. Tác giả tăng thêm vần bằng là tăng niềm nhớ nhung da diết, tăng nỗi u hoài day dứt không nguôi.
* khổ 3 :
câu 9 : Mơ khách đường xa / khách đường xa. ‘‘Khách đường xa’’ lặp lại hai lần, réo rắt nhạc sầu mong đợi.
câu 10 : Áo em trắng quá nhìn không ra. Lần đầu và cũng là lần cuối, thi nhân gọi người thôn nữ là ‘‘em’’.
câu 11 : Ở đây sương khói mờ nhân ảnh. Thời gian chuyển thành sương khói hoàng hôn. Vì viễn khách không về thăm thôn Vĩ, thôn nữ chỉ còn là nhân ảnh nhạt nhòa, hay nói đúng hơn là tâm ảnh.
câu 12 : Ai biết tình ai có đậm đà. Chữ ai lập lại hai lần là cung thương hồ cầm. Tuy không gặp nhau, viễn khách và thôn nữ cùng chia nhau chữ ai, sầu ai oán.
Số chữ vần trắc chỉ còn 7 khiến câu thơ nghe như tiếng thở dài não nuột.
Đây thôn Vĩ Dạ
Sao anh không về chơi thôn Vĩ ?
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền.
Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông Trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay ?
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà.
Tác giả có lần thổ lộ : ‘‘Vườn thơ tôi rộng rinh không bờ bến. Càng đi xa là càng ớn lạnh.’’ Vườn thôn Vĩ Dạ có bờ tường cách ngăn. Còn vườn thơ Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử rộng rinh làm ta ớn lạnh. Hồn thơ Hàn Mặc Tử vượt thời gian và vượt cõi không gian.
Năm 2011, nhà xuất bản Arfuyen dịch thơ Hàn Mặc Tử sang tiếng Pháp, lấy thôn Vĩ đặt tên cho toàn tập : Le hameau des roseaux. Dịch giả đã chuyển hóa thôn Vĩ sang thôn sậy, có lẽ vì sậy buông xõa như tóc mây, không khác gì hoa bắp. Tên bài thơ được dịch là Voici le Hameau des Roseaux.
Đây thôn Vĩ Dạ được coi là tuyệt bút. Tuy thi nhân không về thăm thôn Vĩ, nhưng hồn thi nhân còn lưu lạc đất Thần Kinh. Ngày nay, có con đường ở thôn Vĩ mang tên Hàn Mặc Tử. Và trong tâm hồn nhân thế vẫn khắc ghi những bài thơ thần bút của thi nhân.
Linh mục Thi sĩ Cung Chi và nhóm Thư viện Giáo xứ
Thay kết luận : Vần thơ nhập thể :
Đỗ Phủ nhủ lòng : ‘‘Thơ chưa làm kinh động lòng người thì chết chưa yên’’. (Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu (语不惊人, 死不休). Thơ tin cậy mến của Hàn Mặc Tử thực sự làm kinh động lòng người. Mỗi câu mỗi chữ đều dính cân não, đều tràn huyết lệ :
Ta muốn hồn trào ra đầu ngọn bút
Mỗi lời thơ đều dính não cân ta.
Trong bài Ave Maria, nhà thơ nhận mình là Thánh thể kết tinh. Ý tưởng này lại càng làm nổi bật ý nghĩa nhập thể : ‘‘Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta’’. (Ga 1,14).
Nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh thi sĩ Hàn Mặc Tử, chúng tôi có bài Đường thi, xin chép lại sau đây để nói lên tâm tình biết ơn của một kẻ hậu sinh yêu thơ họ Hàn:
Vần thơ nhập thể (poésie incarnée)
Vần thơ nhập thể nhẹ hơi sương
Trí não trào dâng quá lạ thường
Khắc khoải linh hồn tràn huyết lệ
Mê man xác thịt rướm đau thương Niềm tin chất ngất thơ mầu nhiệm
Cậy mến miên man dạ vấn vương
Kỷ niệm trăm năm Hàn Mặc Tử
Thuyền trăng thấp thoáng bến sông Hương.
Thư viện Fels (Paris), ngày 13 tháng 3 năm 2012
Lê Đình Thông
Ghi chú
(1) Đặng Tiến, Đức tin trong thơ Hàn Mặc Tử, Saigon, Văn, (bán nguyệt san) 01/06/1071.
(2) Tuyển tập Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên tuyển chọn và giới thiệu, Hà Nội, nhà xuất bản Văn học, 1987.
(3) Thái Văn Kiểm, Un grand poète vietnamien : Hàn Mặc Tử, Saigon, Ed. France-Vietnam, 1950.
(4) Bản của Chế Lan Viên chép là : Chầm chậm cho mình giữ mối giây (sđd, tr. 42). Bản của Thái Văn Kiểm (sđd, tr 34) chép là : Chầm chậm cho mình gởi mối giây.
(5) Bạn bè vong mệnh (亡命) : bạn bè trốn tránh hoạn nạn.
(6) Nguyễn Văn Xê, Nhớ Hàn Mặc Tử, trong Quách Tấn, Đôi nét về Hàn Mặc Tử, Paris, nhà xuất bản Quê Mẹ, 1988, tr. 181.
(7) Hàn Mặc Tử, Chơi giữa mùa trăng, Paris, Lá Bối, 1977, tr. 71.
(8) Chúng tôi chép lại bản tiếng Pháp do Hàn Mặc Tử sáng tác để tiện việc tra cứu hoặc đối chiếu giữa nguyên bản tiếng Pháp và tiếng Việt :
‘‘Anges du ciel, anges de Dieu, anges de paix et de gaïté, apportez-moi une couronne.
Je veux me baigner dans l’océan de lumière et d’amour divin.
Car ici-bas s’accomplissent des miracles qui tiennent les hommes muets d’admiration en contemplant l’œuvre mystique du Très-Haut.
Anges du ciel, anges de Dieu, anges de paix et de gaïté, voyez-vous cette lumière diaphane qui se précise, cette blancheur de neige, cette forme immaculée, cette âme apparue au monde ? Je crois au premier abord que c’est l’esprit des saints, la poésie, la quintessence de la prière, qui au lieu de s’exhaler en Parfum et en Éther, prend la modeste résolution de se faire créature ?
Anges du ciel, anges de Dieu, anges de paix et de gaïté, applaudissez : car ce sont les mères et les sœurs de saint François d’Assise qui descendent au monde pour calmer les douleurs et les peines des faibles mortels, des malades et des lépreux tels que nous sommes. Ô Thérèse d’Avila !
Je veux chanter des louanges, me désaltérer de leurs douces paroles quand elles chantent : Hosanna ! Hosanna !
Je veux toujours admirer cette blancheur immaculée, cette fraîcheur, cette lumière, car tout cela est l’emblème de la
PURETÉ DE L’ÂME
Anges du ciel, anges de Dieu, anges de gaïté, lancez des roses et des nénuphars, des chants mélodieux et des notes embaumées et versez avec effusion les vertus, le courage et le bonheur, parmi les servantes de Dieu.
François TRÍ
Deo Gratias
Nuit de mercredi
24 octobre 1940’’
(9) Phạm Công Thiện, ‘‘Thể truyện ký nhân đọc quyển Hàn Mạc Tử của Trần Thanh Mại’’, trong Quách Tấn, sđd, tr.198.
(10) Thiện Nam Nguyễn Bá Tín, Hàn Mặc Tử anh tôi, Paris, nhà xuất bản Tin, 1990, tr. 49.
(11) Saint Thomas d’Aquin, Somme théologique, tome 2, Paris, Cerf, 1984, tr. 377.
(12) Saint Augustin, Œuvres de saint Augustin, 9, 1ère série : Opuscules IX, Exposés généraux de la foi, Paris, Desclée de Brouwer et Cie, Enchiridium/sive de fide, spe et charitate, tr. 115.
(13) Hàn Mặc Tử, ‘‘Quan niệm thơ’’, trong Chơi giữa mùa trăng, tr. 34-35.
(14) Hàn Mặc Tử, ‘‘Ra đời’’, trong Chơi giữa mùa trăng, tr. 61.
(15) Ibid.
(16) Tuyển tập Hàn Mặc Tử, tr. 95.
(17) Bùi Xuân Bào, ‘‘Thi ảnh khẩu cảm trong thơ Hàn Mặc Tử’’, trong tập san Khoa học nhân văn (tập II), Saigon, tr. 163-172.
(18) Thái Văn Kiểm, sđd, tr. 43.
(19) Quách Tấn, sđd, tr. 45-46.
(20) Nguyễn Bá Tín, sđd, tr. 39, 79, 81.
(21) Hàn Mặc Tử, ‘‘Quan niệm thơ’’, trong Chơi giữa mùa trăng, tr. 37.
(22) Sđd, tr. 40.
(23) Quách Tấn, sđd.
(24) Thái Văn Kiểm, sđd, tr. 24
(25) Hàn Mặc Tử, Le Hameau des Roseaux, Paris, Ed. Arfuyen, 2001, p. 59.
(26) Chơi giữa mùa trăng, tr. 15-17.
(27) Nguyễn Bá Tín, sđd, tr. 18, 31, 32.
(28) Hàn Mặc Tử, ‘‘Kêu gọi’’, trong Chơi giữa mùa trăng, tr. 28.
(29) Hàn Mặc Tử, ‘‘Tình’’, trong Chơi giữa mùa trăng, tr. 47.
(30) Hàn Mặc Tử, ‘‘Thơ’’, trong Chơi giữa mùa trăng, tr.55.
(31) Nguyễn Bá Tín, sđd, tr. 50.